Giáo trình Taekwondo
I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRONG THỜI KỲ CỔ
ĐẠI:
Loài người khi mới sinh ra đã mang trong mình bản năng sinh tồn để duy trì nòi
giống và cuộc sống của bản thân mình và vì vậy dù vô tình hay hữu ý thì điều này đã
thúc đẩy loài người hướng tới hoạt động thể chất trong suốt cuộc đời của mình. Một
thực tế rõ ràng là dù ở bất cứ đâu và trong bất cứ thời điểm nào thì con người vẫn
không thể thực hiện được những công việc hàng ngày nếu thiếu các hoạt động thể chất
và hoạt động này đã giúp con người không ngừng trưởng thành, phát triển và hoàn
thiện. Trong thời kỳ cổ đại, con người đã không có một phương tiện nào khác ngoài
hai bàn tay và sức mạnh thể chất để tự bảo vệ bản thân mình và vì vậy một cách rất tự
nhiên họ đã sáng tạo ra những kỹ thuật chiến đấu bằng tay. Khi hai bàn tay đã trở
thành một phương tiện để tấn công và phòng thủ thì con người đã tiếp tục củng cố,
hoàn thiện hệ thống kỹ thuật này để tăng cường sức mạnh thể chất và mang ra trình
diễn tại các cuộc thi đấu ở các bộ lạc.
Vào thời kỳ sơ khai trên bán đảo Triều Tiên có ba bộ lạc cùng tồn tại, phát triển
và các bộ lạc này đều tổ chức các cuộc thi đấu võ thuật giữa các võ sĩ khi bắt đầu bước
vào một vụ mùa mới.
Vào thời điểm này, thông qua thực tiễn chiến đấu chống lại loài ác thú và quá
trình hệ thống, phân tích các miếng đánh và thế thủ của các con vật này, con người đã
sáng tạo ra những kỹ thuật chiến đấu đặc sắc và người ta cho rằng những kỹ thuật
chiến đấu này là nền tảng cơ bản của môn võ Taekwondo ngày nay, môn võ mà tên gọi
của nó được hình thành từ các từ “Subak”, “Taekkyon” và “Takkyon”.
Vào cuối thời kỳ cổ đại, ba triều đại là Koguryo, Paekje và Silla đã được hình
thành trên bán đảo Triều Tiên và kể từ đó các cuộc chiến tranh để tranh giành quyền
lực đã liên tiếp xảy ra. Cả ba triều đại này đều cố gắng tăng cường sức mạnh quốc gia
bằng cách đào tạo nên những chiến binh quả cảm, tih thông võ nghệ và vì vậy lịch sử
Triều Tiên đã gọi thời đại này là thời kỳ quân quyền với đa số các nhà lãnh đạo nổi
tiếng của các triều đại là các quân nhân.
Điều này đã dẫn tới kết quả là các chiến binh trẻ đã được tập hợp lại thành các
lực lượng như “Hwarangdo” trong triều đại Silla và “Chouisonin” trong triều dại
Koguryo và đối với họ việc rèn luyện võ thuật là một trong các nội dung huấn luyện
chủ yếu. Một cuốn sách võ thuật nổi tiếng thời đó đã viết: “Nghệ thuật chiến đấu đối
kháng là nền tảng cơ bản của võ thuật đương thời và mục đích chủ yếu của nó là giúp
người tập tăng cường sức mạnh của bản thân mình thông qua việc sử dụng hiệu quả
các kỹ thuật đòn tay và đòn chân, đồng thời thông qua quá trình huấn luyện một cách
2có hệ thống giúp người tập có thể dễ dàng ứng biến và đối phó với các tình huống
nguy hiểm xảy ra trong cuộc sống”.
Trên thực tế điều này lại hoàn toàn phù hợp với các tiêu chí và mục đích huấn
luyện của môn võ Taekwondo và vì vậy có thể nói rằng: Taekwondo đã được bắt
nguồn từ các bộ lạc trên bán đảo Triều Tiên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Taekwondo
MỤC LỤC Trang CHƯƠNG I: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM .....................................2 I. Lịch sử phát triển của môn Taekwondo trong thời kỳ cổ đại ........................2 II. Lịch sử phát triển của môn Taekwondo trong thời kỳ trung cổ ...................3 III. Lịch sử phát triển của môn Taekwondo trong thời hiện đại ........................3 IV. Sự phát triển của môn Taekwondo trong giai đoạn hiện nay ......................4 V. Lịch sử phát triển của môn Taekwondo ở Việt Nam ...................................5 CHƯƠNG II: KỸ THUẬT CƠ BẢN .............................................................8 I. Mục tiêu tấn công ...........................................................................................8 II. Vũ khí tấn công của cơ thể .........................................................................10 III. Tấn (Seogi) ................................................................................................23 IV. Kỹ thuật phòng thủ (Makki) ......................................................................33 V. Kỹ thuật tấn công (Kongkyok Kisul) .........................................................44 CHƯƠNG III: QUYỀN (POOMSE) ...........................................................64 I. Nguồn gốc, khái niệm và phương pháp luyện tập các bài quyền trong môn võ Taekwondo ............................................................................64 II. Một số bài quyền cơ bản .............................................................................65 2.1 Thái cực Kiền cung quyền (Taegeuk 1 Jang) ............................................65 2.2 Thái cực Đoài cung quyền (Taegeuk 2 Jang) ............................................69 2.3 Thái cực Ly cung quyền (Taegeuk 3 Jang) ...............................................72 CHƯƠNG IV: ĐỐI LUYỆN ........................................................................77 I. Nhất thế đối luyện (Trung đẳng): Hanbeon kyorugi (Momtong) ................77 II. Nhất thế đối luyện (Thượng đẳng): Hanbeon kyorugi (Olgul) ...................82 CHƯƠNG V: MỘT SỐ ĐIỀU LUẬT THI ĐẤU TAEKWONDO ...........84 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................90 1 CHƯƠNG I LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM Lịch sử phát triển của môn Taekwondo có thể được chia ra làm 4 giai đoạn là: thời kỳ cổ đại, thời kỳ trung cổ, thời kỳ hiện đại và sự phát triển của môn Taekwondo trong giai đoạn hiện nay. I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRONG THỜI KỲ CỔ ĐẠI: Loài người khi mới sinh ra đã mang trong mình bản năng sinh tồn để duy trì nòi giống và cuộc sống của bản thân mình và vì vậy dù vô tình hay hữu ý thì điều này đã thúc đẩy loài người hướng tới hoạt động thể chất trong suốt cuộc đời của mình. Một thực tế rõ ràng là dù ở bất cứ đâu và trong bất cứ thời điểm nào thì con người vẫn không thể thực hiện được những công việc hàng ngày nếu thiếu các hoạt động thể chất và hoạt động này đã giúp con người không ngừng trưởng thành, phát triển và hoàn thiện. Trong thời kỳ cổ đại, con người đã không có một phương tiện nào khác ngoài hai bàn tay và sức mạnh thể chất để tự bảo vệ bản thân mình và vì vậy một cách rất tự nhiên họ đã sáng tạo ra những kỹ thuật chiến đấu bằng tay. Khi hai bàn tay đã trở thành một phương tiện để tấn công và phòng thủ thì con người đã tiếp tục củng cố, hoàn thiện hệ thống kỹ thuật này để tăng cường sức mạnh thể chất và mang ra trình diễn tại các cuộc thi đấu ở các bộ lạc. Vào thời kỳ sơ khai trên bán đảo Triều Tiên có ba bộ lạc cùng tồn tại, phát triển và các bộ lạc này đều tổ chức các cuộc thi đấu võ thuật giữa các võ sĩ khi bắt đầu bước vào một vụ mùa mới. Vào thời điểm này, thông qua thực tiễn chiến đấu chống lại loài ác thú và quá trình hệ thống, phân tích các miếng đánh và thế thủ của các con vật này, con người đã sáng tạo ra những kỹ thuật chiến đấu đặc sắc và người ta cho rằng những kỹ thuật chiến đấu này là nền tảng cơ bản của môn võ Taekwondo ngày nay, môn võ mà tên gọi của nó được hình thành từ các từ “Subak”, “Taekkyon” và “Takkyon”. Vào cuối thời kỳ cổ đại, ba triều đại là Koguryo, Paekje và Silla đã được hình thành trên bán đảo Triều Tiên và kể từ đó các cuộc chiến tranh để tranh giành quyền lực đã liên tiếp xảy ra. Cả ba triều đại này đều cố gắng tăng cường sức mạnh quốc gia bằng cách đào tạo nên những chiến binh quả cảm, tih thông võ nghệ và vì vậy lịch sử Triều Tiên đã gọi thời đại này là thời kỳ quân quyền với đa số các nhà lãnh đạo nổi tiếng của các triều đại là các quân nhân. Điều này đã dẫn tới kết quả là các chiến binh trẻ đã được tập hợp lại thành các lực lượng như “Hwarangdo” trong triều đại Silla và “Chouisonin” trong triều dại Koguryo và đối với họ việc rèn luyện võ thuật là một trong các nội dung huấn luyện chủ yếu. Một cuốn sách võ thuật nổi tiếng thời đó đã viết: “Nghệ thuật chiến đấu đối kháng là nền tảng cơ bản của võ thuật đương thời và mục đích chủ yếu của nó là giúp người tập tăng cường sức mạnh của bản thân mình thông qua việc sử dụng hiệu quả các kỹ thuật đòn tay và đòn chân, đồng thời thông qua quá trình huấn luyện một cách 2 có hệ thống giúp người tập có thể dễ dàng ứng biến và đối phó với các tình huống nguy hiểm xảy ra trong cuộc sống”. Trên thực tế điều này lại hoàn toàn phù hợp với các tiêu chí và mục đích huấn luyện của môn võ Taekwondo và vì vậy có thể nói rằng: Taekwondo đã được bắt nguồn từ các bộ lạc trên bán đảo Triều Tiên. II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRONG THỜI TRUNG CỔ: Tiếp nối truyền thống của triều đại Silla, triều đại Koryo đã tiến hành tái hợp nhất bán đảo Triều Tiên và đã tồn tại, phát triển suốt từ năm 918 sau công nguyên cho đến tận năm 1392. Dưới triều đại này môn võ Taekkyon đã được phát triển một cách có hệ thống và đã trở thành một nội dung kiểm tra bắt buộc để tuyển chọn các chiến binh. Trong giai đoạn này Taekkyon đã trở thành một vũ khí tự vệ hiệu quả và có thể trong nháy mắt cướp đi mạng sống của một con người. Trong quân đội một hệ thống các bài tập chung đã được thiết lập để giúp các chiến binh có thể dễ dàng ứng dụng trong thực tế chiến đấu với tên gọi là “5 bài tập Taekkyon dành cho quân nhân” (Obyong Subak Hui). Trong giai đoạn đầu của triều đại Koryo trình độ võ thuật là yếu tố cơ bản nhất để lựa chọn các quân nhân do nhà vua muốn tăng cường sức mạnh phòng thủ của quốc gia sau khi đã tái hợp nhất bán đảo Triều Tiên. Trong số các binh sĩ, người nào có trình độ Taekkyon cao hơn sẽ được đề bạt làm chỉ huy và vì vậy các chàng trai trẻ đã nô nức tham gia vào các trận thi đấu Taekkyon, nơi mà các kỹ năng có thể sẽ biến họ trở thành các sĩ quan. Cũng trong thời điểm này đã xuất hiện các trọng tài trong các trận thi đấu Taekkyon và điều này đã chứng tỏ rằng môn thể thao Taekwondo đã được hình thành trong giai đoạn này. Các nhà sử học của triều đại Koryo đã ghi lại rằng: “Tại buổi trình diễn về sức mạnh công phá của môn võ Taekkyon, võ sư Lee Yi Min đã sử dụng bàn tay phải đấm đổ một cột nhà và làm lung lay các cột khác. Ngay sau đó một võ sư khác cũng sử dụng bàn tay của mình để đấm xuyên qua một bức tường dày bằng đất sét”. Do nhà vua tỏ ra đặc biệt thích thú đối với các trận đấu Taekkyon, cho nên các trận thi đấu này thường xuyên được tổ chức ở bất cứ nơi nào nhà vua có mặt khi thực hiện chuyến tuần du của mình và điều này đã giúp cho môn Taekkyon được truyền bá sâu rộng trong quảng đại dân chúng. Tuy nhiên vào cuối triều đại Koryo việc phát minh ra thuốc súng và các vũ khí cầm tay tiện lợi đã làm cho người ta ít quan tâm hơn đến việc luyện tập võ thuật. Song môn võ Taekkyon vẫn được lưu truyền như là một môn thể thao thi đấu trong dân gian và vẫn tiếp tục được truyền bá, phát triển trong triều đại Chosun. III. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRONG THỜI HIỆN ĐẠI: Lịch sử hiện đại của Triều Tiên được đánh dấu bằng sự hình thành và phát triển của triều đại Chosun (hay còn gọi là Yi từ năm 1392 đến năm 1910). Trong suốt thời kỳ thống trị của phong kiến Triều Tiên và thời kỳ đô hộ của phát xít Nhật kéo dài tới tận năm 1945 thì môn võ Taekwondo thường được gọi là “Subakhui” thay cho tên gọi 3 “ Taekkyon” và nó đã mất đi sự ủng hộ của chính quyền trung ương bởi vì hệ thống phòng thủ quốc gia đã được trang bị các vũ khí tối tân hơn. Do triều đại Chosun được hình thành dựa trên hệ tư tưởng của đạo Khổng, cho nên nó đã bãi bỏ những nghi lễ của đạo Phật và coi trọng văn hóa, nghệ thuật hơn là võ thuật. Tuy nhiên sử sách trong triều đại Koryo vẫn ghi lại các câu chuyện về các trận đấu “Subakhui” được các chính quyền địa phương tổ chức để tuyển lính hoặc phục vụ cho các nhu cầu của nhà vua và các lễ hội lớn của quốc gia. Môn võ này vẫn có một vai trò trong hệ thống quốc phòng và các binh sĩ sẽ được phép gia nhập các trường đào tạo sĩ quan nếu họ giành được chiến thắng trong ba trận thi đấu Subakhui. Tuy nhiên, khi chính quyền đã được củng cố, các quan chức lại tỏ ra quan tâm nhiều hơn tới các loại vũ khí tấn công thay vì phải chú ý tới khả năng phòng thủ của mình và vì vậy việc luyện tập võ nghệ đã ngày càng bị xao nhãng. Chỉ đến năm 1592, sau thất bại nhục nhã trước cuộc xâm lăng của Nhật Bản thì các quan chức của triều đại Jungjo mới bắt đầu tiến hành khôi phục lại sức mạnh phòng thủ của quốc gia bằng việc tăng cường huấn luyện về quân sự và võ thuật. Cũng trong thời điểm này cuốn sách võ thuật nỏi tiếng “Muyedobo-tongji” đã được xuất bản với tập 4 mang tựa đề “Hệ thống kỹ thuật đòn tay” bao gồm 38 động tác cơ bản được thực hiện tương tự như một số bài quyền và kỹ thuật cơ bản của môn Taekwondo ngày nay. Trong thời kỳ đô hộ của phát xít Nhật, một số nhà văn nổi tiếng của Triều Tiên như: Shin Chae Ho và Choi Nam Sun đã đề cập tới việc luyện tập môn võ Taekwondo như sau: “Môn Subakhui đang được truyền bá tại Seoul hiện nay chính là môn võ đã được các chiến binh luyện tập từ thời Koguryo Ngày xưa nó được coi trọng và được luyện tập như là một môn võ thuật thì giờ đây nó chỉ là một trò chơi hấp dẫn của trẻ em”. Tuy vậy chính quyền đô hộ Nhật Bản cũng ngăn cấm cả việc thực hiện “trò chơi” này nhằm đàn áp và đè bẹp tinh thần quật khởi của nhân dân Triều Tiên. Bất chấp sự đe dọa của phát xít Nhật, các võ sư vẫn bí mật truyền bá môn võ Taekkyondo (Taekwondo) cho tới tận ngày Triều Tiên giành được độc lập vào năm 1945. Một trong số các võ sư này là ông Song Duk Ki, học trò của võ sư nổi tiếng Im Ho người đã được biết đến với các kỹ năng tuyệt đỉnh của mình “Nhảy bay qua tường cao và chạy xuyên qua hàng rào gươm giáo”. Vào thời điểm này 14 kỹ thuật cơ bản đã được đưa vào sử dụng bao gồm: 5 đòn đá cơ bản, 4 đòn tay, 3 đòn đá bằng gót chân, 1 đòn đá quay sau và 1 đòn đá quét. Thuật ngữ “Poom” cũng được đưa vào sử dụng để chỉ tư thế chuẩn bị mặt đối mặt trước khi bước vào thi đấu. Tuy nhiên các võ sư trong giai đoạn này luôn phải đối mặt với nguy cơ là sẽ bị chính quyền đô hộ Nhật Bản bắt giam và điều này đã kìm hãm sự phát triển và làm suy yếu môn võ Taekkyondo (Taekwondo). IV. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: Vào cuối thế kỷ 19, quân đội Hàn Quốc suy yếu, người Nhật đô hộ đất nước. Sự áp bức của đế quốc Nhật đối với dân Hàn Quốc rất hà khắc và việc tập luyện võ thuật được xem nguồn gốc của sự nổi loạn bị cấm đoán. Sau khi giành được độc lập từ tay của phát xít Nhật vào năm 1945, nhân dân Triều Tiên bắt đầu khôi phục lại tinh thần tự cường và lại tiếp tục truyền bá, hoàn thiện môn võ thuật truyền thống của mình. Võ 4 Ngay lập tức các võ sư đã đua nhau mở các lò huấn luyện Taekwondo trên khắp đất nước và sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953) kết thúc, số lượng các võ sĩ đạt đẳng cấp “đai đen” đã trở nên rất nhiều. Cũng vào thời điểm này khoảng 2.000 võ sư Taekwondo đẳng cấp cao đã được cử tới hơn 100 nước để giúp các quốc gia này phát triển môn võ Taekwondo. Vào tháng 9/1961, Hội Taekwondo Hàn Quốc được thành lập. Tháng 10/ 1963, Taekwondo đã trở thành môn thi đấu chính thức lần đầu tiên tại Đại hội Thể Thao Quốc Gia. Vào những 1960, huấn luyện viên Hàn quốc bắt đầu ra nước ngoài phổ biến Taekwondo. Đây là bước ngoặt trong lịch sử phát triển của môn võ này. Năm 1971 Taekwondo đã được công nhận là môn thể thao thi đấu quốc gia và năm 1972 trụ sở Kukkiwon đã được khởi công tiến hành xây dựng. Một năm sau vào ngày 28 tháng 05 năm 1973 Liên đoàn Taekwondo Thế giới đã được thành lập. Cũng trong năm này Giải vô địch Taekwondo Thế giới lần đầu tiên được tổ chức và từ đó trở đi Giải được định kỳ tổ chức 2 năm 1 lần. Năm 1974 lần đầu tiên Taekwondo đã được đưa vào thi đấu chính thức tại Đại hội thể thao Châu Á. Năm 1975 Taekwondo đã được Hiệp hội Điền kinh nghiệp dư Mỹ (AAU) và Tổng Hiệp hội các Liên đoàn Thể thao Quốc tế (GAISF) công nhận là môn Thể thao thi đấu chính thức và một năm sau nó cũng đã được Ủy ban Thể thao Quân đội Quốc tế (CISM) công nhận. Năm 1979 Chủ tịch của Liên đoàn Taekwondo Thế giới (WTF) đã được bầu là Chủ tịch của các Liên đoàn Thể thao phi Olympic. Năm 1980 Liên đoàn Taekwondo Thế giới (WTF) đã được Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) công nhận và điều này đã biến Taekwondo trở thành môn Thể thao Olympic. Sau đó Taekwondo còn được đưa vào thi đấu chính thức tại Cúp Thế giới năm 1981, Đại hội Thể thao toàn Phi năm 1986 Hiện nay Liên đoàn Taekwondo Thế giới có 166 quốc gia thành viên toàn thế giới, với khoảng 50.000.0000 người tập luyện. Taekwondo được công nhận là môn thi đấu giành huy chương tại Thế vận hội Olympic Sydney 2000 và 2004. V. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO Ở VIỆT NAM: Năm 1962 Taekwondo chính chức được du nhập vào miền Nam nước ta bắt đầu bằng các chuyến lưu diễn của các đoàn Taekwondo Triều Tiên và việc mở các lớp giảng dạy chính thức tại Sài Gòn do thầy Kim Boang Son đảm nhiệm. Khóa học đào tạo huấn luyện viên Taekwondo đầu tiên cho người Việt Nam được tổ chức tại Trường Võ thuật Thủ Đức với sự tham gia của 63 võ sinh do võ sư Nam Tac Hi (Huyền đai đệ nhất đẳng) phụ trách. Sau đó, theo kế hoạch các khóa 2, 3 cũng được tiếp tục tổ chức và lúc này con số huấn luyện viên được đào tạo ra đã lên tới vài trăm người. Sau khi tốt nghiệp, những huấn luyện viên này đã trở về lại địa phương của mình để mở lớp huấn luyện và do tính quần chúng, tính khoa học cao của môn võ, đồng thời do yêu cầu, điều kiện để tổ chức một lớp học khá đơn giản cho nên bộ môn này đã phát triển một cách nhanh chóng và sâu rộng trong quảng đại quần chúng, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên và học sinh. 5 Giải vô địch Taekwondo Nam kỳ lần thứ nhất được tổ chức vào năm 1965 đã thu được thành công rực rỡ và điều này đã dẫn tới việc định kỳ tổ chức các giải vô địch và các giải thi đấu Taekwondo lớn ở miền Nam Việt Nam. Năm 1966 Tổng cuộc Thái cực đạo miền Nam được thành lập để chỉ đạo và định hướng cho sự phát triển của phong trào Taekwondo Việt Nam. Bên cạnh những chức năng hoạt động chủ yếu Tổng cuộc còn phải đảm nhận vi ... ới trước thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và phản công đối phương bằng đánh chỏ vòng ngang của tay phải (Palkup Dollyochigi) vào quai hàm của đối phương đồng thời thét “Kihap” (Hình 5.2). 78 (5.1) (5.2) Hình 5 Bài 4: 1. Người tấn công bước chân phải lên thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và thực hiện đòn đấm trung đẳng thuận (Momtong Bandae Jireugi) bằng tay phải, người phòng thủ lùi chân phải về sau thành tấn sau phải (Oreun Dwitkubi) và thực hiện đòn đỡ trung đẳng từ trong ra ngoài bằng tay trái (Sonnal Momtong Makki) (Hình 6.1). 2. Người phòng thủ bước nhanh chân trái tới trước thành lập tấn trái (Wen Apkubi) và phản công đối phương bằng đòn đấm trung đẳng nghịch (Momtong Baro Jireugi) bằng tay phải vào mỏ ác của đối phương đồng thời thét “Kihap” (Hình 6.2). (6.2) (6.1) Hình 6 ài 5: Người tấn công bước chân phải lên thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và thực hiện B 1. đòn đấm trung đẳng thuận (Momtong Bandae Jireugi) bằng tay phải, người phòng thủ lùi chân phải về sau thành tấn sau phải (Oreun Dwitkubi) và thực hiện đòn đỡ trung đẳng từ trong ra ngoài bằng cạnh ngoài cổ tay trái (Momtong Bakkat Makki) (Hình 7.1). 79 2. Người phòng thủ bước nhanh chân trái tới trước thành lập tấn trái (Wen Apkubi) và phản công đối phương bằng đòn đấm trung đẳng nghịch (Momtong Baro Jireugi) bằng tay phải vào mỏ ác của đối phươ (7.1) ng đồng thời thét “Kihap” (Hình 7.2). (7.2) Bài 6: Người tấn công bước chân phải lên thành ải chếch hiệ ài 7: Người tấn công bước chân phải lên thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và thực hiện thành tấn ngan Hình 7 1. lập tấn phải (Oreun Apkubi) và thực hiện đòn đấm trung đẳng thuận (Momtong Bandae Jireugi) bằng tay phải. 2. Người phòng thủ bước chân ph lên phía trước bên phải 045 thành tấn ngang (Juchum seogi) và thực n đòn đỡ từ trong ra ngoài bằng cạnh ngoài bàn tay trái (Hansonnal Momtong Makki), đồng thời thực hiện đòn chặt cổ bằng cạnh ngoài bàn tay phải (Sonnal Mokchigi ) (Hình 8) vào cổ của đối phương, đồng thời th ét “Kihap”. Hình 8 B 1. đòn đấm trung đẳng thuận (Momtong Bandae Jireugi) bằng tay phải. 2. Người phòng thủ bước chân phải chếch lên phía trước bên phải 045 g (Juchum seogi) và thực hiện đòn đỡ từ trong ra ngoài bằng cạnh ngoài bàn tay trái (Sonnal Momtong Makki), đồng thời thực hiện đòn đấm thượng đẳng bằng tay phải (Olgul Jireugi) vào quai hàm của đối phương (Hình 9.1). Sau đó, chân phải chuyển thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và thực hiện đòn đấm ngửa (Jecho Jireugi) bằng tay trái vào mỏ ác của đối phương (Hình 9.2) đồng thời thét “Kihap”. 80 (Hình 9.1) (Hình 9.2) Hình 9 Bài 8: ai người từ tư thế chuẩn bị, lùi chân phải ra sau vào tư thế song đấu (Hình 10). 1. H Hình 10 2. Người tấn công thực hiện đòn đ c (Apchagi) bằng chân phải vào mỏ ác củ á tống trướ a đối phương, người phòng thủ lùi chân phải về sau thành lập tấn trái (Wen Apkubi) và thực hiện đòn gạt hạ đẳng bằng tay trái (Arae Makki) (Hình 11.1). Lập tức bước chân phải lên thành lập tấn phải (Oreun Apkubi), phản công bằng đòn đấm trung đẳng thuận (Momtong Bandae Jireugi) của tay phải (Hình 11.2) đồng thời thét “Kihap”. (Hình 11.1) (Hình 11.2) 81 Bài 9: 1. Hai người từ tư thế chuẩn bị, lùi chân phải ra sau vào tư thế song đấu (Hình 10). trước (Apchagi) của c Người tấn công thực hiện đòn đá tống trước (Apchagi) bằng chân phải vào mỏ ác của đối phương, người phòng thủ lùi chân phải về sau thành lập tấn trái (Wen Apkubi) và thực hiện đòn gạt hạ đẳng bằng tay trái (Arae Makki) (Hình 12.1) 2. Người phòng thủ lập tức truy sát đối phương bằng đòn đá tống hân phải (Hình 12.2); đòn đấm trung đẳng thuận (Momtong Bandae Jireugi) của tay phải (Hình 12.3) và đòn đấm trung đẳng nghịch (Momtong Baro Jireugi) bằng tay trái (Hình 12.4) đồng thời thét “Kihap”. (12.1) (12.2) (12.3) (12.4) I. NHẤT THẾ ĐỐI LUYỆN (THƯỢNG ĐẲNG): HANBEON KYORUGI gười đứng đối mặt nhau trong tư thế tấn nghiêm (Charyot), cúi chào (Kyo sẵn sàng (Kongkyok Bangwo Jumb Hình 12 I (OLGUL). - Hai n ngrye) và đứng tấn sẵn sàng (Kibon Jumbi Seogi). - Người tấn công thét “Kihap” và thực hiện tấn i) [chân phải lùi ra sau thành lập tấn trái(Wen Apkubi) và thực hiện đòn gạt hạ 82 đẳng (Arae Makki) bằng tay trái], người phòng thủ đứng trong tư thế chuẩn bị (Jumbi) cũng đồng thời thét “Kihap”. Bài 1: 1. Người tấn công bước chân phải lên thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và thực hiện đòn đấm thượng đẳng thuận (Olgul Bandae Jireugi) bằng tay phải, người phòng thủ lùi chân trái về sau thành tấn sau trái (Wen Dwitkubi) và thực hiện đòn đỡ thượng đẳng từ ngoài vào bằng tay phải (Hansonnal Olgul Anmakki) (Hình 13.1). 2. Người phòng thủ bước nhanh chân phải tới trước thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và phản công đối phương bằng đòn đánh cùi chỏ vòng ngang (Palkup Dollyo Chigi ) bằng tay trái vào mỏ ác của đối phương (Hình 13.2) đồng thời thét “Kihap”. (13.1) (13.2) Hình 13 Bài 2: 1. Người tấn công bước chân phải lên thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và thực hiện đòn đấm thượng đẳng thuận (Olgul Bandae Jireugi) bằng tay phải, người phòng thủ lùi chân phải về sau thành lập tấn trái (Wen Apkubi) và thực hiện đòn đỡ thượng đẳng bằng tay trái (Olgul Makki) (Hình 14.1) 2. Người phòng thủ lập tức dùng tay trái (tay đỡ) nắm cổ tay và kéo đối phương về phía trước và phản công đối phương bằng đòn đấm thượng đẳng (Olgul Jireugi) của tay phải vào huyệt nhân trung của đối phương đồng thời thét “Kihap” (Hình 14.2) (14.1) (14.2) Hình 14 83 Bài 3: 1. Người tấn công bước chân phải lên thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và thực hiện đòn đấm thượng đẳng thuận (Olgul Bandae Jireugi) bằng tay phải, người phòng thủ lùi chân phải về sau thành lập tấn trái (Wen Apkubi) và thực hiện đòn đỡ thượng đẳng bằng tay trái (Olgul Makki).(Hình 14.1) 2. Người phòng thủ bước nhanh chân phải tới trước thành lập tấn phải (Oreun Apkubi) và phản công đối phương bằng đòn đánh về trước bằng lưng nắm đấm (Apchigi) bằng tay phải vào huyệt nhân trung của đối phương (Hình 12) đồng thời thét “Kihap”. Hình 15 84 CHƯƠNG V MỘT SỐ ĐIỀU LUẬT THI ĐẤU TAEKWONDO ĐIỀU 1: MỤC ĐÍCH Mục đích của luật thi đấu là nhằm giải quyết một cách công bằng và hoàn hảo những vấn đề liên quan đến các cuộc thi đấu ở các trình độ do Liên đoàn Taekwondo Thế giới (WTF), Hiệp hội khu vực và các Liên đoàn Quốc gia thành viên tổ chức, thực hiện nhằm bảo đảm áp dụng luật lệ theo đúng tiêu chuẩn. ĐIỀU 2: KHU VỰC THI ĐẤU Khu vực thi đấu có kích thước 10m x 10m, sàn đấu hoàn toàn bằng phẳng, không có bất kỳ vật cản nào. Khu vực thi đấu phải được phủ bằng mặt thảm đàn hồi. Tuy nhiên, nếu cần thiết, khu vực thi đấu có thể đặt cao từ 50 – 60cm so với mặt sàn và phần ngoài đường biên không được nghiêng quá 30 để đảm bảo an toàn cho các đấu thủ. 0 Sơ đồ 1: Sơ đồ khu vực thi đấu I. Mặt bằng khu vực thi đấu (Field of Taekwondo play) 1. Vị trí của trọng tài (Refere’s Mark) II. Khu vực thi đấu (Competition Area) 2. Vị trí của giám định (Judge’s Mark) III. Đường ranh giới (Boundary) 3. Vị trí của thư ký (Recorder’s Mark) III.1 Đường ranh giới 1 (1 Boundary Line) 4. Vị trí của bác sỹ (Commision Doctor’s Mark) St Theo chiều kim đồng hồ là đường ranh giới 5.1 Vị trí cùa VĐV xanh (Blue contestant’s Mark) 2, 3 và 4. 5.2 Vị trí cùa VĐV đỏ (Red contestant’s Mark) 6.1 Vị trí cùa HLV xanh (Blue Coach’s Mark) 6.2 Vị trí cùa HLV đỏ (Red Coach’s Mark) 85 ĐIỀU 3: VÕ PHỤC VÀ TRANG THIẾT BỊ BẢO VỆ CỦA CÁC ĐẤU THỦ 3.1 Đấu thủ phải mang áo giáp, mũ bảo vệ, dụng cụ bảo vệ hạ bộ, dụng cụ bảo vệ ống tay, ống chân, bao tay và dụng cụ bảo vệ răng trước khi vào khu vực thi đấu. 3.2 Dụng cụ bảo vệ hạ bộ, bảo vệ ống tay ống chân phải mang bên trong võ phục Taekwondo. Các trang thiết bị bảo vệ mà các vận động viên dùng phải đủ tiêu chuẩn WTF (bao gồm cả bao tay và dụng cụ bảo vệ răng). Ngoài ra, vận động viên không được phép đội hoặc mang bất cứ thứ gì ngoài mũ bảo hiểm trên đầu. ĐIỀU 4: CÁC HẠNG CÂN 4.1 Hạng cân được chia ra thành các hạng cân dành cho nam và các hạng cân dành cho nữ. 4.2 Các hạng cân cơ bản được phạn chia như sau: STT Hạng cân Nam Nữ 01 Siêu nhẹ Không quá 54kg Không quá 47 kg 02 Ruồi Trên 54kg – Không quá 58 kg Trên 47kg – Không quá 51 kg 03 Gà Trên 58kg – Không quá 62 kg Trên 51kg – Không quá 55 kg 04 Lông Trên 62kg – Không quá 67 kg Trên 55kg – Không quá 59 kg 05 Nhẹ Trên 67kg – Không quá 72 kg Trên 59kg – Không quá 63 kg 06 Bán trung Trên 72kg – Không quá 78 kg Trên 63kg – Không quá 67 kg 07 Trung Trên 78kg – Không quá 84 kg Trên 67kg – Không quá 72 kg 08 Nặng Trên 84kg Trên 72kg 4.3 Các hạng cân thi đấu tại Thế vận hội Olympic được chia như sau: STT Hạng cân nam Hạng cân nữ 01 Không quá 58kg Không quá 49kg 02 Trên 58kg và dưới 68kg Trên 49kg và dưới 57kg 03 Trên 68kg và dưới 80kg Trên 57kg và dưới 67kg 04 Trên 80kg Trên 67kg ĐIỀU 5: HÌNH THỨC THI ĐẤU 5.1 Thể thức thi đấu loại trực tiếp một lần thua 5.2 Thể thức thi đấu vòng tròn 5.3 Các cuộc thi đấu Taekwondo tại Thế vận hội Olympic sẽ được tiến hành bằng phương thức thi đấu cá nhân giữa các vận động viên. 5.4 Tất cả các cuộc thi đấu Quốc tế muốn được WTF thừa nhận phải có ít nhất 4 nước tham gia và mỗi hạng cân phải có từ 4 vận động viên trở lên. Bất cứ một hạng cân nào dưới 4 VĐV tham gia đều không được công nhận thành tích chính thức. ĐIỀU 6: THỜI GIAN THI ĐẤU Thời gian thi đấu là 3 hiệp, mỗi hiệp 2 phút, thời gian nghỉ giữa các hiệp là 1 phút. Nếu sau khi thi đấu xong 3 hiệp mà tỉ số vẫn hòa thì các vận động viên sẽ nghỉ 1 phút, sau đó đấu hiệp thứ 4 là hiệp phụ trong thời gian 2 phút và sẽ áp dụng luật cái chết bất ngờ. 86 ĐIỀU 7: BẮT THĂM, CÂN ĐO 7.1 Việc bắt thăm sẽ được thực hiện một ngày trước trận đấu đầu tiên, được tiến hành bắt đầu từ hạng cân siêu nhẹ trở lên. 7.2 Các quan chức sẽ đại diện bắt thăm cho các quốc gia tham dự không có mặt trong buổi bắt thăm. 7.3 Cân chính thức các VĐV trong ngày thi đấu phải được hoàn tất trước khi tiến hành thi đấu một ngày. 7.4 Trong khi cân, các VĐV nam chỉ được mặc quần lót, các VĐV nữ mặc quần lót và áo nịt ngực. Tuy nhiên, VĐV có thể ở trần khi tiến hành cân nếu VĐV đó yêu cầu. ĐIỀU 8: CÁC KỸ THUẬT VÀ VÙNG ĐƯỢC PHÉP ĐÁNH 8.1 Các kỹ thuật được phép sử dụng: 8.1.1 Kỹ thuật đấm: kỹ thuật phát đòn bằng cách sử dụng mặt trước của ngón trỏ và ngón giữa của nắm đấm chặt. 8.1.2 Kỹ thuật chân: Được dùng các phần của chân từ mắt cá trở xuống. 8.2 Các vùng được phép đánh: 8.2.1 Phần thân: Được phép tấn công bằng các kỹ thuật tay và chân vào phần thân đã được bảo vệ. Tuy nhiên, các đòn này không được tấn công vào phần lưng không có áo giáp bảo vệ. 8.2.2 Phần mặt: Là vùng phía trước của mặt được giới hạn bởi 2 tai và chỉ được dùng đòn chân tấn công ĐIỀU 9: CÁC ĐIỂM ĐƯỢC GHI NHẬN 9.1 Vùng được điểm đúng luật: 9.1.1 Phần giữa thân người: là phần có áo giáp bảo vệ 9.1.2 Phần mặt: Toàn bộ khuôn mặt bao gồm cả tai (ngoại trừ phần gáy phía sau đầu) 9.2 Đấu thủ sẽ được tính điểm khi thực hiện một kỹ thuật hợp lệ chính xác và mạnh vào các khu vực được phép trên cơ thể đối phương. 9.3 Điểm số hợp lệ được phân chia như sau: 9.3.1 VĐV đạt được 1 điểm khi tấn công hiệu quả vào vùng áo giáp bảo vệ thân người 9.3.2 VĐV đạt được 2 điểm khi tấn công hiệu quả vào mặt đối phương. 9.3.3 Nếu VĐV thực hiện đòn đánh làm đối phương bị “Knocked down” hoặc bị trọng tài đếm thì cũng được thưởng thêm 1 (một) điểm nữa. 9.4 Tỷ số trung cuộc của trận đấu là tổng điểm của cả 3 hiệp đấu. 9.5 Điểm không được công nhận: Khi một VĐV tấn công ghi điểm bằng cách sử dụng các đòn đánh không đúng luật hoặc bị cấm thì điểm số đó sẽ bị hủy bỏ. 87 ĐIỀU 10: CÁC LỖI VI PHẠM VÀ XỬ PHẠT 10.1 Việc xử phạt bất cứ lỗi vi phạm nào đều sẽ do trọng tài tuyên bố. 10.2 Việc xử phạt được chia thành “Kyong-go” (phạt cảnh cáo) và “Gam-jeom” (phạt trừ điểm). 10.3 Hai lần “Kyong-go” được xem như bị trừ 1 điểm. Tuy nhiên, lần “Kyong- go” lẻ cuối cùng sẽ không bị trừ điểm trong bảng tổng điểm. 10.4 Một lần “Gam-jeom” bị trừ 1 điểm. 10.5 Các lỗi vi phạm: 10.5.1 Các lỗi vi phạm dưới đây sẽ bị xử phạt “Kyong-go”: a. Vượt ra khỏi đường biên b. Tránh thi đấu bằng cách xoay lưng lại đối phương c. Bị ngã xuống sàn d. Lẫn tránh thi đấu (thi đấu không tích cực) e. Ôm, kéo hoặc đẩy đối phương f. Tấn công vào vùng dưới thắt lưng g. Giả vờ bị chấn thương h. Tấn công bằng đầu gối i. Đánh vào mặt đối phương bằng tay hoặc nắm đấm j. VĐV hoặc huấn luyện viên thốt ra những lời nói thiếu lịch sự hoặc có bất kỳ một hành động thiếu văn hóa nào. 10.5.2 Các lỗi vi phạm sau đây sẽ bị xử phạt “Gam-jeom”: a. Tấn công đối phương sau khi có khẩu lệnh “Kal-yeo” b. Tấn công khi đối phương bị ngã c. Quăng quật đối thủ bằng cách ôm chân đối thủ khi đối thủ đang tấn công hoặc đẩy đối thủ bằng tay. d. Cố ý tấn công vào mặt đối phương bằng tay e. VĐV hoặc huấn luyện viên làm gián đoạn tiến trình thi đấu f. VĐV hoặc huấn luyện viên có hành động thô bạo hoặc bày tỏ thái độ gay gắt. 10.6 Khi một VĐV cố tình không tuân thủ luật thi đấu hoặc lệnh của trọng tài, trọng tài có thể tuyên bố VĐV thua cuộc bằng cách xử phạt ngay cả khi trận đấu mới bắt đầu được 1 phút. 10.7 Khi một VĐV bị trừ 4 điểm, trọng tài sẽ tuyên bố VĐV đó bị thua. 10.8 “Kyong-go” và “Gam-jeom” sẽ được tính vào tổng điểm chung của cả 3 hiệp đấu. 10.9 Khi trọng tài cho trận đấu tạm dừng để công bố phạt “Kyong-go” hay “Gam-jeom”, thời gian thi đấu sẽ không được tính kể từ lúc trọng tài ra lệnh “Kye-shi” cho đến khi trọng tài ra lệnh “Kye-sok” thì trận đấu lại tiếp tục. 88 ĐIỀU 11: ĐÁNH NGÃ (KNOCK DOWN) 11.1 Khi bất cứ bộ phận cơ thể nào trừ lòng bàn chân chạm xuống sàn do chịu tác động từ lực ra đòn của đối phương. 11.2 Khi một VĐV loạng choạng, không thể hiện ý định hay khả năng tiếp tục trận đấu 11.3 Khi trọng tài phán định rằng trận đấu không thể tiếp diễn do bất cứ đòn đành uy lực nào vừa được tung ra. ĐIỀU 12: CÁC QUYẾT ĐỊNH 12.1 Thắng bằng nốc ao 12.2 Thắng bằng quyết định dừng trận đấu của trọng tài 12.3 Thắng bằng điểm ưu thế 12.3.1 Thắng bằng điểm chung cuộc 12.3.2 Thắng bằng chênh lệch điểm Khi có chênh lệch là 7 điểm thì trận đấu sẽ dừng lại và người thắng cuộc sẽ được tuyên bố 12.3.3 Thắng bằng điểm trần Khi một VĐV ghi được 12 điểm thì trận đấu sẽ dừng lại và người đó sẽ được tuyên bố thắng cuộc. 12.4 Thắng do đối phương bỏ cuộc 12.5 Thắng do đối phương bị loại khỏi cuộc đấu 12.6 Thắng bằng tuyên bố phạt của trọng tài. 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kim Yong Choi, 1990, Kỹ thuật Taekwondo, NXB Korea. 2. S.H.Choi, 1990, Taekwondo (Song đấu tự do), NXB Korea. 3. Nguyễn Hùng Sơn, 1992, Kỹ thuật Taekwondo, NXB TDTT, Hà Nội. 4. Hồ Hoàng Khánh, 1995, Căn bản Taekwondo, NXB TDTT, Hà Nội. 5. Kuk Hyun Chung – Kyung Myung Lee, 1998, Taekwondo huấn luyện nâng cao, NXB TDTT, Hà Nội. 6. Ủy ban TDTT, 1999, Giáo trình Taekwondo, NXB TDTT, Hà Nội. 7. Ủy ban TDTT, 2006, Luật thi đấu Taekwondo, NXB TDTT, Hà Nội. 90
File đính kèm:
- giao_trinh_taekwondo.pdf