Đội ngũ trí thức ngành giáo dục ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Đội ngũ trí thức ngành giáo dục là bộ phận trí thức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục

và đào tạo. Việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ này có ý nghĩa quan trọng góp phần phát

triển kinh tế - xã hội nói chung và đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo nói riêng. Tuy nhiên, đội

ngũ trí thức ngành giáo dục ở nước ta hiện nay còn hạn chế. Để phát triển đội ngũ này chúng ta cần

phải: một là, nhận thức đúng vai trò của đội ngũ trí thức ngành giáo dục trong sự nghiệp đổi mới

căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; hai là, đổi mới căn bản công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

trí thức ngành giáo dục; ba là, tập trung quy hoạch, nâng cấp các trường, khoa sư phạm, các cơ sở

đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý; bốn là, có chính sách đặc biệt đối với đội ngũ trí

thức ngành giáo dục, xây dựng chế độ lương và phụ cấp ưu đãi hợp lý và thỏa đáng cho nhà giáo và

cán bộ quản lý giáo dục.

pdf 7 trang yennguyen 4780
Bạn đang xem tài liệu "Đội ngũ trí thức ngành giáo dục ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đội ngũ trí thức ngành giáo dục ở Việt Nam hiện nay

Đội ngũ trí thức ngành giáo dục ở Việt Nam hiện nay
 84
Đội ngũ trí thức ngành giáo dục ở Việt Nam hiện nay 
Đoàn Nam Chung1 
Tóm tắt: Đội ngũ trí thức ngành giáo dục là bộ phận trí thức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục 
và đào tạo. Việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ này có ý nghĩa quan trọng góp phần phát 
triển kinh tế - xã hội nói chung và đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo nói riêng. Tuy nhiên, đội 
ngũ trí thức ngành giáo dục ở nước ta hiện nay còn hạn chế. Để phát triển đội ngũ này chúng ta cần 
phải: một là, nhận thức đúng vai trò của đội ngũ trí thức ngành giáo dục trong sự nghiệp đổi mới 
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; hai là, đổi mới căn bản công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ 
trí thức ngành giáo dục; ba là, tập trung quy hoạch, nâng cấp các trường, khoa sư phạm, các cơ sở 
đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý; bốn là, có chính sách đặc biệt đối với đội ngũ trí 
thức ngành giáo dục, xây dựng chế độ lương và phụ cấp ưu đãi hợp lý và thỏa đáng cho nhà giáo và 
cán bộ quản lý giáo dục. 
Từ khóa: Trí thức; giáo dục; đào tạo. 
Abstract: The educational intelligentsia is comprised of the intellectuals who work in the field 
of education and training. Their development and quality upgrading bear a significant meaning in 
contributing to the socio-economic development in general and the ensuring of education and 
training quality in particular. Among them, however, are still weaknesses and things to be 
improved. For their development, we need: firstly, to be correctly aware of their role in the cause of 
fundamental and comprehensive renovation of education and training; secondly, to renovate 
fundamentally the education and training for them; thirdly, to focus on planning and upgrading 
pedagogical institutions and faculties, facilities for education and training of teachers and 
educational managers; fourthly, to devise and apply special policies for educational intelligentsia, 
developing reasonable and rational preferential regulations on salaries and allowances for teachers 
and educational managers. 
Keywords: Intelligentsia; education; training. 
1. Mở đầu 
Trong công cuộc đổi mới đất nước, 
Đảng ta luôn coi giáo dục và đào tạo, khoa 
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là 
động lực phát triển kinh tế - xã hội. Theo 
đó, đội ngũ trí thức nước ta ngày càng phát 
triển về số lượng và chất lượng. Hội nghị 
lần thứ VII Ban Chấp hành (BCH) Trung 
ương Đảng khóa X đã ra Nghị quyết số 27 - 
NQ/TW ngày 6 tháng 8 năm 2008 về xây 
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy 
mạnh công nghiệp hóa, 1hiện đại hóa đất 
nước. Nghị quyết này là sự cụ thể hóa chủ 
trương nhất quán của Đảng về phát triển đội 
ngũ trí thức, một bộ phận quan trọng của 
đội ngũ trí thức là trí thức ngành giáo dục 
(đội ngũ này gồm có nhà giáo và nhà quản 
lý giáo dục). Việc nâng cao chất lượng đội 
ngũ trí thức ngành giáo dục có ý nghĩa quan 
trọng trong chiến lược phát triển giáo dục 
1 Thạc sĩ, Trường Đại học Điện Lực. ĐT: 
0982645668. Email: chungdn@edu.vn 
 Đoàn Nam Chung 
 85
và đào tạo. Bài viết này phân tích thực trạng 
đội ngũ trí thức ngành giáo dục ở Việt Nam 
hiện nay và một số giải pháp phát triển đội 
ngũ trí thức ngành giáo dục. 
2. Thực trạng đội ngũ trí thức ngành 
giáo dục 
2.1. Về số lượng và cơ cấu 
Trong 10 năm qua, nhìn chung quy mô 
giáo dục nước ta ở tất cả các cấp, bậc học 
đều tăng. Theo số liệu của Tổng cục Thống 
kê, tính đến năm 2014, tổng số giáo viên cả 
nước là 1,24 triệu người (tăng so với năm 
2013 là 14.383 giáo viên), trong đó gồm: 
277.684 giáo viên mầm non, 856.730 giáo 
viên phổ thông, 11.020 giáo viên trung cấp 
chuyên nghiệp, 91.420 giảng viên đại học, 
cao đẳng và khoảng 300 nghìn cán bộ quản 
lý giáo dục các cấp. 
Tuy nhiên về chất lượng nhìn chung đội 
ngũ trí thức ngành giáo dục chưa đáp ứng 
được yêu cầu phát triển. So với các nước 
trong khu vực và trên thế giới, tỷ lệ số 
lượng giáo viên trên số học sinh nhất là ở 
bậc đại học còn thấp. Tính đến năm 2015, ở 
bậc đại học, cao đẳng, tỷ lệ sinh viên/giảng 
viên là xấp xỉ 26/1; trong khi đó, ở các 
nước có nền giáo dục đại học tiên tiến trên 
thế giới thì tỷ lệ này nằm trong khoảng 15 - 
20/1. Cá biệt, Đại học Harvard có tỉ lệ sinh 
viên/giảng viên là 23/2. 
Bên cạnh đó, cơ cấu đội ngũ trí thức nhà 
giáo còn có sự bất hợp lý về cấp, bậc học, 
theo chuyên môn, ngành nghề và vùng 
miền. Ðối với giáo viên tiểu học, nếu triển 
khai thực hiện dạy học hai buổi/ngày thì cả 
nước vẫn thiếu hơn 51.000 giáo viên. Ngoài 
ra, đối với bậc học trung học cơ sở (THCS) 
và trung học phổ thông (THPT) vẫn còn 
nhiều trường thiếu giáo viên các môn có 
tính đặc thù như: công nghệ, âm nhạc, mỹ 
thuật, thể dục, giáo dục công dân, ngoại 
ngữ... Điều đó dẫn đến tình trạng giáo viên 
dạy kiêm nhiệm không đúng chuyên môn 
đào tạo. Đối với các trường đại học, cao 
đẳng, cơ cấu thành phần giảng viên có học 
vị tiến sĩ trên tổng số còn thấp. Tỉ lệ này ở 
các trường đại học, cao đẳng nước ta chỉ 
mới đạt con số 12,43%, trong khi đó ở các 
trường đại học, cao đẳng trung bình ở 
phương Tây là khoảng 70%. 
2.2. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ 
Nhìn chung, đội ngũ trí thức ngành giáo 
dục từng bước đạt chuẩn trình độ đào tạo, 
trong đó một phần đáng kể đã đạt trình độ 
trên chuẩn. Có thể thấy, phần lớn nhà giáo 
có năng lực sư phạm, đáp ứng được yêu cầu 
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. 
Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục 
các cấp đều được nâng lên theo chuẩn và 
vượt chuẩn. Ở phổ thông, cán bộ quản lý 
giáo dục có học vị cử nhân gần như đạt 
100%. Ở cao đẳng, đại học, tỷ lệ giáo viên 
có học vị thạc sĩ, tiến sĩ đạt từ 20% - 50%. 
Hiện nay, trong số 91.420 giảng viên đại 
học, cao đẳng, có 517 người có học hàm 
giáo sư, 3.000 người có học hàm phó giáo 
sư và 9.562 người có học vị tiến sĩ. Công 
tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ (theo 
các chương trình, dự án) cho cán bộ quản lý 
các cấp những năm qua đã được quan tâm, 
góp phần nâng cao năng lực quản lý trong 
các cơ sở, ở các cấp quản lý giáo dục. Tính 
đến năm 2013, đã có trên 30.000 lượt nhà 
giáo và cán bộ quản lý được tập huấn 
nghiệp vụ (do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ 
chức); riêng đội ngũ cán bộ quản lý trường 
phổ thông có tới hơn 13.000 lượt người 
được tham dự chương trình liên kết Việt 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 86
Nam - Singapore. Đến tháng 6/2014, Bộ 
Giáo dục và Đào tạo đã tuyển và cử đi học 
nước ngoài được 1.013 giảng viên bằng 
ngân sách; điều đó góp phần nâng cao trình 
độ chuyên môn của đội ngũ trí thức ngành 
giáo dục. 
Đội ngũ trí thức ngành giáo dục không 
ngừng đổi mới sáng tạo chuyên môn, 
nghiệp vụ, bước đầu tiếp cận phương pháp 
giáo dục và phương thức quản lý tiên tiến. 
Ở các cơ sở giáo dục mầm non đã có những 
dấu hiệu tốt về việc tổ chức chăm sóc, nuôi 
dạy trẻ theo phương pháp khoa học. Ở các 
cấp học phổ thông đã có những thay đổi lớn 
về phương pháp soạn bài, giảng bài, tổ chức 
giáo dục theo chủ đề, chủ điểm; giáo viên 
đã biết khơi gợi tính tích cực, tự giác của 
học sinh. Công tác đào tạo nghề cũng đã 
bám sát nhu cầu xã hội, giảm bớt lý thuyết, 
tăng thực hành, gắn kết cơ sở đào tạo với 
các cơ sở sản xuất. Các cơ sở giáo dục cao 
đẳng, đại học đã hướng vào phương thức 
đào tạo tiên tiến, khắc phục kiểu dạy học 
nhồi nhét kiến thức sang hướng dẫn, tổ 
chức sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Đến 
nay, việc đổi mới tuy chưa được như mong 
muốn, chưa xóa bỏ được nếp tư duy giáo 
dục xơ cứng, mệnh lệnh, áp đặt, nhưng 
cũng đã có tác động tích cực. Nhìn chung, 
phương pháp giáo dục của giảng viên và 
phương thức quản lý của cán bộ quản lý 
đang có chuyển biến tích cực. Đại bộ phận 
giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục ở các 
trường đại học, cao đẳng đang hưởng ứng 
mạnh mẽ phong trào đổi mới phương pháp 
dạy học, phương pháp giáo dục theo hướng 
phát triển năng lực của sinh viên. Những 
phương pháp giảng dạy hiện đại được sử 
dụng (như phương pháp nêu vấn đề, 
phương pháp diễn giảng, phương pháp 
xêmina, phương pháp điều phối, phương 
pháp dự án), kết hợp với việc sử dụng 
phổ biến các phương tiện dạy học hiện đại 
(sử dụng máy tính, máy chiếu, internet, các 
phần mềm dạy học). Điều này đã có tác 
động tích cực đến chất lượng học tập của 
người học. 
2.3. Về phẩm chất đạo đức 
Đa số trí thức ngành giáo dục (nhà giáo 
và cán bộ quản lý giáo dục) vẫn giữ được 
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp trong sự 
phát triển phức tạp của cơ chế thị trường. 
Xã hội luôn đặt ra những yêu cầu rất cao về 
phẩm chất đạo đức của nhà giáo. Bởi lẽ, sản 
phẩm của giáo dục là con người, nhà giáo 
cần phải có đạo đức và đạo đức của nhà 
giáo có ý nghĩa quan trọng tới việc hình 
thành và phát triển nhân cách của người 
học. Nhà giáo chân chính dạy học trò không 
chỉ bằng vốn tri thức, hiểu biết, mà còn 
bằng chính nhân cách đạo đức trong sáng 
của mình, để cảm hóa, để giáo dục và khai 
sáng. “Dạy chữ” là quan trọng, nhưng việc 
“dạy người” còn quan trọng hơn. Mục đích 
của việc học đã được Tổ chức Giáo dục 
Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc 
(UNESCO) khẳng định là: học để biết, học 
để làm, học để chung sống, học để khẳng 
định mình, nói cách khác, học để làm người. 
Người học thường lấy hình ảnh các nhà giáo 
làm hình mẫu để noi theo. Nhiệt huyết, say 
mê, lương tâm, trách nhiệm, sự tận tụy, tấm 
gương học tập và rèn luyện cùng nhân cách 
trong sáng của nhà giáo sẽ tạo một dấu ấn vô 
cùng sâu đậm trong tâm hồn các thế hệ học 
sinh. Trong cơ chế thị trường, nhà giáo và 
cán bộ quản lý giáo dục là nhân tố quyết 
định cho những thành công của giáo dục 
nước nhà, đóng góp quan trọng vào việc 
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo 
 Đoàn Nam Chung 
 87
nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự 
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Nhưng bên cạnh đó, một bộ phận đội 
ngũ trí thức ngành giáo dục còn suy thoái 
về đạo đức. Tình trạng này thường xuyên 
được phản ánh trên các phương tiện thông 
tin đại chúng. Một số nhà giáo tự đánh mất 
lòng tin của xã hội, làm xấu dần đi hình ảnh 
của mình trong mắt học trò. Một số nhà 
giáo chưa thật sự tâm huyết với nghề, chưa 
có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn và 
phương pháp sư phạm; bằng lòng với kiến 
thức đã học trong các trường cao đẳng, đại 
học. Phương pháp dạy của họ khô cứng, 
đơn điệu; họ chỉ đọc sách giáo khoa cho 
học sinh chép. Cách dạy này không phù 
hợp với nền giáo dục hiện nay, không 
sáng tạo, không đảm bảo chất lượng 
chuyên môn. 
2.4. Nguyên nhân của hạn chế 
Thứ nhất, còn thiếu một chiến lược và 
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí 
thức ngành giáo dục cơ bản và dài hơi. 
Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí 
thức ngành giáo dục cần phải được coi là 
một bộ phận cấu thành quan trọng của 
chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, 
gắn bó hữu cơ và trở thành điều kiện của 
chiến lược cán bộ. Chiến lược ấy phải phát 
triển hệ thống giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng 
đại học và sau đại học ngang tầm với khu 
vực, thế giới; phát hiện, bồi dưỡng, thu hút 
và sử dụng nhân tài; lựa chọn, bồi dưỡng, 
sử dụng cán bộ làm công tác giáo dục phát 
triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ gắn 
với thu hút và phát huy tiềm năng đội ngũ 
trí thức; có chính sách đãi ngộ thỏa đáng. 
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, 
Đảng và Nhà nước quyết định đầu tư xây 
dựng 2 Đại học Quốc gia và 2 Trường Đại 
học Sư phạm trọng điểm (ở Hà Nội và 
Tp.Hồ Chí Minh), coi đó như những mũi 
nhọn, những đầu tàu, những quả đấm chiến 
lược, có ý nghĩa đột phá khẩu để đưa giáo 
dục đại học Việt Nam vươn ra thế giới 
trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, gần 2 
thập kỷ đã trôi qua, vì nhiều lý do khác 
nhau, khát vọng đó vẫn còn ở phía trước, 
và bây giờ các nhà hoạch định chiến lược 
lại đang loay hoay kiếm tìm những mô 
hình đại học tầm cỡ quốc tế, đại học ngang 
tầm khu vực Hà Nội đã dành mấy trăm 
héc ta đất để quy hoạch một số trường đại 
học lớn, nhưng lâu nay không có biến 
chuyển gì và rất có thể quy hoạch vẫn chỉ 
là quy hoạch treo. 
Thứ hai, chưa có chính sách đồng bộ và 
hợp lý về phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và 
sử dụng nhân tài: còn lúng túng và thiếu 
đồng bộ trong lựa chọn, cử cán bộ trẻ, sinh 
viên ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài và sử 
dụng họ sau khi đào tạo; các trường đại học 
trong nước có chất lượng thấp về đào tạo, 
nghiên cứu khoa học, chưa đạt chuẩn quốc 
tế. Chính sách tiền lương đối với đội ngũ, 
giáo viên còn thấp so với mức sống trung 
bình của dân cư và mức thu nhập trung bình 
của cùng đối tượng này ở các nước trong khu 
vực và trên thế giới. Thu nhập và mức sống 
của giảng viên đại học cũng quá chênh lệch. 
Ngay ở Đài Loan, lãnh thổ rất gần Việt Nam, 
lương giảng viên đại học khoảng 38 triệu 
đồng, lương giáo sư khoảng 45 triệu đồng/ 
tháng [5]. Lương của giảng viên đại học ở 
Việt Nam phổ biến chỉ bằng 1/5 - 1/6 lương 
của giảng viên đại học ở Đài Loan. Rất nhiều 
giáo viên trẻ phải quá vất vả cho sự mưu sinh, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 88
lương thấp, phải đi thuê nhà ở tạm, phải làm 
thêm đủ thứ nghề để sống. Điều này ảnh 
hưởng rất lớn đến chất lượng đội ngũ trí thức 
giáo dục nói riêng và chất lượng toàn ngành 
giáo dục nói chung. 
Thứ ba, chính sách đãi ngộ chưa thật rõ 
ràng, chưa đồng bộ, không hợp lý và không 
đủ để đáp ứng các yêu cầu về điều kiện làm 
việc. Bởi vậy, nhiều người có tài lại thường 
gặp phải rất nhiều khó khăn, một bộ phận 
thoái chí, ít hy vọng thay đổi hoàn cảnh. 
Một bộ phận trí thức ngành giáo dục có 
trình độ chuyên môn cao đã lựa chọn việc 
phục vụ các cơ quan nghiên cứu khoa học, 
công nghệ nước ngoài để phát huy tối đa 
năng lực công tác. 
Bên cạnh đó, việc đầu tư kinh phí cho 
nghiên cứu khoa học vừa ít, vừa manh mún, 
phương thức quản lý lạc hậu, bất cập, quá 
câu nệ vào những thủ tục phức tạp, không 
chú ý khuyến khích hiệu quả. Mức đầu tư 
cho khoa học công nghệ chưa tương xứng 
với quốc sách hàng đầu. Năm 2015, ngân 
sách nhà nước dành ra 1,52% chi cho lĩnh 
vực khoa học công nghệ, tương đương 
17.300 tỉ đồng và 20% trong số này dành 
cho lĩnh vực nghiên cứu. Mức đầu tư như 
vậy chỉ bằng 1/100 của Hàn Quốc. Nếu như 
Hàn Quốc đầu tư 1.100 USD/người để làm 
nghiên cứu khoa học thì ở Việt Nam mới 
đầu tư có 10 USD, trong đó 5 USD từ ngân 
sách nhà nước, 5 USD từ xã hội. Cụ thể, ở 
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ 
Chí Minh, kinh phí cấp cho việc nghiên cứu 
khoa học của sinh viên quá thấp, chỉ 
khoảng 6 - 7 triệu đồng/năm với nhiều 
những bất cập khác. Mỗi trường đại học sư 
phạm, nhiều nhất chỉ có thể triển khai 7 - 10 
đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. Tỷ lệ 
giảng viên có đề tài nghiên cứu khoa học 
cấp trường cũng chỉ 10 - 15%. Nguồn kinh 
phí ít ỏi như vậy sẽ không khuyến khích 
được đội ngũ trí thức nghiên cứu, phát 
minh, sáng chế ra những sản phẩm khoa 
học công nghệ có giá trị. 
3. Một số giải pháp phát triển đội ngũ 
trí thức ngành giáo dục 
Một là, cần nhận thức đúng vai trò của 
đội ngũ trí thức ngành giáo dục trong sự 
nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục 
và đào tạo. Để phát triển giáo dục, cần phải 
có sự tương hỗ của nhiều yếu tố: nguồn tài 
chính, nguồn lực con người, cơ sở vật chất, 
sự hỗ trợ của xã hội. Trong các yếu tố đó, 
trí thức ngành giáo dục là nhân tố không thể 
thay thế được, họ chính là điều kiện tiên 
quyết đảm bảo chất lượng giáo dục quốc 
gia. Mục tiêu chung của nền giáo dục nước 
ta là đào tạo con người Việt Nam phát triển 
toàn diện (có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, 
thẩm mỹ và trình độ cao về nghề nghiệp). 
Trong quá trình thực hiện mục tiêu chung, 
mỗi cấp bậc học, mỗi môn học đều có mục 
tiêu phù hợp. Nhà giáo là một chủ thể có 
vai trò quan trọng hàng đầu trong quan hệ 
giữa người dạy và người học, đây là mối 
quan hệ trọng tâm của giáo dục; trong môi 
trường giáo dục. Kinh nghiệm ở một số 
nước có nền giáo dục tiên tiến cho thấy 
rằng, cần nhận thức rõ vị trí, vai trò của đội 
ngũ trí thức ngành giáo dục trong mọi chiến 
lược phát triển. 
Hai là, cần đổi mới căn bản công tác đào 
tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức ngành giáo 
dục. Đào tạo giáo viên phải hướng tới mục 
 Đoàn Nam Chung 
 89
tiêu cung ứng nguồn nhân lực chủ yếu cho 
sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo 
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa và hội nhập quốc tế. Cần tổng kết sâu 
sắc, toàn diện mô hình đào tạo trong các 
trường, các khoa sư phạm, đồng thời đánh 
giá, rút kinh nghiệm về một số mô hình đào 
tạo khác; kết hợp học tập mô hình đào tạo 
giáo viên từ các nước có nền giáo dục tiên 
tiến để xây dựng mô hình đào tạo giáo viên 
phù hợp với điều kiện và yêu cầu hiện nay 
của đất nước. Đổi mới sâu sắc phương thức 
đào tạo theo hướng dạy cho nhà giáo biết 
cách tự tìm kiếm kiến thức, rèn kĩ năng sư 
phạm, không ngừng tu dưỡng phẩm chất 
đạo đức nghề giáo, có khả năng thích ứng 
thực tiễn giáo dục. Đổi mới nội dung, 
chương trình, phương thức bồi dưỡng nhà 
giáo và cán bộ quản lý một cách khoa học, 
bảo đảm tính hiệu quả, thiết thực, đáp ứng 
yêu cầu đổi mới giáo dục ở từng cấp, bậc 
học. Công tác bồi dưỡng phải hướng tới sự 
khuyến khích tính tự giác, tích cực tự học, 
tự bồi dưỡng, khả năng thích ứng với những 
biến đổi của giáo dục trong nước và thế 
giới. Về vấn đề này, cần thiết phải nghiên 
cứu, học tập kinh nghiệm của các nước có 
nền giáo dục hiện đại trên thế giới. 
Ba là, cần tập trung quy hoạch, nâng cấp 
các trường, khoa sư phạm, các cơ sở đào 
tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý. 
Muốn có đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản 
lý giỏi, trước hết phải xây dựng mạng lưới 
trường sư phạm, khoa sư phạm, các cơ sở 
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý đủ mạnh. 
Vì vậy, cần tiến hành một số biện pháp như: 
xác định cấp độ đào tạo giáo viên phù hợp 
với xu thế phát triển giáo dục của đất nước 
(từ cao đẳng trở lên); dự báo về nhu cầu 
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên địa 
bàn toàn quốc, gắn với cấp học, môn học, 
theo từng vùng, miền, địa phương; từ đó 
xác định quy mô đào tạo, tuyển dụng, bảo 
đảm tính phù hợp, khắc phục tình trạng thất 
nghiệp của sinh viên sư phạm; xây dựng, 
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các 
trường, khoa sư phạm theo hướng chuẩn 
hóa trình độ đào tạo, có phương pháp đào 
tạo hiện đại, có phẩm chất sư phạm thật sự 
“mô phạm” để giảng dạy và giáo dục sinh 
viên thành nhà giáo mẫu mực trong tương 
lai; tăng cường sự liên kết, phối hợp đào tạo 
giữa các trường sư phạm, các khoa sư phạm 
với các trường, các khoa ngoài sư phạm, 
Nhà nước bảo đảm nguồn ngân sách cho 
các trường, các khoa sư phạm có thể thực 
hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà 
giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở từng cấp 
học, bậc học. 
Bốn là, cần có chính sách đặc biệt đối 
với đội ngũ trí thức ngành giáo dục. Xây 
dựng chế độ lương và phụ cấp ưu đãi hợp lý và 
thỏa đáng cho nhà giáo và cán bộ quản lý giáo 
dục. Chế độ lương và phụ cấp được tính trên cơ 
sở hiệu quả công việc nhằm tạo ra tính nỗ lực 
phấn đấu hết mình của nhà giáo và cán bộ quản 
lý giáo dục đối với công việc đảm nhiệm. 
4. Kết luận 
Trong 30 năm đổi mới và hội nhập quốc 
tế, trí thức Việt Nam nói chung, trong đó có 
đội ngũ trí thức ngành giáo dục, đã đóng 
góp to lớn vào quá trình phát triển đất nước. 
Bằng lao động sáng tạo của mình, trí thức 
ngành giáo dục đã góp phần đào tạo những 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106) - 2016 
 90
lớp người lao động (học viên, sinh viên) 
cho xã hội. Đó là nguồn nhân lực chất 
lượng cao trong tương lai gần, những người 
có năng lực làm chủ công nghệ tiên tiến, có 
khả năng đổi mới và hiện đại hoá công 
nghệ truyền thống, từng bước sáng tạo 
những công nghệ mới, hiện đại, phù hợp 
với con người, với điều kiện và môi trường 
Việt Nam. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu 
của sự nghiệp đối với nước ta cần phải đẩy 
mạnh phát triển đội ngũ nhà giáo theo 
hướng đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về 
cơ cấu, nâng cao về chất lượng, đặc biệt 
chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm 
chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề 
nghiệp của nhà giáo. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Phạm Tất Dong (2011), Định hướng phát triển đội 
ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 [2] Nguyễn Thị Thu Hằng (2013), Nâng cao chất 
lượng đội ngũ giảng viên trong các trường đại 
học khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh 
khu vực phía Bắc, Luận văn Thạc sĩ Học viện 
Công nghệ Bưu chính viễn thông, Hà Nội. 
[3] Ngô Xuân Tùng (2002), Kinh tế tri thức - Xu 
thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nxb Đại học 
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
[4] Đức Vượng (2014), Thực trạng và giải 
pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam 
trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5] 
vong-giao-duc-dai-hoc-viet-nam 

File đính kèm:

  • pdfdoi_ngu_tri_thuc_nganh_giao_duc_o_viet_nam_hien_nay.pdf