Giáo dục tôn giáo và vai trò của tôn giáo trong lịch sử giáo dục Việt Nam
Tóm tắt: Mục tiêu cao nhất của giáo dục là hướng tới sự phát triển
con người. Cùng với việc trao truyền tri thức, giáo dục theo nghĩa
hẹp là giáo dục đạo đức, định hình các chuẩn mực, giá trị và lối ứng
xử cho mỗi cá nhân trong xã hội, tức là hướng đến việc hình thành
nhân cách con người. Tôn giáo là một trong các yếu tố góp phần
giáo dục nhân cách bởi giáo lý mỗi tôn giáo đều có những nội dung
răn dạy tín đồ tu dưỡng cách làm người và đối nhân xử thế. Trong
bài viết này, tác giả không có chủ ý so sánh giáo dục nhân cách giữa
giáo dục quốc dân và giáo dục của các tôn giáo để kêu gọi thiết lập
nền giáo dục tôn giáo, mà bằng cách tiếp cận Sử học, tác giả khái
quát sự đóng góp của tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam từ
thế kỷ XI tới nay nhằm cho thấy tôn giáo có thể là một nguồn lực
tham gia vào sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo dục tôn giáo và vai trò của tôn giáo trong lịch sử giáo dục Việt Nam
81 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 NGUYỄN QUANG HƯNG* NGUYỄN VĂN CHÍNH** GIÁO DỤC TÔN GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG LỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAM Tóm tắt: Mục tiêu cao nhất của giáo dục là hướng tới sự phát triển con người. Cùng với việc trao truyền tri thức, giáo dục theo nghĩa hẹp là giáo dục đạo đức, định hình các chuẩn mực, giá trị và lối ứng xử cho mỗi cá nhân trong xã hội, tức là hướng đến việc hình thành nhân cách con người. Tôn giáo là một trong các yếu tố góp phần giáo dục nhân cách bởi giáo lý mỗi tôn giáo đều có những nội dung răn dạy tín đồ tu dưỡng cách làm người và đối nhân xử thế. Trong bài viết này, tác giả không có chủ ý so sánh giáo dục nhân cách giữa giáo dục quốc dân và giáo dục của các tôn giáo để kêu gọi thiết lập nền giáo dục tôn giáo, mà bằng cách tiếp cận Sử học, tác giả khái quát sự đóng góp của tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam từ thế kỷ XI tới nay nhằm cho thấy tôn giáo có thể là một nguồn lực tham gia vào sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Giáo dục, lịch sử, tôn giáo, vai trò, Việt Nam. Dẫn nhập Đi tìm nguyên nhân của sự khủng hoảng giáo dục ở Việt Nam hiện nay, GS. Hoàng Tụy, người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp trồng người, thẳng thắn nhận xét rằng “giáo dục đã dần dần mất phương hướng, không còn rõ giáo dục cho ai, vì ai, để làm gì”. Ông chỉ đích danh sự suy thoái đạo đức trong các trường học Việt Nam là “một thảm họa giáo dục” vì nhà trường không giúp mang lại cho sinh viên đức tính trung thực và khả năng sáng tạo (Hoàng Tụy, 2008). Nhiều chuyên gia giáo dục đồng ý với ông. Họ cho rằng Việt Nam đã “không có một triết lý giáo dục đúng đắn, coi trọng tinh thần nhân bản và lối sống công dân”, và do đó, “không *PGS.TS., Chủ nhiệm Bộ môn Tôn giáo học; Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. ** PGS.TS., Chủ nhiệm Bộ môn Nhân học Phát triển, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 82 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 thể là nền giáo dục vì con người, và sản phẩm của nó không thể là những con người có đạo đức (Lê Vinh Danh, 2014). Cũng có người cho rằng các trường học Việt Nam chưa quan tâm đầy đủ đến giáo dục nhân cách cho sinh viên, và đó là một thất bại của giáo dục, vì “nhân cách, xét ở một diện rộng, là nền tảng của mọi quốc gia, và giáo dục là môi trường để tạo nên nhân cách. Không có nhân cách, không có khoa học, nghệ thuật” (Nguyễn Xuân Sanh, 2014). Gần đây, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cũng nhấn mạnh quan điểm này khi cho rằng mục tiêu của giáo dục không phải là bằng cấp mà là một quá trình lâu dài để phát triển con người, vì con người (VnExpress, 10/4/2016). Trong bài viết này, chúng tôi xuất phát từ quan điểm cho rằng giáo lý các tôn giáo luôn chứa đựng những nội dung đạo đức, bao gồm giá trị, chuẩn mực, và lý tưởng xã hội. Tôn giáo mang lại một hệ thống giá trị cho cuộc sống, dù những giá trị ấy có thể bị loại bỏ hay được xem như những chuẩn mực làm cơ sở cho tinh thần và đạo đức của một xã hội nhất định. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam, sự tham dự của các giá trị tôn giáo vào hệ thống giáo dục không chỉ giúp nâng cao giáo dục công dân mà sự truyền tải các giá trị và đạo đức tôn giáo đến thế hệ trẻ cũng sẽ giúp đa dạng hóa văn hóa. Tiếp cận từ góc nhìn lịch sử, bài viết cho rằng trong lịch sử nhiều thế kỷ của giáo dục Việt Nam, tôn giáo có một vai trò đặc biệt quan trọng. Đặc điểm này được phát huy dưới thời thực dân nhưng đã dần dần bị phai nhạt. Sự tham dự trở lại của các tôn giáo với hệ thống giáo dục quốc gia là cần thiết, dù đó không phải là một phương tiện duy nhất để đưa giáo dục quốc dân Việt Nam ra khỏi khủng hoảng. 1. Tôn giáo trong hệ thống giáo dục truyền thống của Việt Nam Nhìn lại lịch sử, có thể dễ dàng nhận ra rằng tôn giáo từng đóng vai trò to lớn trong nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam. Dưới triều Lý và triều Trần thế kỷ XI-XIV, Phật giáo từng đóng vai trò là tôn giáo chủ lưu. Chùa là trung tâm văn hóa và giáo dục của đất nước. Bản thân Lý Công Uẩn (974-1028), người sáng lập ra vương triều Lý, cũng từng được nhà sư Vạn Hạnh (938-1018) nuôi dưỡng và giáo dục trong chùa. Các nhà sư như Khuông Việt (933-1011), Pháp Loa (1284-1330), Huyền Quang (1254-1334) là những người có ảnh hưởng lớn trong triều đình, được vua quan tham vấn trước khi thực thi những công việc đại sự quốc gia. Năm 1076, Quốc Tử Giám được thành lập, trở thành một trong những trường Nguyêñ Quang Hưng, Nguyêñ Văn Chıńh. Giaó dụ c tôn giáo... 83 đại học sớm nhất ở Đông Nam Á. Tiếp đến, năm 1253, Quốc Học Viện được thành lập. Trần Thái Tông (1218-1227), Trần Nhân Tông (1258- 1308) đều là những Phật hoàng danh tiếng. Trần Nhân Tông đã sáng lập ra Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, làm cho Phật giáo Việt Nam có những bản sắc riêng, khác với Phật giáo nhiều nước trong khu vực, kể cả Trung Quốc. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện các truyền thuyết về nguồn gốc “con rồng cháu tiên” của dân tộc và văn minh Việt, đan xen những yếu tố huyền sử và lịch sử cũng là nét chung của nhiều quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Từ thế kỷ XV, nền khoa cử Khổng giáo trở thành hiện thân của nền giáo dục Việt Nam thời kỳ tiền thuộc địa. Năm 1483, Lê Thánh Tông (1442-1497) cho mở rộng nhà Thái học, lập nhà Bí thư - được coi như là thư khố đầu tiên của Việt Nam. Năm 1734, Trịnh Tạc (1606-1682) cho khắc bản in để in sách, từ đây không còn hoàn toàn phụ thuộc vào việc mua sách từ Trung Hoa. Năm 1803, nhà Nguyễn lập Quốc học ở Huế. Cho tới kỳ thi cuối cùng năm 1919, nền khoa cử Khổng giáo đã đào tạo ra hàng trăm tiến sĩ. Một số nhà tư tưởng lớn như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Nguyễn Trãi (1380-1442), Ngô Thì Nhậm (1746-1583), Lê Quý Đôn (1726-1784), Nguyễn Du (1766-1820), Phan Bội Châu (1867- 1940), Phan Chu Trinh (1872-1926), v.v., đều là sản phẩm của nền giáo dục Khổng giáo, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những dân tộc có nền văn hiến lâu đời ở Đông Nam Á. Lê Thánh Tông, Minh Mạng (1791-1841) là những vị vua có học thức cao, đồng thời cũng là những nhà tư tưởng lớn của dân tộc. “Minh Mạng có lẽ là người đầu tiên trong thế giới Đông Á cổ điển nhận ra rằng hệ thống thi cử truyền thống không thể trang bị cho xã hội Trung Hoa và Việt Nam trong việc đương đầu với các cường quốc quân sự châu Âu” (Woodside, 1988)1. Rõ ràng, trong suốt cả ngàn năm lịch sử, nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục tôn giáo truyền thống, cụ thể là nền giáo dục Phật giáo và Khổng giáo. Đặc điểm của các trường học Khổng giáo truyền thống là: “Việc tổ chức trường lớp cho con em học tập ở các làng xã hoàn toàn do dân tự lo liệu. Ấy là những lớp dân lập của các ông đồ, tổ chức ở các nhà riêng. Số lượng các trường ấy rất nhiều. Một số trường có tiếng tăm, chủ yếu là do danh vọng của thầy hoặc thành tích của trò nhiều hơn là do trình độ tổ chức và nền nếp sinh hoạt của nó. Trường học ngày xưa gọi là trường, song thực ra chỉ là một lớp trong có nhiều trình độ, gồm nhiều thế hệ học sinh và chỉ có một thầy giáo dạy. Giờ giấc, nội dung, phương 84 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 pháp đều do thầy quyết định. Chế độ học tập ngày xưa hầu như chỉ dựa vào các khoa thi làm chuẩn đích. Không định thời gian học tập, không chia bộ môn” (Vũ Ngọc Khánh, 1985)2. Bên cạnh đó, Khổng giáo xây dựng một lối ứng xử “tôn sư trọng đạo”. Học trò không phải đóng học phí hàng tháng hay học kỳ. Nhưng thay vào đó, mỗi năm, học trò đóng góp cho thầy, người được coi như người cha tinh thần, một khoản biếu thầy vào các dịp Tết, lễ tùy theo tình hình tài chính của gia đình. Học trò thành đạt, hằng năm vẫn thường có quà cho thầy để tưởng nhớ công ơn. Khi tứ thân phụ mẫu của thầy qua đời, học trò phải đóng tiền đồng môn để phúng điếu. Trường hợp thầy chết, tất cả những học trò đang học và các cựu học trò đều phải để tang. “Học trò dù nghèo đến đâu cũng cố gắng vay chạy để đóng món tiền đồng môn cho anh trưởng tràng để lo lễ phúng điếu. Truyền thống và đạo lý xã hội sẽ không tha thứ cho những ai trốn tránh đóng số tiền này (). Học phí thời xưa tuy nhẹ, nhưng tình thầy trò đậm đà, gắn bó mà học trò phải đóng những món tiền bất thường, nên xét cho cùng hóa ra rất nặng dày ân nghĩa.” (Nguyễn Q. Thắng, 2005)3. Có thể về phương diện tôn giáo học, Khổng giáo không phải là một tôn giáo theo đúng nghĩa của từ này, nhưng điều đó không làm thay đổi bản chất của nền Nho học mang đậm tính tôn giáo. Nội dung và chương trình giáo dục chỉ truyền dạy những kinh sách của Khổng Tử, các học trò của ông cũng như các nhà Nho sau này như Tứ thư, Ngũ kinh, chủ yếu là giáo dục luân lý và đạo đức. Nền giáo dục Khổng giáo không có mục đích nâng cao dân trí, mở mang kiến thức khoa học cho người học, tiến tới xây dựng tầng lớp trí thức có tư duy độc lập và sáng tạo như ở Phương Tây. Mục đích của giáo dục Khổng giáo tập trung chủ yếu vào việc đào tạo bộ máy quan lại, học để ra làm quan, nhưng chương trình học không trang bị cho người ta những kiến thức về pháp luật hay về bộ máy hành chính, cơ cấu tổ chức chính quyền, nên về cơ bản nền giáo dục Việt Nam tiền thuộc địa ở cả các trường công do nhà nước quản lý và trường tư vẫn là nền giáo dục tôn giáo truyền thống của Việt Nam. Khác với tầng lớp trí thức ở Phương Tây có nhu cầu tự do tư tưởng, phát kiến khoa học, tầng lớp sĩ phu Nho học luôn phải coi trung quân như là khí tiết quan trọng nhất của một nhà Nho. Trong điều kiện nhà nước quân chủ lấy Khổng giáo làm nền tảng tư tưởng, gắn kết thế quyền và thần quyền, toàn bộ bộ máy quan lại được xây dựng dựa trên học thuyết đạo đức-chính trị của Khổng giáo, có một thực tế không thể phủ nhận rằng, Nguyêñ Quang Hưng, Nguyêñ Văn Chıńh. Giaó dụ c tôn giáo... 85 nền giáo dục truyền thống của Việt Nam mang đậm tính tôn giáo, hay có thể nói, về bản chất là một nền giáo dục tôn giáo. 2. Tôn giáo trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời thuộc địa Nền giáo dục truyền thống mang đậm tính tôn giáo Việt Nam, cũng như ở châu Âu thời trung cổ, là ít chú trọng phát triển khoa học. Xã hội Khổng giáo chủ yếu dựa trên nền sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Một nền sản xuất tự cấp tự túc không có nhu cầu phát triển khoa học. Nó cũng giải thích tại sao khoa học lại không phát triển ở Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á thời kỳ tiền thuộc địa. Tới thế kỷ XIX trước những thách thức của thời đại, nền giáo dục đó ngày càng trở thành bất cập, không giúp các quốc gia này hiện đại hóa và chống lại sự đe dọa từ Phương Tây. Cùng với việc chính quyền thuộc địa chủ trương xây dựng nhà nước thế tục, tách biệt nhà nước với các tổ chức tôn giáo, nền giáo dục Việt Nam hiện đại được khởi đầu từ thời kỳ thuộc địa từ những thập niên cuối thế kỷ XIX với việc du nhập các tư tưởng Phương Tây, kèm theo đó là văn hóa và khoa học Tây phương. Khác với nền giáo dục truyền thống, trong đó nổi trội vai trò của nền giáo dục Khổng giáo, trong nền giáo dục hiện đại dưới thời thuộc địa nổi lên vai trò của các giáo hội Kitô giáo, nhất là Công giáo, vốn được truyền bá vào Việt Nam từ thế kỷ XVI. Dù trải qua không ít thăng trầm với nhiều lần bị cấm đoán, từ năm 1862 mới được chính thức tự do truyền giáo, nhưng đóng góp của cộng đồng Kitô hữu đối với nền giáo dục và khai phóng Việt Nam không hề nhỏ. Năm 1862, Gia định báo, tờ báo đầu tiên được phát hành ở Việt Nam với chủ bút là một trí thức Công giáo danh tiếng Paulus Huỳnh Tịnh Của. Năm 1865, Giáo hội Công giáo thành lập nhà in Tân Định ở Sài gòn, phục vụ cho việc in sách. Năm 1904, nhà in Quy Nhơn được Giáo hội thành lập. Năm 1908, tuần báo Nam Kỳ địa phận là tờ báo Công giáo đầu tiên ở Việt Nam được ấn hành. Đầu thế kỷ XX, có thể nói Việt Nam đã có ngành báo chí, trong đó phải kể tới dấu ấn của Giáo hội Công giáo với hàng chục tờ báo, tạp chí khác nhau cũng như đội ngũ trí thức và nhà báo tên tuổi người Công giáo. Trước hết, ở bậc giáo dục phổ thông cho thấy đóng góp không nhỏ của hệ thống các trường tôn giáo. Thời thuộc địa tồn tại hai loại trường. Thứ nhất, đó là các trường do Giáo hội Công giáo sáng lập, trực thuộc Giáo hội Công giáo, hoặc do các trí thức Công giáo điều hành, quản lý. Đa phần các trường này là các trường tư hoặc bán công. Ngay sau khi Pháp chiếm 86 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 Saigon, theo sáng kiến của Giám mục Puginier, năm 1861, Đô đốc (Admiral) Charmer thành lập Collège d’Adran, do Thừa sai Croc và Linh mục Thu phụ trách. Trường thuộc dòng Écoles Chrestiennes, có mục đích đào tạo những thông dịch cho đội quân viễn chinh Pháp và những thư ký làm việc trong các cơ quan hành chính của chính quyền thuộc địa. Toàn bộ nguồn tài chính hoạt động của trường cũng như những người theo học tại trường đều được chính quyền thuộc địa Nam Kỳ chu cấp tài chính. Đây là trường học đầu tiên đào tạo người Pháp nói tiếng Việt. “Đó là một trường Pháp (une école franşaise) do chính phủ Pháp đài thọ, nhưng là sáng kiến của một thừa sai. Ở đó, hiện có trên 100 học viên trẻ người bản xứ, được học tiếng Pháp và sẽ chiếm những vị trí quan trọng giữa các đồng bào của họ. Họ được nuôi dưỡng và giáo dục dưới con mắt từ mẫu của đạo thánh: chúng ta có quyền chờ đợi là những thanh niên này sẽ là trợ tá cho chúng ta tùy theo khả năng của chúng, cho công việc truyền giảng Tin Mừng” (Lefebvre 1861, archives)4. Từ chỗ ban đầu là một trường tiểu học Pháp- Việt, Collège d’Adran, ít lâu sau phát triển thành một trường thông ngôn. Năm 1873, chính quyền thuộc địa cho thành lập Trường tập sự (Collège des Stagiaires) do nhà trí thức công giáo nổi tiếng Petrus Trương Vĩnh Ký phụ trách. Những trường học đầu tiên của nền giáo dục Pháp-Việt, nhất là những trường được thành lập ở Nam Kỳ những thập niên cuối của thế kỷ XIX đều do Giáo hội Công giáo thành lập và quản lý. Tại các trường này, ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp và chữ quốc ngữ thay cho các trường học truyền thống sử dụng chữ Hán. Nói đến vai trò Công giáo trong giáo dục phải kể tới Collège d’ Taberd, mang tên vị Giám mục Jean Louis Taberd (1794-1840), tác giả cuốn Dictionarium Annamitico-Latinum đồng thời cũng là tác giả An Nam Đại quốc họa đồ (trong đó cũng đã xác định Hoàng Sa của Việt Nam). Trường do Linh mục Henri de Kerlan thành lập năm 1874, là trường trung học Công giáo đầu tiên ở Nam Kỳ. Ban đầu cũng chỉ nhằm giáo dục những trẻ em người Pháp. Đến năm 1889 thì do các sư huynh dòng Freres des Ecoles Chrestiennes (tiếng Anh: Institute of the Brothers of the Christian Schools, tên Latinh: Fratres Scholarum Christianarum) trông nom và giảng dạy. Sau năm 1954, phát triển thành một mạng lưới ở nhiều tỉnh Miền Nam Việt Nam. Về sau, Trường do hội Missions Etrangères de Paris đảm trách. Đây là trường tư thục nhưng cũng được sự ủng hộ của chính quyền thuộc địa, với một khuôn viên rộng 6.300 m2 ở vị trí ngay nhà thờ chính tòa Sài Gòn. Cai quản trường này là Linh mục Nguyêñ Quang Hưng, Nguyêñ Văn Chıńh. Giaó dụ c tôn giáo... 87 Joubert. Chính phủ thuộc địa cũng cấp học bổng cho những người học ở trường này ... c. Đa số các trường mầm non trên do các nữ tu Công giáo mở. Một vài trường mầm non ở Huế do Phật giáo, ở Long An và Kiên Giang do Phật giáo Hòa Hảo mở. Tại các trường trên, 1/3 trẻ em là người Công giáo, 2/3 còn lại là con em ngoài Công giáo. Rất có thể, trước áp lực của các tôn giáo và nhu cầu của xã hội đối với lĩnh vực giáo dục, chính quyền sẽ dần chấp nhận vai trò của các tổ chức tôn giáo. Vào đầu những năm 2000, Học viện Phật giáo Việt Nam được Chính phủ hỗ trợ kinh phí xây dựng lại và năm 2006 đã đi vào đào tạo bậc đại học với 281 người tham gia (Giáo hội Phật giáo Hà Nội, 2015). Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Phật giáo cũng được xây dựng lại to đẹp hơn trước và từ 2015 đã tiếp nhận 1.117 tăng, ni sinh hệ đại học chính quy và 1.286 người theo học hệ đào tạo từ xa (Giáo hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, 2015). Cùng với các học viện Phật giáo đào tạo tăng ni ở bậc đại học, từ sau những năm 2000 đến nay, ở nhiều thành phố lớn trong cả nước xuất hiện một phong trào mới có tên gọi “lên chùa học đạo” do những người trẻ phát động và được giới sinh viên hưởng ứng tích cự. Tại một ngôi chùa nổi tiếng của quận Hoàng Mai, Hà Nội, vào những ngày cuối tuần có khoảng 300 thanh niên đến nghe các nhà sư giảng về đạo Phật. Nhà chùa đưa tinh thần nhập thế của Phật giáo vào các bài giảng để thu hút sự quan tâm của thanh niên sinh viên, giúp họ giảm bớt căng thẳng và áp lực cuộc sống và hướng họ đến một cuộc sống tự lập, có lý tưởng và hoài bão vươn lên. Mỗi năm nhà chùa lại có một chủ đề tu tập để thuyết giảng cho sinh viên. Các chủ đề “tìm lại chính mình”, hay “khoảng lặng cuộc sống” được sinh viên đánh giá rất cao vì nó giúp họ hiểu ra vai trò của quan niệm chân, thiện, mỹ trong cuộc sống. Ngoài việc nghe thuyết giảng cuối tuần, nhà chùa cũng mở khóa tu cho trẻ em ở bậc học phổ thông. Các bậc cha mẹ dường như ý thức rất rõ vai trò của Phật giáo trong việc giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách sống cho trẻ em. Họ dẫn con em đến chùa để mong được các nhà sư chỉ giáo. Nguyêñ Quang Hưng, Nguyêñ Văn Chıńh. Giaó dụ c tôn giáo... 97 Tại chùa Tây Thiên trên núi Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, hằng năm nhà chùa tổ chức một Khóa tu Mùa hè kéo dài trong 5 ngày. Tại đây, hàng ngàn người trẻ có thể đăng ký để tham dự khóa tu để “tìm lại bản thân” và tìm hiểu những con đường khác nhau dẫn đến hạnh phúc trần thế. Những khóa tu mùa hè, cũng giống như sự tiếp nối những mạch nguồn của cuộc sống, đã giúp cho giới trẻ thay đổi nhận thức, tránh xa những cám dỗ của cuộc sống không lý tưởng và ước mơ. Mới đây nhất, năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã cho phép Giáo hội Công giáo mở lại Học viện Công giáo đặt dưới sự quản lý của Hội đồng Giám mục Việt Nam, chịu sự quản lý trực tiếp và thường xuyên của Ủy ban Giáo dục Công giáo. Học viện này đặt ở Tp. Hồ Chí Minh và Giám mục Joseph Đinh Đức Đạo, Chủ tịch Ủy ban Giáo dục của Hội đồng Giám mục Việt Nam, được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng đầu tiên của Học viện. Nhiệm vụ của học viện là đào tạo trình độ trí thức cấp cao cho linh mục, tu sỹ và giáo dân về thần học và các ngành liên quan đến đời sống và sinh hoạt của giáo hội. Học viện đào tạo các bậc học cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ về thần học và được phép mở rộng hợp tác trong nước và quốc tế để tổ chức các đề tài nghiên cứu khoa học phục vụ công tác đào tạo. Tháng 7 năm 2016, Trường Đại học Công giáo này sẽ chiêu sinh năm học đầu tiên 2016-2017 (VietCatholic, 2016). 4. Bàn luận và kết luận Từ khoảng năm 1990 trở lại đây, nhà nước Việt Nam đã thực thi một chính sách cởi mở hơn đối với các tôn giáo, nhưng các nhà làm chính sách vẫn chưa hình dung được một cách rõ ràng cách ứng xử với tôn giáo như thế nào trong mô hình nhà nước thế tục bởi với họ, tôn giáo vẫn là một đối tượng quản lý chứ không phải là một phần của xã hội dân sự. Nhìn lại lịch sử, tôn giáo từng đóng vai trò trụ cột của nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam. Chính các trường học Phật giáo, Công giáo và giáo dục tôn giáo dưới thời thực dân đã góp phần tạo nên những tinh hoa trí thức cho đất nước và một lối sống “hào hoa phong nhã” có đạo đức, hoài bão và lý tưởng cho lớp trẻ. Trong nền giáo dục hiện đại, nhà nước có xu hướng nhấn mạnh vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, nâng cao dân trí, phục vụ cho nhu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tuy nhiên, ngay chính trong xã hội mà các hoạt động tôn giáo bị “bên lề hóa” thì các giá trị, chuẩn mực và đạo đức của các tôn giáo vẫn đóng một vai trò không nhỏ. 98 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 Đối với nhiều quốc gia trên thế giới thì giáo dục tôn giáo (religious education) là môn học bắt buộc (compulsory subject). Chẳng hạn, ở hầu hết các quốc gia Tây Bắc Âu, giáo dục tôn giáo là môn học bắt buộc ở tất cả các cấp học. Các nghiên cứu về hệ thống giáo dục mẫu giáo ở Nhật Bản cũng cho thấy khoảng 80% trẻ em lứa tuổi từ 18 tháng đến trước 6 tuổi được nuôi dạy trong các cơ sở mẫu giáo gắn liền với Phật giáo hoặc Kitô giáo, mặc dù các cơ sở giáo dục được tài trợ bởi các tôn giáo này không hoàn toàn chịu ảnh hưởng về niềm tin tôn giáo. Tuy nhiên, các quan sát trực tiếp các vườn trẻ tổ chức theo hai mô hình Kitô giáo và Phật giáo cho thấy có những khác biệt trong cách dạy và học. Các trường mẫu giáo theo mô hình Kitô giáo, tự do cá nhân của trẻ em được tôn trọng và trẻ em được tạo điều kiện phát triển nhân cách tự do, và vui chơi của trẻ em là hoạt động chủ đạo, được tôn trọng. Giáo viên ít can thiệp vào hoạt động của trẻ. Ngược lại, ở mô hình trường tổ chức theo Phật giáo, trẻ em lại được giáo dục từ rất sớm khả năng nhận biết hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống và biết cách ứng xử để cùng mọi người thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy. Triết lý giáo dục là nhấn mạnh đến tình thương và lòng từ bi, không chỉ giữa người với người mà còn giữa con người với mọi sinh vật và cả cây cỏ nữa. Ngoài ra, nhà trường còn chủ trương cho trẻ em tập rèn luyện thân thể như những hoạt động chính của trường để các em có thể trở thành những con người mạnh mẽ và rộng lượng theo hình mẫu Phật giáo (Trần Hữu Thiên, 2015). Dẫn ra vài ví dụ nói trên để thấy rằng giáo dục tôn giáo là một đặc điểm phổ quát ở nhiều hệ thống giáo dục quốc dân, và các triết lý sống, đạo đức và chuẩn mực tôn giáo đã thấm đượm vào tâm hồn trẻ thơ từ rất sớm, góp phần tạo nên nhân cách của con người khi trưởng thành. Những kiến thức đạo đức, quan điểm và văn hóa ứng xử trẻ em học được sẽ được chúng vận dụng vào cuộc sống, và từ đó, tạo ra ảnh hưởng tới xã hội và mọi người xung quanh. Lối nghĩ và cách ứng xử của trẻ em được hình thành thông qua sự tham gia vào những thực hành trao đổi qua lại với nhau. Chúng giải thích và tạo lập các chuẩn mực để ứng xử trong những tình huống khác nhau dựa trên kinh nghiệm và cách nghĩ chúng học được. Nếu chúng ta cho rằng mục tiêu cao nhất của giáo dục là nhằm vào con người, lấy con người làm trung tâm, là vì sự phát triển con người (Phùng Xuân Nhạ, 2016) thì cách giáo dục đạo đức, các chuẩn mực, giá trị và lối ứng xử có ý nghĩa đặc biệt. Nếu một hệ thống giáo dục không coi trọng điều đó, nếu chỉ tập trung vào trao truyền tri thức, giáo dục đó Nguyêñ Quang Hưng, Nguyêñ Văn Chıńh. Giaó dụ c tôn giáo... 99 sẽ thất bại. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng giáo dục tôn giáo không có gì mâu thuẫn với vai trò của nhà nước thế tục, ngược lại, nó không chỉ mang các giá trị tốt đẹp của tôn giáo vào công tác đào tạo thế hệ tương lai mà còn góp phần huy động được nguồn lực to lớn từ các tôn giáo tham gia vào công tác giáo dục. Cuối cùng, chúng tôi không kêu gọi một nền giáo dục tôn giáo mà ngược lại, khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng mô hình nhà nước thế tục. Tuy nhiên, sự trở lại của tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục có một ý nghĩa quan trọng góp phần xã hội hóa giáo dục, sử dụng được nguồn lực của tôn giáo và giá trị đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giáo dục là một đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Sự tham gia của tôn giáo vào giáo dục không chỉ giúp đa dạng hóa các nguồn lực văn hóa, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các văn hóa và niềm tin tôn giáo mà còn giúp tận dụng được sự tham gia của xã hội vào sự nghiệp giáo dục, giảm thiểu những nguy cơ gây xung đột giữa các tôn giáo và giữa tôn giáo với nhà nước./. CHÚ THÍCH: 1 Alexandre B. Woodside (1988), Vietnam and the Chinese Model - A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Governments in the First Half of the Nineteenth Century, Harvard University, Cambridge, Massachustts and London: 224-225. 2 Vũ Ngọc Khánh (1985), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945, Nxb. Giáo dục, Hà Nội: 71-72. 3 Nguyễn Q. Thắng (2005), Khoa cử & Giáo dục Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh: 69. 4 Thư của Giám mục Lefèbvre, Archive MEP, vol. 758, p. 417. 5 Création d’une Aca dé mie Tonkinoise par Paul Bert, 3/7/1886. In: Les Débuts de l’ Enseigmement Franşái au Tonkin pả Dumoutier, 1887. Trong: Dumoutier, M. G (1900), Rapport du Directeur de l’ Enseignement sur l’ Enseignement Franşais en Annam et au Tonkin en 1900, L’ Enseignement Franco-Annamite - A Exposition Universelle de 1900 par Dumoutier, Imprimerie Typo- Lithographique Schneider, Hanoi. Appendix. 6 Situation de l’Indo-chine (1897-1901) (1902), Rapport par M. Paul Doumer, Gouveneur-Genéral, Hanoi, F. H. Schneider, 1902, T’oung Pao, Second Series, Vol. 3, No. 2, tr. 130. Dẫn theo: Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp- Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 55. 7 Đạo chỉ dụ thứ nhất của Đức Bảo Đại, số 176 tháng 9 năm 1932, tr. 305-328. Dẫn theo: Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ (1884- 1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 191. 8 Gouvernement de l’Indochine, Rapports, deuxi è me partie, tableau V, 1920 1940, p. 23. 9 Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 211. 10 Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945), Sđd, 245. 100 Nghiên cứu Tôn giáo. Sô ́5 - 2016 11 Theo sách Niên giám Công giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2004, thì vào năm 1969, Giáo hội Công giáo ở Miền Nam Việt Nam đã sở hữu 226 trường trung học, 1.030 trường tiểu học, cô nhi viện, 48 bệnh viện, 35 viện dưỡng lão, 8 trại phong cùi và 159 phòng phát thuốc. Sau năm 1975, Giáo phận Sài Gòn có 400 cơ sở bị trưng dụng, 95 cơ sở thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội bị chiếm dụng. 12 Trương Bá Cần (chủ biên, 2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 2, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 165. 13 Quốc hội CHXHCN Việt Nam (2004), Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo, Hà Nội. Website: 14 Luật Giáo dục nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. 15 Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007), Thư chung về giáo dục Kitô giáo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Andersen, Peter B. and Carin Laudrup, “Religious Education as a Tool for Enhancing Diversity”, in: Sporre, Karin and Gudrun Svedberg (eds.) (2010), Changing Societies - Values, Religions, and Education, Working Papers in Teacher Education, No. 7 (2010), pp. 7-18. 2. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục năm 2005. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 Về công tác tôn giáo trong tình hình mới, trong Ban Tôn giáo Chính phủ, “Tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta”, 4. Hoàng Tụy (2008), Nhìn thẳng vào khủng hoảng giáo dục Việt Nam, . duc-vn, truy cập ngày 07/6/2008. 5. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007), Thư chung về giáo dục Kitô giáo. 6. Holloway, Susan D. (1999), “The Role of Religious Beliefs in Early Chilhood Educa- tion: Christian and Buddhism Preschool in Japan”, Early Chilhood Research and Practice, Volume 1, Number 2; 1999. 7. Lê Vinh Danh (2014), “Khủng hoảng giáo dục là do không có triết lý giáo dục”, Lao Động cuối tuần, thứ Năm, 17/4/2014. tra-cuu/khung_hoang_giao_duc_do_khong_co_triet_ly_giao_duc.html 8. Lưu Trọng Lư (1939), “Một nền văn chương Việt Nam”, Tao Đàn, số 2, ngày 16/3/1939. 9. Nguyễn Q. Thắng (2005), Khoa cử & Giáo dục Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh. 10. Nguyễn Xuân Sanh (2014), “Giáo dục nhân cách”, Tia Sáng, 12/12/2014. 11. Phùng Xuân Nhạ (2016), “Mục tiêu của giáo dục không phải là bằng cấp”. VnExpress Phỏng vấn với tân Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo ngày 10 tháng 4 năm 2016. tieu-cua-giao-duc-khong-phai-la-bang-cap-3384392.html 12. Quốc hội CHXHCN Việt Nam, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo, Hà Nội, 2004. 13. Vũ Ngọc Khánh (1985), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 14. Thư của Giám mục Lefèbvre, Archives MEP, Vol. 758. Nguyêñ Quang Hưng, Nguyêñ Văn Chıńh. Giaó dụ c tôn giáo... 101 15. Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 16. Trần Hữu Thiên (2015), “Niềm tin tôn giáo và giáo dục mẫu giáo”, Văn hóa Phật giáo, số 186. 17. Trương Bá Cần (chủ biên, 2008), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập 2, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 18. Học sinh xé đề cương môn sử: “Khuôn méo sao đúc bát tròn” (Students tore the history reading materials into pieces and threw away) duc/Hoc-sinh-xe-de-cuong-mon-su-Khuon-meo-sao-duc-bat- tron/2131625312/202/>; truy cập ngày 15/4/ 2013. 19. Phỏng vấn Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo về Học viện Công giáo Việt Nam. duc-dao-ve-hoc-vien-cong-giao-viet-nam.html 20. 13.820 thí sinh bị điểm 1 môn lịch sử (13,820 examinees received 1mark and below), su-1990440.html, truy cập ngày 20/8/2013. 21. Woodside, Alexandre B. (1988), Vietnam and the Chinese Model, a Comparative Study of Vietnamese and Chinese governments in the first half of the Nineteenth Century, Harvard University, Cambridge, Massachustts and London. 22. Sefton, Malin (2010), “Police students’s talk about the relevance of religion in policing - Teaching and learning about diversity at the Swedish National Police Academy”, in: Sporre, Karin and Gudrun Svedberg (eds.), (2010), Changing Societies - Values, Religions, and Education, Working Papers in Teacher Education, No. 7 (2010), pp. 63-70. Abstract EDUCATION OF RELIGION AND ROLE OF RELIGION IN THE VIETNAM EDUCATIONAL HISTORY The goal of education aims at human development. Along with the transmission of knowledge, education in the strict sense connotes moral education, shaping the norms, values and behaviours for each individual in society, towards the development of personality. Religion is one of the factors contributing to personal education because every religious dogma teaches believers how to cultivate and to behave. In this article, the author does not intend to compare the ethical education of national education with religious education to call for an education of religion; however, by the historical approach, the author generalizes the religion’s contribution in the domain of education in Vietnam from the 11th century to the present in order to indicate that religion can be a source of the contemporary education in Vietnam. Keywords: Education, history, religion, role, Vietnam.
File đính kèm:
- giao_duc_ton_giao_va_vai_tro_cua_ton_giao_trong_lich_su_giao.pdf