Giá trị của bóng phóng thích thuốc Paclitaxel trong can thiệp mạch vành ở bệnh nhân tái hẹp trong stent và tổn thương mạch máu nhỏ
TÓM TẮT Đặt vấn đề: Ngay cả trong kỷ nguyên stent phủ thuốc, việc điều trị tái hẹp trong stent và tổn thương những mạch máu có đường kính nhỏ là một vấn đề. Để đóng góp một phần trong việc tìm ra phương pháp điều trị tốt cho những bệnh nhân này chúng tôi tiến hành nghiên cứu Đề tài: “Giá trị của bóng phóng thích thuốc Paclitaxel trong can thiệp mạch vành ở bệnh nhân tái hẹp trong stent và tổn thương mạch máu nhỏ” Phương pháp: Trong nghiên cứu tiền cứu 36 bệnh nhân, được điều trị với bóng phóng thích thuốc Paclitaxel thế hệ mới (3microgam/m2 diện tích bề mặt của bóng). Tất cả b/n đều được nong bằng bóng thường, sau đó dược nong bằng bóng phóng thích thuốc Paclitaxel ít nhất 60”. Điều trị 2 loại thuốc kháng ngưng tập tiểu cầu (Aspirin và Clopidogrel) tối thiểu 1 tháng. Kết quả: Nghiên cứu 36 bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ như sau: b/n ĐTĐ chiếm tỷ lệ 44,4%, b/n THA chiếm tỷ lệ 38,9%, b/n bị rối loạn Lipid máu chiếm tỷ lệ 30,6%, b/n hút thuốc lá chiếm tỷ lệ 30,6%. Qua 6 tháng theo dõi, kết quả điều trị của bóng phóng thích thuốc Paclitaxel đạt kết quả tốt 72,2%, xấu 27,8%. Bệnh nhân không bị ĐTĐ có kết quả tốt hơn bị ĐTĐ 95% so với 43,8%(P < 0,001),="" bệnh="" nhân="" không="" hút="" thuốc="" lá="" có="" kết="" quả="" tốt="" hơn="" hút="" thuốc="" lá="" 84%="" so="" với="" 45,5%(p="0,017)," nhóm="" bệnh="" nhân="" bị="" tổn="" thương="" mạch="" máu="" nhỏ="" có="" kết="" quả="" tốt="" hơn="" nhóm="" bệnh="" nhân="" tái="" hẹp="" trong="" stent="" 80,8%="" so="" với="" 50%="" (tuy="" nhiên="" sự="" khác="" biệt="" không="" có="" ý="" nghĩa,="" p="0,065)." kết="" luận:="" trong="" nghiên="" cứu="" của="" chúng="" tôi,="" điều="" trị="" tái="" hẹp="" trong="" stent="" và="" tổn="" thương="" mạch="" máu="" nhỏ="" bằng="" bóng="" phóng="" thích="" thuốc="" paclitaxel,="" kết="" quả="" tốt="" 72,2%,="" xấu="" 27,8%="" sau="" 6="" tháng="" theo="" dõi,="" kết="" quả="" điều="" trị="" ở="" nhóm="" bệnh="" nhân="" không="" hút="" thuốc="" lá,="" không="" đtđ="" tỏ="" ra="" ưu="" thế="">
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của bóng phóng thích thuốc Paclitaxel trong can thiệp mạch vành ở bệnh nhân tái hẹp trong stent và tổn thương mạch máu nhỏ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 243 GIÁ TRỊ CỦA BÓNG PHÓNG THÍCH THUỐC PACLITAXEL TRONG CAN THIỆP MẠCH VÀNH Ở BỆNH NHÂN TÁI HẸP TRONG STENT VÀ TỔN THƯƠNG MẠCH MÁU NHỎ Huỳnh Văn Thưởng* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Ngay cả trong kỷ nguyên stent phủ thuốc, việc điều trị tái hẹp trong stent và tổn thương những mạch máu có đường kính nhỏ là một vấn đề. Để đóng góp một phần trong việc tìm ra phương pháp điều trị tốt cho những bệnh nhân này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giá trị của bóng phóng thích thuốc Paclitaxel trong can thiệp mạch vành ở bệnh nhân tái hẹp trong stent và tổn thương mạch máu nhỏ” Phương pháp: Trong nghiên cứu tiền cứu 36 bệnh nhân, được điều trị với bóng phóng thích thuốc Paclitaxel thế hệ mới (3microgam/m2 diện tích bề mặt của bóng). Tất cả b/n đều được nong bằng bóng thường, sau đó dược nong bằng bóng phóng thích thuốc Paclitaxel ít nhất 60”. Điều trị 2 loại thuốc kháng ngưng tập tiểu cầu (Aspirin và Clopidogrel) tối thiểu 1 tháng. Kết quả: Nghiên cứu 36 bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ như sau: b/n ĐTĐ chiếm tỷ lệ 44,4%, b/n THA chiếm tỷ lệ 38,9%, b/n bị rối loạn Lipid máu chiếm tỷ lệ 30,6%, b/n hút thuốc lá chiếm tỷ lệ 30,6%. Qua 6 tháng theo dõi, kết quả điều trị của bóng phóng thích thuốc Paclitaxel đạt kết quả tốt 72,2%, xấu 27,8%. Bệnh nhân không bị ĐTĐ có kết quả tốt hơn bị ĐTĐ 95% so với 43,8%(P < 0,001), Bệnh nhân không hút thuốc lá có kết quả tốt hơn hút thuốc lá 84% so với 45,5%(P = 0,017), nhóm bệnh nhân bị tổn thương mạch máu nhỏ có kết quả tốt hơn nhóm bệnh nhân tái hẹp trong stent 80,8% so với 50% (tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa, P =0,065). Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, điều trị tái hẹp trong stent và tổn thương mạch máu nhỏ bằng bóng phóng thích thuốc Paclitaxel, kết quả tốt 72,2%, xấu 27,8% sau 6 tháng theo dõi, kết quả điều trị ở nhóm bệnh nhân không hút thuốc lá, không ĐTĐ tỏ ra ưu thế hơn. Từ khóa: Bóng phủ thuốc, tái hẹp trong stent, tổn thương mạch máu nhỏ. ABSTRACT THE VALUE OF A PACLITAXEL‐COATED DRUG‐ELUTING BALLOON IN CORONARY INTERVENTION IN PATIENTS WITH IN STENT RESTENOSIS AND SMALL BLOOD VESSEL LESION Huynh Van Thuong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 243 ‐ 247 Introduction: Even in the drug‐eluting stent (DES) era, the treatment of in‐stent restenosis (ISR) and small vessel lesion is still a relatively common problem. To contribute a part in finding better treatments for these patients, we research the topic: ʺThe value of a Paclitaxel‐coated drug‐eluting balloon in coronary intervention in patients with in stent restenosis and small blood vessel lesionʺ. Methods: In this prospective study about 36 patients with In Stent restenosis and small vessel lesion, treated with a new Paclitaxel‐eluting balloon (3.0 μg/m2 balloon surface area). All lesions were predilated using conventional balloon angioplasty, then the Paclitaxel‐eluting balloon was inflated for a minimum of 60 seconds. Dual antiplatelet therapy (Aspirin and Clopidogrel) was recommended for at least 1 month. Results: Study in 36 patients with risk factors as follows: 44.4% of patients were diabetic, 38.9% of patient were hypertensive, 30.6% of patients were dyslipidemias and smoking is 30.6% of patients. Afterr the six month * Bệnh viện đa khoa Tỉnh Khánh Hòa Tác giả liên lạc: TSBS. Huỳnh Văn Thưởng, ĐT: 0913.472.303, Email: drhuthuong@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 244 follow‐up, treated with a new Paclitaxel‐eluting balloon got good result with 72.2%, bad result with 27.8%. Patients without diabetes have better results than those having diabetes (95% vs. 43.8%) (P < 0.001), patients without smoking have better results than those smoking (84% vs. 45.5%) (P = 0.017), group of patients with small blood vessel lesion better results than patients with in‐stent restenosis (80.8% vs. 50%) (However, the difference was not significant, P = 0.065). Conclusion: In our study, treatment of in‐stent restenosis and small vessel lesion with new Paclitaxel‐ eluting balloon, had good result with 72.2%, bad result with 27.8% after 6 months of follow‐ up. Moreover, treatment results in patients without smoking and diabetes were better. Keyword: Drug eluting balloon, in‐stent restenosis, small vessel lesion ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời gian gần đây với sự phát triển rất mạnh của ngành tim mạch can thiệp trong toàn quốc, rất nhiều bệnh nhân bị bệnh lý mạch vành đã được cứu sống và điều trị khỏi nhờ vào kỷ thuật nong bóng và đặt stent để điều trị những mạch máu bị hẹp hoặc bít tắc hoàn toàn. Tuy nhiên huyết khối sớm hay muộn trong stent(1,2), bị tái hẹp trong stent sau một thời gian điều trị, đặc biệt là những bệnh nhân bị tổn thương những mạch máu có đường kính nhỏ cũng tương đối thường gặp, việc điều trị nó như thế nào là tối ưu là một vấn đề được các nhà tim mạch học trong và ngoài nước quan tâm. Đề đóng góp một phần nhỏ trong việc tìm ra phương pháp điều trị tốt cho những bệnh nhân này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giá trị của bóng phủ thuốc trong can thiệp mạch vành điều trị bệnh nhân tái hẹp trong stent và tổn thương mạch máu nhỏ” Đề tài nghiên cứu của chúng tôi có hai mục tiêu cụ thể như sau: Xác định hiệu quả và an toàn của bóng phủ thuốc trong điều trị tái hẹp trong stent và tổn thương mạch máu nhỏ. Đánh giá hiệu quả điều trị của bóng phủ thuốc sau 6 tháng theo dõi. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu bao gồm tất cả những bệnh nhân được chẩn đoán xác định tái hẹp trong stent hoặc tổn thương mạch máu nhỏ theo tiêu chuẩn chẩn đoán của hội tim mạch can thiệp thế giới, nhập viện điều trị tại BV đa khoa tỉnh Khánh Hòa từ 06/2010 đến 06/2012. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu. Tiêu chuẩn chọn bệnh(4) Tái hẹp trong stent ≥ 50% đường kính lòng mạch. Tổn thương mạch vành có đường kính nhỏ (d < 2,5mm). Tổn thương phân nhánh (bóng phủ thuốc dùng nhánh bên). Tổn thương lổ phân nhánh kiểu (001). Bệnh nhân không thể dùng kéo dài (> 6 tháng) 2 thuốc kháng ngưng tập tiểu cầu cùng lúc. Tiêu chuẩn loại trừ Nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên < 24g và choáng tim. Tổn thương canxi hóa nặng, mạch máu xoắn. Tổn thương dài 30mm. Huyết khối trong tổn thương đích. Đánh giá kết quả Tái hẹp trong stent (in‐stent), hoặc tái hẹp trong đọan (trước và sau stent 5mm) (in‐ segment). (Tái hẹp khi hẹp ≥ 50% đường kính lòng mạch sau 6 tháng). Tái thông tổn thương đích. Nhồi máu cơ tim. Tử vong do tim. Biến cố tim mạch chính. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 245 Xử lý số liệu Dùng phần mềm SPSS 15.0 for window để xử lý các số liệu, dùng thuật toán khi bình phương X2 để so sánh 2 biến định tính, dùng thuật toán t‐student để so sánh 2 biến định lượng, P < 0,05 được xem như có ý nghĩa thống kê. Sơ đồ các bước nghiên cứu được tóm tắt như sau Bệnh nhân nhập viện có đủ tiêu chuẩn đưa vào lô nghiên cứu ↓ - Khám lâm sàng. - Xét nghiệm: CK-MB,Troponine, đường huyết, Lipid máu, SA tim, Ure, creatinine - Đo điện tâm đồ 12 chuyển đạo cơ bản - Chụp mạch vành ↓ - Nong bóng tổn thương đích: Bóng ngắn hơn bóng thuốc - Nong bóng thuốc (áp lực > Nominal, tgian > 60’’) ↓ Kết quả tốt: Hẹp tồn đọng type B ↓ - Đánh giá lại tình trạng lâm sàng, ECG, chụp mạch vành.(sau 6 tháng điều trị) ↓ - Nhập các dữ liệu liên quan đến nghiên cứu vào máy vi tính. - Xử lý các số liệu bằng phần mềm SPSS 15.0 Kết quả và bàn luận Tuổi: Tuổi nhỏ nhất 49, tuổi lớn nhất 84, tuổi trung bình 65,1 ± 11,8. Giới: nam 27 (75%), nữ 9 (25%). Bảng 1. Loại tổn thương. Loại tổn thương N (%) Tái hẹp trong stent 10 (27,8) 9(90%) BMS 1(10%) DES Mạch máu nhỏ 26(72,2) Tổng cộng 36(100) Tỷ lệ tái hẹp trong stent có 10 cas, phần lớn là sau đặt stent thường 9 (90%), điều này cũng tương tự các nghiên cứu trong và ngoài nước do quá trình nội mạc hóa và tăng sinh tế bào nhanh hơn(8,5). Bảng 2. Kích thước bóng dùng trong nghiên cứu. Kích thước bóng phủ thuốc (mm) N(%) Kích thước bóng thường (mm) N(%) 2,00 14 (38,9) 2,00 27 (75) 2,25 5 (13,9) 2,50 7 (19,4) 2,50 9 (25) 2,75 5 (13,9) 3,00 5 (13,9) Tổng cộng 36 (100) Bóng thường nhỏ nhất 2,0, lớn nhất 2,5, trung bình 2,12 ± 0,21. Bóng phủ thuốc nhỏ nhất 2,0, lớn nhất 3,0, trung bình 2,37 ± 0,37. Trong nghiên cứu của chúng tôi 72% là tổn thương mạch máu nhỏ, do đó bóng sử dụng có đường kính nhỏ hơn nghiên cứu The Valentines Trial của Pieter (2,37 ± 0,37 so với 3,0 ± 0,41). Bảng 3. Chiều dài bóng dùng trong nghiên cứu. Chiều dài bóng phủ thuốc (mm) N (%) Chiều dài bóng thường(mm) N (%) 10,00 10,00 8 (22,2) 15,00 8 (22,2) 15,00 14 (38,9) 20,00 14 (38,9) 20,00 11 (30,6) 25,00 11 (30,6) 25,00 3 (8,3) 30,00 3 (8,3) Tổng cộng 36 (100) Bóng thường ngắn nhất 10, dài nhất 25, trung bình 16,25 ± 4,53. Bóng phủ thuốc ngắn nhất 15, dài nhất 30, chiều dài trung bình trong nghiên cứu chúng tôi tương đương với nghiên cứu The Valentines Trial của Pieter (21 ± 4,5 so với 24 ± 9,1). Bảng 4. Kết quả ngay sau can thiệp. Kết quả ngay sau can thiệp N(%) Tốt 35(97,2) Xấu 1(2,8) Tổng cộng 36(100) Tỷ lệ thành công khá cao sau khi nong bóng, chỉ có 1 ca bị bóch tách phải đặt stent ngay sau đó (kết quả tái thông mạch vành tốt). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 246 Kết quả 6 tháng sau can thiệp Bảng 5. Kết quả 6 tháng sau can thiệp với các nhóm có yếu tố nguy cơ. Các yếu tố nguy cơ Kết quả điều trị sau 6 tháng P Tốt Xấu Có RL Lipid 8 (61,5%) 5 (38,5%) 0,28 Không RL Lipid 18 (78,3%) 6 (21,7%) Có THA 9 (64,3%) 5 (35,7%) 0,39 Không THA 17 (77,3%) 5 (22,7%) Có ĐTĐ 7 (43,8%) 9 (56,2%) 0,001 Không ĐTĐ 19 (95%) 1 (5%) Có thuốc lá 5 (45,5%) 6 (54,5%) 0,017 Không thuốc lá 21 (84%) 4 (16%) Kết quả điều trị của nhóm không rối loạn Lipid máu tương đối tốt hơn so với nhóm có rối loạn Lipid máu (78,3% so với 61,5%) tuy nhiên sự khác biệt không ý nghĩa (p > 0,05). Kết quả điều trị của nhóm không THA tương đối tốt hơn so với nhóm có THA (77,3% so với 64,3%) tuy nhiên sự khác biệt không ý nghĩa (p > 0,05). Kết quả điều trị của nhóm không ĐTĐ tốt hơn so với nhóm có ĐTĐ (95% so với 43,8%) (p = 0,001). Kết quả điều trị của nhóm không hút thuốc lá tốt hơn so với nhóm có hút thuốc lá (84% so với 45,5%) (p = 0,01). Bảng 6. Kết quả 6 tháng sau can thiệp với nhóm tái hẹp trong stent và tổn thương mạch máu nhỏ. Kết quả điều trị sau 6 tháng P Tốt Xấu Tái hẹp trong stent 5 (50%) 5 (50%) 0,065 Mạch máu nhỏ 21 (80,8%) 5 (19,2%) Kết quả điều trị của nhóm tổn thương mạch máu nhỏ tốt hơn so với nhóm tái hẹp trong stent (80,8% so với 50%) tuy nhiên sự khác biệt không ý nghĩa (p > 0,05). Bảng 7. Kết quả và các biến cố tim mạch chính 6 tháng sau can thiệp. Chúng tôi Bóng thuốc N = 36 (%) Scheller Bóng thuốc N = 72 (%) Scheller Bóng thường N = 38 (%) Tái thông tổn thương đích 7 (19,4) 11 (15,3) 14 (36,8) NMCT 1 (2,7) 1 (2,6) Tử vong do tim 2 (5,5) 1 (1,4) 4 (10,5) Biến cố tim mạch chính 10 (28,8) 12 (16,7) 19 (50) Các biến cố tim mạch chính của nghiên cứu chúng tôi cao hơn của Scheller (28,8% so với 16,7%) tuy nhiên thấp hơn nhiều so với nghiên cứu dùng bóng thường của Scheller (28,8% so với 50%)(5,6). Qua 6 tháng theo dõi, kết quả điều trị của bóng phóng thích thuốc Paclitaxel đạt kết quả tốt 72,2%, xấu 27,8%. Bệnh nhân không bị ĐTĐ có kết quả tốt hơn bị ĐTĐ 95% so với 43,8%(P < 0,001), Bệnh nhân không hút thuốc lá có kết quả tốt hơn hút thuốc lá 84% so với 45,5%(P = 0,017), nhóm bệnh nhân bị tổn thương mạch máu nhỏ có kết quả tốt hơn nhóm bệnh nhân tái hẹp trong stent 80,8% so với 50% (tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa, P = 0,065). KẾT LUẬN Bóng phủ thuốc được xử dụng để điều trị tái hẹp trong stent và tổn thương mạch vành mạch máu nhỏ an toàn và hiệu quả sau 6 tháng theo dõi. Kết quả điều trị ở nhóm bệnh nhân không hút thuốc lá và không ĐTĐ tốt hơn. Kết quả điều trị ở nhóm bệnh nhân tổn thương mạch máu nhỏ ưu thế hơn nhóm tái hẹp trong stent. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Camenzind E, Steg PG, Wijns W (2007). Stent thrombosis late after implantation of first‐generation drug‐eluting stents: a cause for con‐cern. Circulation;115:1440‐1455. 2. Daemen J, Wenaweser P, Tsuchida K, Abrecht L, Vaina S (2007), Early and late coronary stent thrombosis of sirolimus‐ eluting and paclitaxel‐eluting stents in routine clinical practice: data from a large two‐institutional cohort study. Lancet; 369:667‐678. 3. Habara S, Mitsudo K, Kadota K, Goto T, Fujii S, Yamamoto H (2011), M. Effectiveness of paclitaxel‐eluting balloon catheter in patients with sirolimus‐eluting stent restenosis. JACC Cardiovasc Interv.;4:149‐154. 4. Loh JP, Waksman R, et al (2012). Paclitaxel Drug‐Coated Balloons. Review of Current Status and Emerging Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 247 Applications in Native Coronary Artery De Novo Lesions CME. J Am Coll Cardiol Intv.;5(10):1001‐1012. 5. Scheller B, Hehrlein C, Bocksch W, Rutsch W, Haghi D, Dietz U, Bohm M (2006). Treatment of coronary in‐stent restenosis with a paclitaxel‐coated balloon catheter. N Engl J Med;355: 2113‐2124. 6. Scheller B, Hehrlein C, Bocksch W, Rutsch W, Haghi D, Dietz U, Bohm M (2008), Speck U.Two year follow‐up after treatment of coronary in‐stent restenosis with a paclitaxel‐ coated balloon catheter. Clin Res Cardiol;97:773‐781. 7. Stella PR, Belkacemi A, Agostoni P (2010). Drug‐eluting balloons and Bifurcations, a new future for treatment? EuroIntervention;6:J161‐J164. 8. Unverdorben M, Vallbracht C, Cremers B, Heuer H, Hengstenberg C (2009), Maikowski. Paclitaxel‐coated balloon catheter versus paclitaxel‐coated stent for the treatment of coronary in‐stent restenosis. Circulation;119:2986‐2994. Ngày nhận bài báo 01‐7‐2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18‐7‐2013 Ngày bài báo được đăng: 01‐8‐2013
File đính kèm:
- gia_tri_cua_bong_phong_thich_thuoc_paclitaxel_trong_can_thie.pdf