Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Đặng Thị Việt Đức (Phần 1)
Chương 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ
Tài chính và tiền tệ là hai phạm trù kinh tế hết sức cơ bản và có tác động
đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Sự hiểu biết căn bản và có hệ
thống về hai phạm trù tài chính và tiền tệ sẽ là rất cần thiết để nghiên cứu về các
hoạt động kinh tế tài chính nói chung. Vì vậy, mục đích của chương đầu tiên này làcung cấp những kiến thức khái quát về hai đối tượng này. Sau phần đầu tiên trình
bày về nguồn gốc, bản chất và các chức năng của tiền tệ cũng như cung, cầu tiền
tệ trong nền kinh tế, nội dung chương sẽ tiếp nối với khái niệm tài chính để thấy
rằng sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ đã làm nảy sinh
các quan hệ và các hoạt động tài chính.
1.1. NGUỒN GỐC VÀ CÁC HÌNH THÁI CỬA TIỀN TỆ
1.1.1. Nguồn gốc của tiền tệ
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế khách quan. Tiền tệ ra đời và phát triển gắn
liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Theo Mác, tiền tệ là sản
phẩm tự phát, tự nhiên của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi nghiên cứu về tiền
Mác viết: là vật được kết tinh, hình thành một cách tự nhiên trong trao đổi”.
Trong lịch sử thoạt đầu người ta trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Khi sản
xuất càng phát triển, hàng hóa sản xuất ra càng nhiều, nhu cầu sử dụng của con
người cũng đi kèm theo. Việc trao đổi hàng lấy hàng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ
người sản xuất ra lúa cần cái rìu để cuốc đất nhưng người có rìu không cần lúa mà
cần vải, việc này buộc người có của phải đổi lấy vải và sau đó dùng vải để đổi lấy
rìu. Nhu cầu trao đổi càng nhiều hàng hóa thì quá trình trao đổi lòng vòng đó càng
phức tạp hơn. Chính vì vậy, người ta đã nghĩ ra tìm những vật làm trung gian cho
các cuộc trao đổi đó, đây là vật ngang giá.
Lịch sử đã ghi nhận sự phát triển của hình thái giá trị qua 4 giai đoạn sau:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: Khi một hàng hóa ngẫu nhiên
phản ánh giá trị của một hàng hoá khác
- Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng: khi nhiều hàng hoá đều có khả năng
trở thành vật ngang giá để thể hiện giá trị của một hàng hoá nào đó
- Hình thái giá trị chung khi một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá
chung để thể hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác.
- Có nhiều loại hàng hóa đã từng được sử dụng để làm vật ngang giá chung
như: gia súc, đồng, bạc, vàng. Mỗi loại vật này đều có một số thuận lợi và bất lợi
riêng khi làm phương tiện trao đổi - vật ngang giá chung. Cuối cùng, vật ngang giá
chung bằng hàng hóa chỉ được hạn chế trong kim loại quý vì dễ vận chuyển hơn,
trong đó chủ yếu là vàng.
- Khi phần lớn các quốc gia, các vùng đều sử dụng vàng làm vật ngang giá
chung trong trao đổi hàng hóa với nhau (khoảng cuối thế kỷ XIX), vàng loại bạc và
trở thành vật ngang giá chung - thế giới độc nhất.Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức để đáp
ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế.
1.1.2. Sự phát triển các hình thái của tiền tệ
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ đã lần lượt tồn
tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền
kinh tế, đặc biệt là của hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hoá.
Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem đã có những dạng tiền tệ nào
trong lịch sử; chúng ra đời như thế nào và tại sao lại không được sử dụng nữa.
Bằng cách này, chúng ta sẽ có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về khái niệm tiền tệ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Đặng Thị Việt Đức (Phần 1)
TS. ĐẶNG THỊ VIỆT ĐỨC - ThS. vũ QUANG KẾT - ThS. PHAN ANH TUẤN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ MỤC LỤC LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ........................................................................ 1 LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 2 Chương 4. Tín dụng và lãi suất tín dụng ......................................................... 2 Chương 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ ............................................ 3 1.1. NGUỒN GỐC VÀ CÁC HÌNH THÁI CỬA TIỀN TỆ ....................................... 4 1.2. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ ............................................. 12 1.3. CUNG CẦU TIỀN TỆ .......................................................................... 18 1.4. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÀI CHÍNH ........................................ 25 1.5. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH ......................................... 28 1.6. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH ...................................................................... 34 Chương 2 THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH .............................................................. 39 2.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ....................... 40 2.2. CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH .................................................... 42 2.3. CÁC CÔNG CỤ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ....................................... 47 2.4. CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ...................................... 61 Chương 3 CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN ......................................... 64 3.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN .. 64 3.2. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN .............................. 69 3.3. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ................................................................ 82 4.1. TÍN DỤNG .................................................................................... 96 4.2. LÃI SUẤT TÍN DỤNG ....................................................................... 110 Chương 5 NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỂN TỆ .................... 127 5.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ...................................................................................... 127 Hình 5.2.Mô hình ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ ................... 129 5.3. CHÍNH SÁCH TIEN TỆ ..................................................................... 139 Chương 6 TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP ........................................................ 159 6.1. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP .................. 159 6.2. QUẢN LÝ VỐN KINH DOANH ............................................................ 163 6.3. NGUỒN VỐN TÀI TRỢ CHO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP .......................................................................................................... 171 6.4. CHI PHÍ, THU NHẬP, LỢI NHUẬN KINH DOANH .................................. 174 Chương 7 TÀI CHlNH CÔNG ...................................................................... 179 7.1. TÀI CHÍNH CÔNG ........................................................................ 180 7.2. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC .................................................................. 187 7.3. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH QUỐC GIA .................................................. 201 Chương 8 TÀI CHÍNH QUỐC TẾ ................................................................. 205 8.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ .................. 205 8.2. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI .................................. 207 8.3. CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ ..................................................... 220 LỜI NÓI ĐẦU Khi nền kinh tế phát triển theo định hướng thị trường và đặc biệt trong mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, đầu tư, thương mại với thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã có những biển đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ; cùng với đó những lý luận về tài chính, tiền tệ cũng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Để cung cấp những kiến thức cơ bản và tổng quan về tài chính tiền tệ, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông xuất bản cuốn sách "Lý thuyết Tài chính tiền tệ” do TS. Đặng Thị Việt Đức - Trưởng Bộ môn Tài chính, khoa Tài chính kế toán, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông; ThS. Vũ Quang Kết - Giảng viên khoa Tài chính kế toán, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, ThS. Phan Anh Tuấn - Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng Giám đốc công ty cổ phần chứng khoán Navibank biên soạn. Cuốn sách được xây dựng dựa trên quan điểm nhìn nhận hiện đại về hệ thống tài chính, với sự tập trung vào thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian được nhấn mạnh hơn trước đây. Cuốn sách đưa nhiều kiến thức tài chính, tiền tệ phổ biến ở các nước để sinh viên và bạn đọc dễ dàng tìm hiểu và phân tích các vấn đề tài chính tiền tệ và áp dụng trong thực tế. Nội dung cuốn sách gồm 8 chương: Chương 1.Đại cương về tài chính và tiền tệ Chương 2. Thị trường tài chính Chương 3. Các tổ chức tài chính trung gian Chương 4. Tín dụng và lãi suất tín dụng Chương 5. Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ Chương 6. Tài chính doanh nghiệp Chương 7. Tài chính công Chương 8. Tài chính quốc tế Đối tượng đọc mà cuốn sách hướng tới đầu tiên là sinh viên các trường đại học thuộc khối ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, tài chính - ngân hàng, kế toán - kiểm toán bởi Lý thuyết tài chính và tiền tệ là môn học cơ sở ngành bắt buộc đối với các sinh viên này. Với cách biên soạn khoa học và rõ ràng, cách trình bày dễ hiểu, cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các độc giả muốn tìm hiểu về hệ thống tài chính và tiền tệ trong nền kinh tế, vốn là những vấn đề họ thấy, gặp và ảnh hưởng tới đời sống hàng ngày của họ như chi tiêu, lãi suất, giá chứng khoán, thuế, dịch vụ công, tỷ giá... Nhà xuất bản rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý vị để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, số 9, Ngõ 90, Phố Ngụy Như Kon Turn, Quận Thanh Xuân, Hà Nội. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc./. NHÀ XUẤT BẢN THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG THUẬT NGỮ VÀ TỪ VIẾT TẮT - CSTT: Chính sách tiền tệ - DNNN: Doanh nghiệp nhà nước - GDP: Tổng sản phẩm quốc nội - NG: Nguyên giá - NHNN: Ngân hàng nhà nước - NHTG: Ngân hàng thế giới - NHTM: Ngân hàng thương mại - NHTW: Ngân hàng trung ương - TSCD: Tài sản cố định –TSLD: Tài sản lưu động - VCĐ: Vốn cố định – VLĐ: Vốn lưu động - WTO: Tổ chức thương mại thế giới Chương 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ Tài chính và tiền tệ là hai phạm trù kinh tế hết sức cơ bản và có tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Sự hiểu biết căn bản và có hệ thống về hai phạm trù tài chính và tiền tệ sẽ là rất cần thiết để nghiên cứu về các hoạt động kinh tế tài chính nói chung. Vì vậy, mục đích của chương đầu tiên này là cung cấp những kiến thức khái quát về hai đối tượng này. Sau phần đầu tiên trình bày về nguồn gốc, bản chất và các chức năng của tiền tệ cũng như cung, cầu tiền tệ trong nền kinh tế, nội dung chương sẽ tiếp nối với khái niệm tài chính để thấy rằng sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ đã làm nảy sinh các quan hệ và các hoạt động tài chính. 1.1. NGUỒN GỐC VÀ CÁC HÌNH THÁI CỬA TIỀN TỆ 1.1.1. Nguồn gốc của tiền tệ Tiền tệ là một phạm trù kinh tế khách quan. Tiền tệ ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Theo Mác, tiền tệ là sản phẩm tự phát, tự nhiên của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Khi nghiên cứu về tiền Mác viết: là vật được kết tinh, hình thành một cách tự nhiên trong trao đổi”. Trong lịch sử thoạt đầu người ta trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Khi sản xuất càng phát triển, hàng hóa sản xuất ra càng nhiều, nhu cầu sử dụng của con người cũng đi kèm theo. Việc trao đổi hàng lấy hàng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ người sản xuất ra lúa cần cái rìu để cuốc đất nhưng người có rìu không cần lúa mà cần vải, việc này buộc người có của phải đổi lấy vải và sau đó dùng vải để đổi lấy rìu. Nhu cầu trao đổi càng nhiều hàng hóa thì quá trình trao đổi lòng vòng đó càng phức tạp hơn. Chính vì vậy, người ta đã nghĩ ra tìm những vật làm trung gian cho các cuộc trao đổi đó, đây là vật ngang giá. Lịch sử đã ghi nhận sự phát triển của hình thái giá trị qua 4 giai đoạn sau: - Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: Khi một hàng hóa ngẫu nhiên phản ánh giá trị của một hàng hoá khác - Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng: khi nhiều hàng hoá đều có khả năng trở thành vật ngang giá để thể hiện giá trị của một hàng hoá nào đó - Hình thái giá trị chung khi một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung để thể hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác. - Có nhiều loại hàng hóa đã từng được sử dụng để làm vật ngang giá chung như: gia súc, đồng, bạc, vàng... Mỗi loại vật này đều có một số thuận lợi và bất lợi riêng khi làm phương tiện trao đổi - vật ngang giá chung. Cuối cùng, vật ngang giá chung bằng hàng hóa chỉ được hạn chế trong kim loại quý vì dễ vận chuyển hơn, trong đó chủ yếu là vàng. - Khi phần lớn các quốc gia, các vùng đều sử dụng vàng làm vật ngang giá chung trong trao đổi hàng hóa với nhau (khoảng cuối thế kỷ XIX), vàng loại bạc và trở thành vật ngang giá chung - thế giới độc nhất. Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế. 1.1.2. Sự phát triển các hình thái của tiền tệ Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ đã lần lượt tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là của hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hoá. Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem đã có những dạng tiền tệ nào trong lịch sử; chúng ra đời như thế nào và tại sao lại không được sử dụng nữa. Bằng cách này, chúng ta sẽ có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về khái niệm tiền tệ. 1.1.2.1. Tiền tệ hàng hóa - Hóa tệ Hóa tệ (commodity money) tức là tiền bằng hàng hóa, là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được sử dụng trong một thời gian dài. Hàng hóa dùng làm tiền tệ trong trao đổi phải có giá trị thực sự và giá trị của vật trung gian trao đổi này phải ngang bằng với giá trị hàng hóa đem trao đổi, tức là trao đổi ngang giá hàng hóa thông thường lấy hàng hóa đặc biệt - tiền tệ. Hóa tệ lần lượt xuất hiện dưới hai dạng: hóa tệ phi kim loại và hóa tệ kim loại. a. Hóa tệ phi kim loại Đây là hình thái cổ xưa nhất của tiền tệ, rất thông dụng trong các xã hội cổ truyền. Tùy theo từng quốc gia, từng địa phương và từng khu vực, người ta dùng những hàng hóa khác nhau để làm tiền tệ, chẳng hạn: ở Hy Lạp và La Mã người ta dùng bò, trâu; ở Tây Tạng người ta dùng trà đóng thành bánh; ở châu Phi dùng lụa vải, vỏ sò, vỏ hến để làm tiền. Việc dùng từng loại hàng hóa làm tiền tệ do thói quen của địa phương. Nói chung, hóa tệ phi kim loại có nhiều điều bất lợi khi đóng vai trò tiền tệ, như: tính chất không đòng nhất, dễ hư hỏng, khó phân chia hay gộp lại, khó bảo quản cũng như vận chuyển, nó chỉ được công nhận trong từng khu vực, từng địa phương. Do vậy, hóa tệ không phải kim loại dần dần bị loại bỏ và người ta bắt đầu dùng hóa tệ kim loại thay thế hóa tệ phi kim loại. b. Hóa tệ kim loại Là việc lấy kim loại làm tiền tệ. Các kim loại được dùng để đúc thành tiền là đồng, kẽm, bạc, vàng... Kim loại có nhiều ưu điểm hơn '3ng hóa không phải kim loại khi sử dụng làm đơn vị tiền tệ, như: phẩm chất, trọng lượng có thể qui định chính xác hơn, dễ dàng hơn, bền hơn, hao mòn chậm, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi... Qua thực tiễn trao đổi và lưu thông hóa tệ kim loại, dần dần người ta chỉ chọn hai kim loại quý dùng làm tiền lâu dài hơn là bạc và vàng. Sở dĩ vàng hay bạc trở thành tiền tệ lâu dài hơn là vì bản thân nó có những thuộc tính đặc biệt mà các hàng hóa khác không có như: tính đồng nhất, tính dễ chia nhỏ, tính dễ cất trữ, tính dễ lưu thông. Sau này vàng vượt bạc, trở thành hoá tệ kim loại độc quyền được dùng làm tiền tệ. Trong giai đoạn đầu, tiền vàng, bạc thường được đúc dưới dạng nén, thỏi. Nhưng về sau để tiện cho việc trao đổi, tiền vàng thường được đúc thành những đồng xu với khối lượng và độ tinh khiết nhất định. Loại tiền này vì thế được gọi là tiền đúc. Tiền đúc xuất hiện đầu tiên tại Trung Quốc, khoảng thế kỷ thứ VII trước Công Nguyên, sau thâm nhập sang Ba Tư, Hy Lạp, La Mã rồi vào châu Âu. Các đồng tiền lưu hành ở châu Âu trước kia đều dưới dạng này. Tiền vàng đã có một thời gian thống trị rất dài trong lịch sử. Điều này chứng tỏ hiệu quả to lớn mà nó đem lại cho nền kinh tế. Hệ thống thanh toán dựa trên tiền vàng vẫn còn được duy trì cho đến mãi thế kỷ XX, chính xác là năm 1971 (chế độ tiền tệ Bretton-Woods). Ngày nay, mặc dù tiền vàng không còn trong lưu thông nữa, nhưng các quốc gia cũng như nhiều người vẫn coi vàng là một dạng tài sản cất trữ có giá trị. Tuy có những đặc điểm rất thích hợp cho việc dùng làm tiền tệ, nhưng tiền vàng không thể đáp ứng được nhu cầu trao đổi của xã hội khi nền sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến mức cao. Một loạt lý do sau đây đã khiến cho việc sử dụng tiền vàng ngày càng trở nên bất tiện, không thực hiện được chức năng tiền tệ nữa: 1. Quy mô và trình độ sản xuất hàng hoá phát triển, khối lượng và chủng loại hàng hóa ngày càng tăng và đa dạng, trong khi đó lượng vàng sản xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu về tiền tệ (nhu cầu trao đổi) của nền kinh tế. 2. Giá trị tương đối của vàng so với các hàng hóa khác tăng lên do năng suất lao động trong ngành khai thác vàng không tăng theo kịp năng suất lao động chung của các ngành sản xuất hàng hoá khác. Điều đó dẫn đến việc giá trị của vàng trở nên quá lớn, không thể đáp ứng nhu câu làm vật ngang giá chung trong một số lĩnh vực có lượng giá trao đổi mỗi lần nhỏ như mua bán hàng hoá tiêu dùng... 3. Việc sử dụng tiền tệ hàng hoá bị các nhà kinh tế xem như một sự lãng phí những nguồn tài nguyên vốn đã có hạn. Việc tìm kiếm một loại hình tiền tệ mới, thay thế cho vàng trong lưu thông trở nên cần thiết. 1.1.2.2. Tiền danh nghĩa - Tiền là dấu hiệu giá trị Khi vàng được sử dụng làm trung gian trong quá trình trao đổi hàng hoá, ban đầu có đầy đủ giá trị. Nhưng trong quá trình lưu thông, nó đã bị cọ sát nhiều và giảm dần trọng lượng và thực chất nó đã giảm giá trị nhưng vẫn được người ta coi là tiền đầy đủ giá như ban đầu. Hiện tượng đó làm nảy sinh khả năng lấy một vật khác thay thế tiền vàng làm phương tiện lưu thông. Khả năng đó đã từng bước thành hiện thực khi người ta phát hành tiền kim loại đúc và sau này là tiền giấy để thực hiện chức năng lưu thông của tiền tệ thay thế cho tiền vàng. Tiền danh nghĩa là loại tiền tệ mà bản thân tự nó không có giá trị (chỉ là dấu hiệu giá trị) song nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dụng. Giá trị của tiền danh nghĩa chính là giá trị của vàng mà nó phản ánh, đại diện. Tiền danh nghĩa gồm có ... y biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất. Vì ỉẽ đó, đường cầu biểu diễn mối quan hệ giữa lãi suất và cầu vốn vay là đường dốc xuống. Độ dốc càng thoải phản ánh lượng cầu vốn vay càng nhạy cảm nhiều với lãi suất. Cung vốn vay là khối vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác trong xã hội. Cung vốn vay được tạo bởi các nguồn sau: - Tiền gửi tiết kiệm của các hộ gia đình. Đây là bộ phận quan trọng nhất của quỹ cho vay. Trong điều kiện bình thường, tiền gửi tiết kiệm phụ thuộc nhiều vào lãi suất. Nếu lãi suất tăng sẽ làm tăng nhu cầu tiết kiệm và ngược lại. Tuy nhiên mức độ nhạy cảm này còn tùy thuộc vào tình trạng của nền kinh tế như thói quen tiết kiệm và tiêu dùng của công chúng. - Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp dưới hình thức quỹ khấu hao cơ bản, lợi nhuận chưa chia, các quỹ khác chưa sử dụng... Nguồn vốn này biến động cùng chiều với lãi suất tuy không nhạy cảm như nhiều nguồn vốn trên. - Các khoản thu chưa sử dụng đến của ngân sách nhà nước. Bộ phận này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng quỹ cho vay của nền kinh tế và không phụ thuộc vào lãi suất. - Nguồn vốn của các chủ thể nước ngoài có thể là chính phủ, có thể là doanh nghiệp, có thể là dân cư nước ngoài. Sự biến động của nguồn vốn này cùng chiều với sự biến động của lãi suất. Như vậy, cung vốn vay được tạo bởi số vốn dư thừa chưa sử dụng biến của các hộ gia đình, các doanh nghiệp, chính phủ và nước ngoài. Trong điều kiện các nhân tố khác (lạm phát dự tính, của cải...) không thay đổi, cung vốn vay tăng khi lãi suất giảm và ngược lại. Đường cung vốn vay biểu diễn mối quan hệ giữa lãi suất và lượng cung vốn vay là đường dốc lên. Độ dốc càng thoải thể hiện cung vốn vay càng nhạy cảm với lãi suất. Đường cung và cầu vốn vay cắt nhau tại điểm cân bằng, hình thành nên mức lãi suất cân bằng trên thị trường (là mức lãi suất mà thị trường luôn hướng tới). Đó là mức lãi suất làm lượng cung vốn vay bằng với lượng cầu vốn vay. Hình 4.5. Lãi suất trên thị trường vốn vay Điểm cân bằng cung cầu vốn vay tại một thời điểm xác định mức lãi thị trường tại thời điểm đó. Vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất thị trường cũng chính là những nhân tố làm thay đổi điểm câr. bằng của thị trường. Những nhân tố này bao gồm các nhân tố làm dịch chuyển đường cung vốn vay (là các nhân tố làm cung vốn vay thay đổ: ở mỗi mức lãi suất cho trước) và các nhân tố làm dịch chuyển đường cầu vốn vay (là các nhân tố làm cầu vốn vay thay đổi ở mỗi mức lãi suất cho trước). 4.2.5.1. Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung vốn vay Có bốn nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới đường cung vốn vay gồm: (1) thu nhập bình quân của các chủ thể kinh tế, (2) lợi tức và lạm phát kỳ vọng, (3) rủi ro và (4) tính lỏng của công cụ đầu tư. - Thu nhập bình quân: Trong giai đoạn đang tăng trưởng kinh tế, thu nhập của các chủ thể kinh tế tăng lên làm tăng khả năng cung ứng vốn. Cung vốn vay vì vậy tăng lên làm dịch chuyển đường cung vốn vay sang phải, lãi suất có xu hướng giảm xuống. Ngược lại trong giai đoạn suy thoái kinh tế, cung vốn vay giảm, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái làm lãi suất thị trường có tăng lên. - Lợi tức dự tính và lạm phát kỳ vọng: Nếu lợi tức dự tính của các công cụ nợ không chỉ phụ thuộc vào lãi suất của công cụ nợ mà còn phụ thuộc vào biến động giá thị trường của công cụ đó. Lợi tức dự tính của các công cụ nợ tăng lên sẽ làm nhu cầu mua các công cụ đó tăng lên, do đó làm tăng cung vốn vay, đường cung vốn vay dịch chuyển sang phải, lãi suất có xu hướng giảm. Ngược lại, nếu lợi tức dự tính của các công cụ nợ giảm sẽ làm giảm cung vốn vay làm lãi suất có xu hướng tăng lên. Lợi tức dự tính của các dạng tài sản khác thay đổi cũng có thể dẫn đến sự thay đổi trong cung vốn vay. Một sự tăng lên của lạm phát dự tính sẽ làm tăng giá của các tài sản hữu hình và do vậy sẽ làm giảm một cách tương đối lợi tức dự tính của việc cho vay so với việc mua các tài sản hữu hình. Kết quả là cung vốn vay giảm xuống và lãi suất vay vốn tăng lên. Ngược lại, một sự giảm đi của lạm phát kỳ vọng sẽ làm gia tăng cung vốn vay và lãi suất vay vốn có xu hướng giảm xuống. - Rủi ro: Tác động của rủi ro đến cung vốn vay thể hiện qua cách thức sau: (1) một sự gia tăng rủi ro mất vốn khi cho vay tăng lên làm việc cho vay trở nên kém hấp dẫn hơn, cung vốn vay sẽ giảm xuống làm đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái, lãi suất có xu hướng tăng lên, (2) một sự gia tăng rủi ro của các loại tài sản khác sẽ làm việc cho vay vốn lại hấp dẫn hơn kéo theo sự gia tăng của cung vốn vay làm đường cung vốn vay dịch chuyển sang phải và lãi suất có xu hướng giảm đi. - Tính lỏng (tính thanh khoản): Tính lỏng của các công cụ đầu tư là khả năng chuyển đổi thành tiền mặt của công cụ đó một cách nhanh chóng và ít tốn kém. Các nhà đầu tư đều quan tâm tới tính lỏng của tài sản nắm giữ. Nếu các công cụ nợ như trái phiếu có thể mua bán dễ dàng thì làm tăng nhu cầu đầu tư vào chúng, vì vậy, cung vốn vay sẽ tăng lên, đường cung vốn dịch chuyển sang phải, lãi suất giảm xuống. Ví dụ, giảm phí môi giới trên thị trường trái phiếu sẽ làm tăng tính lỏng của chúng lên vì người ta có thể mua bán chúng với chi phí giao dịch thấp hơn trước. Mặt khác, sự thay đổi tính lỏng của các tài sản khác cũng ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư các công cụ nợ. Chẳng hạn, khi chính phủ có chính sách giảm chi phí môi giới cho các giao dịch cổ phiếu sẽ làm giảm đi tính hấp dẫn của việc đầu tư các trái phiếu. Theo đó, cung vốn vay sẽ giảm và đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái. Hộp 4.2. Tại sao phải lo lắng về sự giảm giá trái phiếu khi lạm phát tăng? Để xác định sự biến động cùa lãi suất trên thị trường, ngoài cách tiếp cận dựa trên thị trường vốn nợ trong cuốn sách còn có cách tiếp cận thông qua cung và cầu trên thị trường trái phiếu. Trong sơ đồ thị trường trái phiếu, đường cầu trái phiếu biểu diễn mối quan hệ giữa giá trái phiếu và lượng cầu trái phiếu của các nhà đầu tư. Khi giá trái phiếu tăng lên, lãi suất đầu tư trái phiếu giảm (xem lại mục 4.2.4), trái phiếu trở nên ít hấp dẫn với nhà đầu tư, vì vậy lượng cầu trái phiếu sẽ giảm. Đường cầu trái phiếu là đường đi xuống. Ngược lại với đường cung trái phiếu. Khi giá trái phiếu tăng lên, lãi suất đầu tư trái phiếu giảm, những người đang nắm giữ trái phiếu muốn bán chúng. Một số công ty thấy rằng việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu sẽ có chi phí thấp hơn và vì vậy phát hành thêm trái phiếu vào thị trường. Vì cả hai lý do đó, lượng cung trái phiếu tăng lên, đường cung trái phiếu là đường đi lên. Thị trường trái phiếu xác định giá trái phiếu cân bằng tại giao điềm của đường cung và đường cầu và vì thế cũng xác định lãi suất đầu tư trái phiếu thực tế trên thị trường. Dựa vào sự thay đổi cùa các yếu tố tác động tới đường cung và đường cầu trái phiếu, căn cứ vào mô hình thị trường trái phiếu, chúng ta cũng có thể xác định được biến động của giá trái phiếu và lãi suất trên thị trường. Các yếu tố ảnh hường tới đường cầu trái phiếu gồm thu nhập bình quằn, lợi tức và lạm phát dự tính, rủi ro, tính thanh khoản, chi phí thông tin. Các yếu tố ảnh hưởng tới đường cung trái phiếu gồm lợi tức kỳ vọng của các cơ hội đầu tư, thuế doanh nghiệp, lạm phát dự tính, vay nợ chính phủ. Như vậy trong trường hợp lạm phát cao, chẳng hạn lạm phát Việt Nam năm 2011, đường cung trái phiếu dịch chuyển sang phải, đường cầu trái phiếu dịch chuyển sang trái làm giá trái phiếu có xu hướng giảm mạnh. Nếu các nhà đầu tư đang và tiếp tục giữ trái phiếu trong giai đoạn giảm giá này, họ sẽ bị thua lỗ. Cách tốt nhất là nhà đầu tư nên bán ngay trái phiếu để cắt lỗ. Thời hạn trái phiếu càng dài sự thay đổi giá trái phiếu càng lớn và sự thua lỗ với nhà đầu tư càng nặng. 4.2.5.2. Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu vốn vay Có ba nhân tố cơ bản làm thay đổi đường cầu vốn vay gồm: (1) lợi nhuận kỳ vọng của các cơ hội đầu tư, (2) lạm phát kỳ vọng và (3) vay nợ chính phủ. - Lợi nhuận kỳ vọng của các cơ hội đầu tư: Hầu hết các công ty vay mượn tiền (hay phát hành trái phiếu) nhằm tài trợ mua các tài sản phục vụ cho kinh doanh. Trong quá trình lập kế hoạch vốn cho nhu cầu đầu tư, các công ty phải dự tính lợi nhuận sẽ thu về. Nếu lợi nhuận kỳ vọng cao, công ty sẽ muốn vay nhiều vốn hơn để tài trợ nhu cầu đẵu rư và mở rộng sản xuất làm tăng cầu vốn vay. Đường cầu vốn vay dịch chuyển sang phải và lãi suất có xu hướng tăng lên. Điều này thường thấy trong điều kiện nền kinh tế đang tăng trưởng. Ngược lại, nếu lợi nhuận kỳ vọng của các nhà đầu tư kinh doanh thấp, nhu cầu vốn vay sẽ giảm, đường cầu vốn vay dịch chuyển sang trái. - Lạm phát kỳ vọng: Chi phí thực của việc vay tiền được xác định chính xác hơn bằng lãi suất thực (bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát dự tính). Với một mức lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên thì chi phí thực của việc vay tiền giảm xuống. Điều này làm tăng nhu cầu vốn vay, đường cầu vốn vay dịch chuyển sang phải. - Vay nợ chính phủ: Trong trường hợp ngân sách bị thâm hụt, chính phủ thường vay nợ để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu. Vay nợ của chính phủ làm tăng cung trái phiếu làm giá cả của trái phiếu sẽ giảm xuống. Sự giảm giá trái phiếu hàm ý rằng sự gia tăng vay nợ của chính phủ sẽ làm gia tăng lãi suất. Khi chính phủ gia tăng vay nợ để tài trợ các nhu cầu chi tiêu thì các hộ gia đình có thể gia tăng tiết kiệm của họ làm tăng cung vốn vay. Như vậy trong trường hợp này, vay nợ của nhà nước vừa làm đường cầu vốn vay dịch chuyển sang bên phải, đường cung vốn vay cũng dịch chuyển sang phải, do đó lãi suất không nhất thiết gia tăng tương ứng với sự gia tăng vay nợ của chính phủ. Tuy nhiên, có nhiều công trình kinh tế cho rằng, các hộ gia đình không gia tăng tiết kiệm của họ đúng bằng tổng số tiền mà chính phủ tiêu sài. Lãi suất có thể gia tăng khi tất cả các nhân tố khác không đổi do sự gia tăng vay nợ của chính phủ. Hộp 4.3. Giải thích mức lãi suất thấp tại Nhật Bản Trong những năm 1990 và 2000, các mức lãi suất tại Nhật Bản thường xuyên ờ mức thấp nhất thế giới. Năm 1998, thậm chí Nhật Bản còn phát hành loại tín phiếu kho bạc với lãi suất âm. Vậy tại sao lãi suất tại Nhật Bản lại rơi xuống các mức thấp như vậy? Vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, Nhật Bản trải qua một giai đoạn suy thoái kéo dài kèm theo thiểu phát. Mức thiểu phát tại Nhật Bản đã làm cầu trái phiếu tăng do tỷ suất lợi tức dự tính từ các tài sản thực giảm, cầu trái phiếu tăng lên, đường cầu dịch chuyển sang phải. Thiểu phát cũng làm lãi suất thực tăng và vì vậy lãi suất thực của trái phiếu tăng lên, các nhà phát hành không muốn phát hành trái phiếu nữa, cung trái phiếu giảm, đường cung dịch chuyển sang bên trái. Kết quả là giá trái phiếu tăng cao trong khi lãi suất giảm. Chu kỳ kinh tế vào giai đoạn đi xuống, việc thiếu các cơ hội đầu tư cũng làm lãi suất ờ Nhật Bản giảm vì làm giảm cung trái phiếu, đường cung trái phiếu dịch chuyển sang trái. Mặc dù đường cầu trái phiếu cũng dịch sang trái do thu nhập của người dân thấp hơn ở giai đoạn đi xuống của chu kỳ kinh tế, nhưng đường cầu dịch ít hơn. Kết quả là giá trái phiếu tăng và lãi suất giảm. Thông thường chúng ta nghĩ rằng các mức lãi suất thấp là một điều tốt bời chúng làm cho việc huy động vốn trở nên dễ chịu. Nhưng tại Nhật, các mức lãi suất âm là một dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang gặp vấn đề thực sự với các mức giá giảm sút và nền kinh tế thu hẹp. Chỉ khi nền kinh tế Nhật Bản hồi phục trờ lại lãi suất mới có thể quay trờ về mức bình thường. Nguồn: Minskin 2012 TÓM TẮT CHƯƠNG 4 1. Tín dụng về mặt hình thức, là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng trong một khoản thời gian nhất định có bồi hoàn, về bản chất, tín dụng là quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. 2. Tín dụng có vai trò quan trọng đối với các hoạt động trong nền kinh tế - xã hội. Tín dụng là công cụ tạo điều kiện mở rộng phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất. Tín dụng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức đời sống dân cư. Hơn nữa, tín dụng còn là công cụ quan trọng để nhà nước cân đối thu chi ngân sách và điều tiết lưu thông tiền tệ, thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. 3. Lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lãi vay và tổng số tiền đã bỏ ra cho vay trong một khoảng thời gian nhất định, thường tính theo năm. Lãi suất tín dụng thể hiện vai trò của nó ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, lãi suất là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Ở góc độ vi mô, lãi suất công cụ cạnh tranh của các tổ chức trung gian tài chính và tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp và đời sống của dân cư. 4. Có nhiều loại lãi suất khác nhau được phân biệt theo các căn cứ khác nhau. Khi thực hiện cho vay hoặc đi vay, chủ thể tham gia hoạt động tín dụng phải xác định đúng mức lãi suất sử dụng. 5. Xét về mặt kỹ thuật tính lãi suất, các công cụ nợ có thể được chia thành bốn nhóm: các khoản nợ đơn, trái phiếu chiết khấu, trái phiếu coupon và các khoản nợ thanh toán cố định. Do sự khác nhau về thời gian thanh toán của các công cụ nợ nên sẽ rất khó khăn trong việc so sánh thu nhập của chúng. Người ta thường quy các dòng tiền của khoản các khoản vay về cùng một thời điểm để so sánh, tức là sử dụng kỹ thuật chiết khấu các luồng tiền để đánh giá mức sinh lời của các khoản cho vay. 6. Lãi suất đáo hạn là loại lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của các khoản thanh toán nhận được từ một công cụ nợ với giá trị của nó hôm nay. Đây là một chỉ tiêu phản ánh tương đối chính xác mức sinh lời của công cụ nợ. Tuy nhiên, trong trường hợp thời gian nắm giữ ngắn hơn thời hạn của công cụ nợ, tỷ suất lợi tức mới là phép đo tin cậy về mức sinh lời của việc đầu tư. 7. Lãi suất thị trường là mức lãi suất mà tại đó cung vốn vay bằng cầu vốn vay. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất thị trường theo đó được chia thành hai nhóm: (1) Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung vốn vay gồm bốn nhân tố cơ bản: thu nhập bình quân của các chủ thể kinh tế, lợi tức và lạm phát kỳ vọng, rủi ro và tính lỏng của công cụ đầu tư. (2) Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu vốn vay gồm ba nhân tố cơ bản: lợi nhuận kỳ vọng của các cơ hội đầu tư, lạm phát kỳ vọng và vay nợ chính phủ. Chương 5 NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỂN TỆ Ngày nay, các nước đều có ngân hàng trung ương đứng tách ra đối với các ngân hàng trung gian, không kinh doanh lấy lãi mà thực hiện các chức năng quản lý vĩ mô về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng,trong đó đặc biệt là chịu trách nhiệm thiết kế và thực hiện các chính sách tiền tệ quốc gia. Mỗi động thái của ngân hàng trung ương đều có thể là dấu hiệu cho thấy những biến động của tình hình tiền tệ - tín dụng của một quốc gia. Mục tiêu của chương 5 này là cung cấp kiến thức một cách có hệ thống về ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ quốc gia. 5.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 5.1.1. Quá trình hình thành ngân hàng trung ương
File đính kèm:
- giao_trinh_ly_thuyet_tai_chinh_tien_te_dang_thi_viet_duc_pha.pdf