Hệ sinh thái khởi nghiệp – Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Tóm tắt

Khởi nghiệp đã và đang trở thành vấn đề được quan tâm và tranh luận tại nhiều quốc gia

trên thế giới, của cả giới doanh nhân và cả giới nghiên cứu, trong đó có Việt Nam. Hệ

sinh thái khởi nghiệp chính là tập hợp các thành tố tạo nên môi trường cho khởi nghiệp

phát triển. Bài viết chỉ ra vai trò và các thành phần trọng yếu của một hệ sinh thái khởi

nghiệp, đồng thời phân tích kinh nghiệm quốc tế của hai hệ sinh thái khởi nghiệp thành

công trên thế giới là Hồng Kông và Waterloo trên các khía cạnh của bốn trong số các

thành phần chính của một hệ sinh thái khởi nghiệp, bao gồm chính sách chính phủ và

khuôn khổ pháp lý, tiếp cận thị trường, nguồn nhân lực và lực lượng lao động, tài trợ và

tài chính. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra các bài học đứng từ góc độ chính phủ, doanh

nghiệp và các trường đại học nhằm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp còn non trẻ ở Việt

Nam.

Nội dung Phần 1: Phần 1 của bài viết nêu tổng quan các vấn đề cơ bản về hệ sinh thái

khởi nghiệp, về đặc điểm, vai trò, và các yếu tố cấu thành nên hệ sinh thái đó. Phần 1

cũng phân tích kinh nghiệm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp tại Hồng Kông, tập trung

vào các khía cạnh: chính sách chính phủ và khuôn khổ pháp lý, tiếp cận thị trường,

nguồn nhân lực và lực lượng lao động, tài trợ và tài chính.

Nội dung phần 2: Phần 2 phân tích kinh nghiệm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp tại

Waterloo (Canada), tập trung vào các khía cạnh: chính sách chính phủ và khuôn khổ

pháp lý, tiếp cận thị trường, nguồn nhân lực và lực lượng lao động, tài trợ và tài chính.

Phần 2 cũng chỉ ra các bài học kinh nghiệm và ngụ ý chính sách nhằm phát triển hệ sinh

thái khởi nghiệp tại Việt Nam

pdf 22 trang yennguyen 2040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hệ sinh thái khởi nghiệp – Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ sinh thái khởi nghiệp – Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Hệ sinh thái khởi nghiệp – Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
1 
Hệ sinh thái khởi nghiệp – một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt 
Nam 
Nguyễn Thu Thủy1 
Cao Thị Minh Hảo2 
Tóm tắt 
Khởi nghiệp đã và đang trở thành vấn đề được quan tâm và tranh luận tại nhiều quốc gia 
trên thế giới, của cả giới doanh nhân và cả giới nghiên cứu, trong đó có Việt Nam. Hệ 
sinh thái khởi nghiệp chính là tập hợp các thành tố tạo nên môi trường cho khởi nghiệp 
phát triển. Bài viết chỉ ra vai trò và các thành phần trọng yếu của một hệ sinh thái khởi 
nghiệp, đồng thời phân tích kinh nghiệm quốc tế của hai hệ sinh thái khởi nghiệp thành 
công trên thế giới là Hồng Kông và Waterloo trên các khía cạnh của bốn trong số các 
thành phần chính của một hệ sinh thái khởi nghiệp, bao gồm chính sách chính phủ và 
khuôn khổ pháp lý, tiếp cận thị trường, nguồn nhân lực và lực lượng lao động, tài trợ và 
tài chính. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra các bài học đứng từ góc độ chính phủ, doanh 
nghiệp và các trường đại học nhằm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp còn non trẻ ở Việt 
Nam. 
Nội dung Phần 1: Phần 1 của bài viết nêu tổng quan các vấn đề cơ bản về hệ sinh thái 
khởi nghiệp, về đặc điểm, vai trò, và các yếu tố cấu thành nên hệ sinh thái đó. Phần 1 
cũng phân tích kinh nghiệm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp tại Hồng Kông, tập trung 
vào các khía cạnh: chính sách chính phủ và khuôn khổ pháp lý, tiếp cận thị trường, 
nguồn nhân lực và lực lượng lao động, tài trợ và tài chính. 
Nội dung phần 2: Phần 2 phân tích kinh nghiệm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp tại 
Waterloo (Canada), tập trung vào các khía cạnh: chính sách chính phủ và khuôn khổ 
pháp lý, tiếp cận thị trường, nguồn nhân lực và lực lượng lao động, tài trợ và tài chính. 
Phần 2 cũng chỉ ra các bài học kinh nghiệm và ngụ ý chính sách nhằm phát triển hệ sinh 
thái khởi nghiệp tại Việt Nam. 
Từ khóa: Khởi nghiệp, hệ sinh thái, Hồng Kông, Waterloo 
Abstract: 
Startups have been becoming a hot issue that is paid much attention to and discussed 
about in many countries all over the world, both by the business circle and by the 
academia, including Vietnam. A startup ecosystem is where all components and factors 
are gathered to create an environment for developing startups. This paper points out the 
role and the key components of a startup ecosystem, and analyzes the international 
experiences in two successful startup ecosystems – HongKong and Waterloo, in terms of 
four of its key components, namely government’s policy and legal framework, market 
reach, human resource and labor force, funding and financing. Correspondingly, the 
1 Trường Đại học Ngoại thương, thuy.nt@ftu.edu.vn 
2 Trường Đại học Ngoại thương, minhhao.zu@gmail.com 
2 
paper draws out several implications and lessons from the perspectives of the 
Government, the enterprises and universities in order to further develop the infant 
startup ecosystem in Vietnam. 
Part 1: Part 1 of the paper provides an overview on the fundamentals of a startup 
ecosystem, including the key characteristics, the roles and its crucial components. Part 1 
also analyzes the experience in developing the startup ecosystem in HongKong, mainly 
from the perspectives of government’s policy and legal framework, market reach, human 
resource and labor force, funding and financing. 
Part 2: Part 2 provides an analysis on the experience in developing the startup ecosystem 
in Waterloo (Canada), mainly from the perspectives of government’s policy and legal 
framework, market reach, human resource and labor force, funding and financing. Part 2 
also concludes with the key lessons and policy implications for developing Vietnam’s 
startup ecosystem more successfully. 
Keywords: startup, startup ecosystem, Hongkong, Waterloo 
3 
Tiếp theo Phần 1, Tạp chí số 95 (6/2017) 
4. Hệ sinh thái khởi nghiệp Waterloo, Canada 
4.1. Tổng quan về thành phố Waterloo và khu vực Waterloo 
Thành phố Waterloo nằm ở phía nam tỉnh bang Ontario, Canada. Waterloo có diện 
tích 64.02 km2, và dân số khoảng 133,700 người, tính đến năm 2015. Năm 2016, 
MoneySense đánh giá Waterloo là nơi tốt nhất thứ 10 ở Canada. Hội đồng thành phố 
Waterloo bao gồm bảy ủy viên hội đồng, mỗi uỷ viên đại diện cho một phường, và có 
một thị trưởng. Các hội đồng thành phố luôn cam kết gia tăng dân số và mang lại sự bùng 
nổ kinh tế tại địa phương. Các phân khu đang phát triển nhanh chóng thường được những 
người chỉ trích mô tả như là những khu vực bất ổn của đô thị, đe dọa các khu vực nhạy 
cảm về môi trường và đất nông nghiệp có giá trị. 
Waterloo luôn ưu tiên phát triển hệ thống giáo dục, là một nơi có chất lượng giáo 
dục cao từ các bậc phổ thông đến bậc đại học. Waterloo là quê hương của nhiều trường 
cao đẳng và đại học như St. Jerome’s University, St. Paul’s University College, Conrad 
Grebel University College, nổi bật là University of Waterloo và Wilfrid Laurier 
University là những trường đại học được công nhận rộng rãi toàn cầu, thu hút nhiều học 
sinh đến du học Canada. 
Kinh tế của Waterloo dựa trên dịch vụ bảo hiểm, các ngành công nghệ cao và hệ 
thống giáo dục từ các trường cao đẳng, đại học. Waterloo là một phần của Tam giác công 
nghệ Canada (Canada’s Technology Triangle) – một sáng kiến để phát triển kinh tế 
chung của Waterloo, Kitchener và Cambridge. Tổ chức này không chỉ tập trung vào thúc 
đẩy các ngành công nghiệp công nghệ cao mà tác động đến mọi khía cạnh của phát triển 
kinh tế. Những trung tâm kinh tế của thành phố Waterloo có thể kể đến là Blackberry, 
Sun Life, Công ty Bảo hiểm Manulife, Đại học Waterloo 
4.2. Phân tích thực trạng và một số thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp tại khu 
vực Waterloo 
4 
Khu vực Waterloo của Canada nằm trong danh sách 25 hệ sinh thái khởi nghiệp 
hàng đầu thế giới, với khoảng 1.100 công ty khởi nghiệp với số dân khoảng nửa triệu 
người - mật độ khởi nghiệp cao thứ hai trên thế giới sau Silicon Valley. 
Khu vực Waterloo đã tạo dựng cho mình danh tiếng toàn cầu trong việc tạo ra 
nguồn nhân lực có tài năng kỹ thuật hàng đầu. Điều này đã dẫn đến sự phát triển của 
nhiều công nghệ tiên tiến và công ty khởi nghiệp về công nghệ, cùng với việc thành lập 
các trung tâm R&D của một số công ty công nghệ lớn nhất thế giới, cụ thể là Google. 
Thành tích này có thể được quy cho các trường đại học trong hệ thống giáo dục, đặc biệt 
là Đại học Waterloo. Hoạt động tốt của hệ sinh thái khởi nghiệp Waterloo còn do nhờ vào 
Communitech, một trung tâm đổi mới hoạt động như một điều phối viên tích cực của hệ 
sinh thái. Trung tâm này cung cấp các chương trình tăng tốc khởi nghiệp, không gian cho 
các công ty khởi nghiệp và các tổ chức khác để định vị các vườn ươm khởi nghiệp, các 
chương trình tư vấn chính thức và không chính thức. Sự tồn tại của Communitech sẽ 
không thể thành hiện thực nếu không có chính quyền Ontario và các nhà hoạch định 
chính sách có kiến thức, chủ động duy trì khu vực của mình với các chính sách vượt trội 
cho hệ sinh thái khởi nghiệp, sẵn sàng tài trợ cho các sáng kiến mới trong khi vẫn cho 
phép khu vực tư nhân dẫn đầu. 
Nếu khu vực Waterloo có thể giải quyết ba vấn đề lớn đang gặp phải, đó là: giúp 
các công ty khởi nghiệp xoá đi khoảng trống về tài chính - đặc biệt ở giai đoạn đầu tư hạt 
giống, tiến hành hội nhập với hệ sinh thái khởi nghiệp ở Toronto, và giải quyết các thách 
thức trong việc nhanh chóng mở rộng doanh số bán hàng tại Mỹ - thách thức chung mà 
hầu hết các hệ sinh thái ngoài Mỹ gặp phải, Waterloo có thể trở thành một câu chuyện 
thành công mang tầm quốc tế. 
4.2.1. Chính sách chính phủ và khuôn khổ pháp lý 
Về mức độ chính sách quốc gia, Viện Doanh nghiệp và Phát triển Toàn cầu (GEDI) 
xếp Canada thứ hai, chỉ thua Mỹ ba điểm trong Chỉ số Doanh nhân Toàn cầu năm 2015 
(GEI). Canada đứng ở vị trí cao hơn Úc và Anh với tương ứng là bốn và chín điểm, và tốt 
hơn trung bình toàn cầu và Bắc Mỹ trên tất cả các chỉ số. 
5 
Hình 8 được xây dựng bằng dữ liệu của GEDI, so sánh hiệu suất GEI của Canada 
với Mỹ. Theo Hình 8, Canada có hiệu suất tương đối ngang với Mỹ, ngoại trừ các chỉ số 
về Kỹ năng khởi nghiệp, Đổi mới trong sản phẩm, Đổi mới trong quy trình. Các thế mạnh 
tương đối của Canada là Nhận thức về cơ hội, Cộng đồng, Hỗ trợ văn hoá, Cơ hội khởi 
nghiệp, Nguồn nhân lực, và Quốc tế hóa. 
Mặc dù tín dụng thuế của Chính phủ Canada đối với các khoản đầu tư mạo hiểm 
thất bại, nhưng sau đó họ đã cải tiến cách tiếp cận, đầu tư dưới dạng LPs (Limited 
Partners – Đối tác có giới hạn) để tạo ra các quỹ mạo hiểm lớn hơn và lựa chọn các GPs 
(General Partners – Đối tác chung) có kinh nghiệm. Cách tiếp cận này đã đem lại thành 
công cao hơn nhiều. Kế hoạch Hành động về Vốn mạo hiểm (VCAP) được thành lập vào 
năm 2013 để tăng cường vốn đầu tư mạo hiểm và chỉ đạo nhiều nguồn lực hơn cho việc 
khởi nghiệp. VCAP làm được như vậy bằng cách ủng hộ các quỹ của quỹ với $1 cho mỗi 
$2 mà họ gây quỹ từ các nguồn tư nhân. 
Hình 8. Chỉ số GEI của Canada và Mỹ 
Nguồn: Global Entrepreneurship and Development Institute, 2015 
6 
Chiến lược trên đã tạo ra bốn quỹ của quỹ. Chẳng hạn, Chính phủ của Ontario tham 
gia với vai trò là một LP trong quỹ của quỹ do Quỹ Mạo hiểm Catalyst Northleaf 
(NVCF) quản lý, còn Chính phủ của Québec đang tham gia vào Quỹ Đổi mới Sáng tạo 
Teralys. 
Chính phủ Ontario đã thiết lập một quỹ đầu tư hạt giống gọi là Quỹ Đầu tư Tăng 
tốc, nơi họ đầu tư vào 500.000 công ty khởi nghiệp trẻ đầy hứa hẹn. Quỹ này được thành 
lập vào năm 2007 và ngay ban đầu đã đầu tư 49 triệu USD vào hơn 100 công ty, sau đó là 
các khoản đầu tư tăng lên gấp 10 lần từ các nhà đầu tư tư nhân, làm cho quỹ trở thành 
một trong những quỹ đầu tư hạt giống hoạt động tích cực nhất trong nước. Tỉnh Ontario 
cũng đã thành lập Quỹ Đầu tư Mạo hiểm Ontario, một chiến lược về vốn rủi ro ước tính 
có thể tăng vốn rủi ro trên địa bàn tỉnh lên khoảng 40%. 
Bộ Thương mại Canada cũng đã thành lập tổ chức Tăng tốc khởi nghiệp Công nghệ 
Canada (CTAs). Nhiệm vụ của họ là giúp các công ty có tốc độ tăng trưởng cao của 
Canada thâm nhập vào thị trường toàn cầu. Các lĩnh vực trọng tâm bao gồm Công nghệ 
thông tin và Truyền thông, Khoa học Đời sống, và các ngành Công nghệ Bền vững. Dịch 
vụ bao gồm quyền sử dụng văn phòng và cố vấn miễn phí; hỗ trợ tiếp cận các nguồn tài 
chính; hỗ trợ tinh chỉnh mô hình kinh doanh cho các cơ hội thị trường toàn cầu; và giới 
thiệu với các đối tác toàn cầu và khách hàng. CTAs cùng với tổ chức của New York điều 
hành một chương trình công nghệ kỹ thuật số tập trung vào việc thúc đẩy thâm nhập thị 
trường cho các công ty khởi nghiệp có doanh thu hàng năm từ 1 triệu USD. 
Chính phủ Canada cũng đã có những tiến bộ trong việc đưa ra các chính sách tốt 
hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nhân. Canada đã giảm thuế suất thuế doanh 
nghiệp nhỏ xuống còn 11% và tăng mức giới hạn thu nhập cho thuế suất thuế doanh 
nghiệp nhỏ từ 300.000 USD lên 500.000 USD. Ngoài ra, họ tăng mức miễn trừ vốn theo 
vòng đời (LCGE) cho các chủ doanh nghiệp nhỏ từ 500.000 USD đến 800.000 USD và 
sẽ lập giới hạn mới nếu có lạm phát. Do việc lập giới hạn mới, giới hạn LCGE đã tăng 
lên 813.600 USD vào năm 2015. Tuy nhiên, một số hạn chế có thể cản trở sự tăng trưởng 
các hoạt động của các nhà đầu tư thiên thần. Ví dụ, hầu hết các nhà đầu tư thiên thần 
thích hợp tác đầu tư hoặc tham gia vào một tổ hợp nhất định, nhưng việc chuyển đổi thuế 
7 
mới không áp dụng cho đầu tư cá nhân thông qua tổ chức. Ngoài ra, giới hạn tái đầu tư 
500.000 USD có thể là hạn chế đối với một số nhà đầu tư thiên thần. 
Canada cũng còn nhiều công việc phải làm về chính sách nhập cư. Thị thực khởi 
nghiệp được đưa ra vào tháng 4/2013 nhằm tăng khả năng di chuyển cho nguồn nhân lực 
tài năng và tạo cơ hội cho các công ty khởi nghiệp có khả năng thuê nhân lực quốc tế, 
cũng như đưa Canada trở thành nơi chào đón những công ty khởi nghiệp. Tuy nhiên, kết 
quả lại là việc cấp thị thực rất ít, mà lý do là vì thiếu nguồn lực và thiếu hướng dẫn cụ 
thể, dẫn tới sự thất bại của chính sách này. 
4.2.2. Tiếp cận thị trường 
Việc khu vực Waterloo xếp thứ 26 đến 30 về tiếp cận thị trường trong Xếp hạng Hệ 
sinh thái Toàn cầu năm 2015 (2015 Global Startup Ecosystem Ranking) cho thấy thách 
thức của các công ty khởi nghiệp của Waterloo phải đối mặt trong việc mở rộng quy mô. 
Đối với những công ty khởi nghiệp đến được vòng gọi vốn B, tiếp cận thị trường là 
yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hiệu suất của họ. Vì không giải quyết được những 
vấn đề trong tiếp cận thị trường địa phương, tiếp cận thị trường toàn cầu là chiến lược 
quan trọng nhất đối với các công ty khởi nghiệp Waterloo. 
Xem xét hệ sinh thái khởi nghiệp của khu vực Waterloo với sự tăng trưởng chậm 
trong việc định giá khoản tài trợ, sự thiếu hụt các công ty khởi nghiệp đến được giai đoạn 
thoái vốn/hoàn vốn và các công ty khởi nghiệp kỳ lân3, tiếp cận thị trường toàn cầu - khả 
năng để các công ty khởi nghiệp Waterloo phát triển ra toàn cầu, mà cụ thể hơn chính là 
để phát triển được tại thị trường Mỹ - được xem là vấn đề lớn nhất. 
Tiếp cận thị trường địa phương 
Khi so sánh tiếp cận thị trường địa phương của hệ sinh thái khởi nghiệp Waterloo 
với các khu vực ngang hàng đang dẫn đầu cả bên trong và bên ngoài Canada (Hình 9), 
với GDP của khu vực thành thị khoảng 28 tỷ USD, thị trường địa phương của Waterloo 
3 Biệt danh của các công ty khởi nghiệp xuất sắc có giá trên 1 tỷ USD. 
8 
chỉ bằng một phần tư quy mô của Vancouver và Austin, và chưa được 2/3 quy mô của 
Bangalore, chỉ bằng 1/10 của Toronto và 1/20 của Silicon Valley. 
Hình 9. GDP tại các đô thị lớn trên thế giới 
Đơn vị: tỷ USD 
Nguồn: Waterloo Startup Ecosystem (2015) 
Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là, trung tâm thành phố Toronto cách 
Waterloo chỉ 70 dặm, làm cho Toronto có khả năng tiếp cận được như một thị trường địa 
phương. Các công ty khởi nghiệp thành lập tại Waterloo được coi là những doanh nghiệp 
có bất lợi về tiếp cận thị trường địa phương, họ ít được tiếp cận với số lượng lớn người 
tiêu dùng và doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp lớn) hơn so với các công ty khởi 
nghiệp ở các thành phố lớn. 
Một khía cạnh khác là xét về quy mô của thị trường quốc gia. Canada có dân số 
khoảng 35 triệu người, nhỏ hơn tiểu bang California 10% và chỉ bằng khoảng 1/10 so với 
quy mô của Mỹ. Tuy nhiên, về thị trường văn hoá, Waterloo được tiếp cận các thị trường 
văn hoá lớn và thị trường nói tiếng Anh như Mỹ, Anh và Úc. Điều này mang lại một số 
lợi thế, mặc dù cần lưu ý rằng 13 trong 20 hệ sinh thái khởi nghiệp hàng đầu cũng sử 
dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính trong kinh doanh. 
Tiếp cận thị trường toàn cầu 
• Tỷ lệ khách hàng nước ngoài 
327
140
350
36
1506
535
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
Toronto Vancouver Montreal Waterloo New York Silicon Valley
9 
Bởi vì Mỹ, thị trường B2B lớn nhất thế giới, cách Waterloo dưới 100 dặm, các công 
ty khởi nghiệp Waterloo hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội để tập trung vào thị trường Mỹ 
và gia nhập thị trường Mỹ sớm hơn. Tuy nhiên, trung bình có 51% khách hàng của các 
công ty khởi nghiệp Waterloo là người nước ngoài (chủ yếu là ở Hoa Kỳ); trong kh ... vòng gọi vốn A, B, và D+, nhưng điều này là do một tỷ lệ vốn 
nhiều bất thường đi vào vòng gọi vốn C. Toronto và Vancouver cũng gặp những vấn đề 
tương tự, mỗi thành phố có tỷ lệ vốn bất thường đi vào vòng gọi vốn C hoặc D+ 
(Waterloo Startup Ecosystem, 2015). 
Thị trường vốn mạo hiểm địa phương là yếu tố quan trọng từ vòng đầu tư hạt giống 
đến vòng cấp vốn B. Đối với vòng cấp vốn C và các vòng sau đó, các công ty đầu tư mạo 
hiểm từ khắp nơi trên thế giới cạnh tranh để được đầu tư vào những công ty khởi nghiệp 
làm ăn tốt nhất khi các công ty đó tiến gần hơn đến giai đoạn thoái vốn/hoàn vốn. Vì lý 
do này, tỷ lệ thấp của các vòng cấp vốn D+ trong hệ sinh thái khởi nghiệp các thành phố 
của Canada cho thấy sự thiếu hụt các công ty khởi nghiệp đạt được đến các vòng cấp vốn 
đó. 
• Các khoản đầu tư hạt giống 
Xem xét số trung vị khoản đầu tư của vòng đầu tư hạt giống, các công ty khởi 
nghiệp Waterloo đạt 120.000 USD so với 600.000 USD của bốn hệ sinh thái hàng đầu 
của Mỹ. Các hệ sinh thái hàng đầu của Canada là Montreal, Toronto và Vancouver đạt 
trung bình 300.000 USD. Số trung bình khoản đầu tư của vòng đầu tư hạt giống ở 
Waterloo (695.000 USD) và các hệ sinh thái hàng đầu của Canada (655.000 USD) khá 
gần với của hệ các sinh thái khởi nghiệp hàng đầu Mỹ (925.000 USD). Kết hợp với việc 
16 
phân tích trung vị, điều này khẳng định rằng mặc dù một số công ty khởi nghiệp của 
Waterloo có được nguồn tài trợ giống như các khu vực tương ứng trong các hệ sinh thái 
hàng đầu của Mỹ, phần lớn các công ty khởi nghiệp của Waterloo đều phải đối mặt với 
khoảng trống về tài chính (Waterloo Startup Ecosystem, 2015). 
• Khoản đầu tư từ vòng gọi vốn A 
Số trung vị vòng gọi vốn A cho các công ty khởi nghiệp Waterloo giống với của các 
hệ sinh thái khởi nghiệp hàng đầu của Mỹ (Silicon Valley, New York, Los Angeles và 
Boston) ở mức 5 triệu USD. Có một điểm thú vị là các hệ sinh thái khởi nghiệp hàng đầu 
khác của Canada thậm chí có con số này còn lớn hơn Waterloo và các hệ sinh thái khởi 
nghiệp hàng đầu của Mỹ, với 5,35 triệu USD. Tuy nhiên, số trung bình của vòng gọi vốn 
A cho Waterloo thấp hơn đáng kể so với trung bình của ba hệ thống sinh thái khởi nghiệp 
Canada và bốn hệ thống hàng đầu của Mỹ, lần lượt với 4,8 triệu USD, 6,7 triệu USD và 
7,2 triệu USD. 
Các con số trung bình này thấp, kết hợp với con số trung vị ngang bằng cho thấy 
hầu hết các công ty khởi nghiệp của Waterloo đều có được một khoản tài trợ từ vòng gọi 
vốn A tương tự như những công ty khởi nghiệp của các hệ sinh thái khởi nghiệp hàng đầu 
của Mỹ, nhưng những công ty khởi nghiệp tốt nhất trong các hệ sinh thái khởi nghiệp 
hàng đầu của Mỹ lại nhận được tổng số tiền cao hơn đáng kể. Tuy nhiên, với mức lương 
và chi phí hoạt động thấp hơn, các công ty khởi nghiệp của Waterloo vẫn có đường đi 
tương tự các công ty khởi nghiệp ở các hệ sinh thái hàng đầu của Mỹ. 
Xem xét tác động của các nhà đầu tư nước ngoài đối với các khoản đầu tư từ vòng 
gọi vốn A: các công ty khởi nghiệp ở Waterloo nhận được 2.500.000 USD ít hơn, nếu họ 
gây quỹ từ vòng gọi vốn A khi chỉ có các nhà đầu tư địa phương, so với nếu có ít nhất 
một nhà đầu tư nước ngoài. Điều này tiếp tục chứng minh khoảng trống đáng kể trong tài 
trợ từ vòng gọi vốn A ở địa phương khi so sánh với bốn hệ sinh thái khởi nghiệp hàng 
đầu của Hoa Kỳ. Một lần nữa, mức lương nhân viên kỹ thuật thấp hơn 50% và chi phí 
vận hành thấp có thể bù đắp cho khoảng trống đó. 
• Khoản đầu tư từ vòng gọi vốn B 
17 
Theo báo cáo Hệ sinh thái khởi nghiệp Waterloo 2015 của Compass, các hệ sinh 
thái khởi nghiệp hàng đầu của Canada (Montreal, Toronto và Vancouver) nhận được số 
trung vị của khoản đầu tư từ vòng gọi vốn B là 10,5 triệu USD, so với 11 triệu USD cho 
bốn hệ sinh thái khởi nghiệp hàng đầu của Mỹ. Đưa Waterloo vào so sánh thì số trung vị 
của khoản đầu tư từ vòng gọi vốn B là 9,25 triệu USD; số trung vị này của Waterloo đang 
dần bị kéo xuống. Vì trong dữ liệu chỉ có 5 khoản tài trợ tại vòng gọi vốn B ở Waterloo 
vào năm 2014 nên chưa thể rút ra kết luận rằng có một khoảng trống đáng kể về tài trợ 
vốn. Việc có ít số khoản tài trợ tại vòng gọi vốn B và số tiền của họ thay đổi rất nhiều nên 
số trung vị cho một hệ sinh thái không thể được xem là một thước đo đáng tin cậy. 
• Tỷ lệ công ty khởi nghiệp nhận được tài trợ 
Khi số lượng công ty khởi nghiệp nhận được tài trợ ở mỗi vòng gọi vốn được so 
sánh với đầu ra khởi nghiệp (là tổng số công ty khởi nghiệp ở tất cả các giai đoạn) của 
mỗi hệ sinh thái, kết quả cho thấy các thị trường vốn của Waterloo, Toronto, và 
Vancouver tài trợ cho một tỷ lệ các công ty khởi nghiệp địa phương nhỏ hơn nhiều so với 
các hệ sinh thái khởi nghiệp hàng đầu của Mỹ. Không có gì ngạc nhiên khi thị trường vốn 
đầu tư mạo hiểm đã trưởng thành của Silicon Valley cho phép nhiều công ty khởi nghiệp 
được nhận tài trợ ở mỗi vòng gọi vốn. Các hệ sinh thái khởi nghiệp hàng đầu khác của 
Mỹ gần giống Silicon Valley ở vòng đầu tư hạt giống, chỉ với khoảng 20% ít hơn số công 
ty khởi nghiệp được nhận tài trợ, nhưng sau đó khoảng cách tăng lên 40% đối với vòng 
gọi vốn A và 50% đối với vòng gọi vốn B. 
Hệ sinh thái Waterloo, Toronto, và Vancouver thì ở tình trạng kém hơn nhiều. 
Trong suốt tất cả các vòng gọi vốn, tỷ lệ các công ty khởi nghiệp của họ được nhận tài trợ 
chỉ chiếm tối đa 1/3 so với Silicon Valley. Tỷ lệ các công ty khởi nghiệp Waterloo bằng 
quỹ đầu tư hạt giống chỉ bằng 1/4 Silicon Valley, trong khi đó đối với vòng gọi vốn A và 
B thì dưới 20%. (Waterloo Startup Ecosystem, 2015) 
Tóm lại, hệ sinh thái khởi nghiệp của Waterloo đang phải chịu khoảng trống 
nghiêm trọng ở cấp độ đầu tư hạt giống do ngày càng có ít nhà đầu tư thiên thần năng 
động và do vốn đầu tư mới rất giới hạn. Điều này dẫn đến các vòng đầu tư hạt giống nhỏ 
hơn nhiều so với các hệ sinh thái khởi nghiệp ở Mỹ, thậm chí sau khi tính đến chi phí 
18 
thuê nhân viên kỹ thuật thấp hơn nhiều khu vực khác. Khoảng trống về khoản tài trợ cho 
vòng gọi vốn A là ít nghiêm trọng vì các công ty khởi nghiệp tốt nhất ở Canada có thể bù 
đắp cho số lượng nhỏ hơn của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong khu vực và số vốn đầu tư 
nhỏ hơn bằng cách đi đến Hoa Kỳ để có được nguồn tài trợ tốt hơn. Tuy nhiên, tỉ lệ các 
công ty khởi nghiệp của Waterloo có được nguồn đầu tư hạt giống thấp hơn ba đến bốn 
lần so với bốn hệ sinh thái hàng đầu của Mỹ. Do tỷ lệ hao hụt cao hơn từ vòng đầu tư hạt 
giống đến vòng gọi vốn A, các công ty khởi nghiệp Waterloo nhận được tài trợ từ vòng 
gọi vốn A ít hơn ba đến năm lần so với các công ty khởi nghiệp ở các hệ sinh thái khởi 
nghiệp hàng đầu của Mỹ. Điều này chắc chắn có tác động tiêu cực đến số lượng công ty 
thoái vốn/hoàn vốn thành công, mà các công ty thoái vốn/hoàn vốn của Waterloo hiếm 
hơn và có giá trị thấp hơn các công ty thoái vốn/hoàn vốn của các hệ sinh thái hàng đầu ở 
Mỹ. 
5. Bài học kinh nghiệm từ các hệ sinh thái khởi nghiệp quốc tế 
Từ những phân tích về hệ sinh thái khởi nghiệp của Hồng Kông và Waterloo, chúng 
ta có thể rút ra được một số bài học như sau: 
- Chính phủ đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển hệ sinh thái khởi 
nghiệp. Khuôn khổ pháp lý thân thiện với khởi nghiệp ở các chính sách về thuế, tài chính, 
chính sách nhập cư, chính sách về tăng tốc khởi nghiệp sẽ cho phép các công ty khởi 
nghiệp dễ dàng phát triển, có cơ hội tiếp cận với nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư 
thiên thần, từ đó có cơ hội phát triển, đặc biệt là có thể tiến đến giai đoạn thoái 
vốn/hoàn vốn. 
- Cần phải hiểu rõ điểm mạnh và điểm yếu của quốc gia, khu vực để đưa ra những 
chính sách chiến lược cốt lõi, định hướng cho hệ sinh thái khởi nghiệp phát triển nhanh 
nhất (như chính sách chiến lược mà Hồng Kông vạch ra để phát triển hệ sinh thái khởi 
nghiệp của mình là chú trọng vào lĩnh vực công nghệ và ứng dụng công nghệ, là lĩnh vực 
mà Hồng Kông có tiềm năng nhất và nhiều cơ hội nhất để phát triển). 
19 
- Hai đặc điểm chính của khởi nghiệp là tính đột phá và tính tăng trưởng, trong khi 
các công ty khởi nghiệp và các quốc gia, khu vực thường chú trọng đến tính tăng trưởng 
hơn mà đôi khi quên mất khởi nghiệp cần phải đột phá. Vì vậy, chính quyền cần phải 
thành lập một sân chơi cho phép các doanh nghiệp thử nghiệm những cải tiến của mình 
trong một môi trường được quản lý dễ chịu, trước khi chính thức đưa các cải tiến này ra 
mắt công chúng và thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Ngoài ra, chính quyền 
cũng cần lập nên những quỹ đổi mới sáng tạo, các chương trình khuyến khích sáng tạo 
trong khởi nghiệp để đảm bảo tinh thần doanh nhân, khả năng sáng tạo, đổi mới trong 
khởi nghiệp không bị tàn lụi. 
- Có một sự tương quan ngược giữa tiếp cận thị trường địa phương và tiếp cận thị 
trường toàn cầu, và giữa các thành phần chính của chúng: quy mô thị trường địa phương 
và thị trường văn hoá với tỷ lệ khách hàng nước ngoài của các công ty khởi nghiệp, là 
nền kinh tế địa phương càng lớn thì các công ty khởi nghiệp phân bổ nguồn lực càng ít để 
thu hút khách hàng toàn cầu. Mà thực tế rằng, việc thâm nhập thị trường toàn cầu càng 
tích cực, hệ sinh thái khởi nghiệp càng phát triển. Chính vì vậy, các công ty khởi nghiệp 
và các chính quyền địa phương cần phải chú trọng đến vấn đề này, tạo cơ hội và điều 
kiện cho các công ty khởi nghiệp tiến vào các thị trường năng động, có tiềm năng trên 
toàn thế giới. 
- Cần phải chú trọng đầu tư đến chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo sự sẵn có về 
nhân lực trong mọi lĩnh vực (không để thừa nhân lực ở lĩnh vực này mà lĩnh vực khác 
thiếu nhân sự) và tối ưu hoá chi phí trên hiệu năng của nhân sự. Trong khía cạnh này, các 
trường đại học đóng vai trò chủ chốt. Các cơ sở giáo dục cần nâng cao chất lượng giảng 
dạy, tối ưu chất lượng đầu vào và đầu ra, cần tổ chức các chương trình thực tập để sinh 
viên trong quá trình học có thể thu thêm được nhiều kinh nghiệm thực tế làm việc trong 
công ty, tổ chức, doanh nghiệp, đặc biệt là khuyến khích sinh viên thực tập trong các 
công ty khởi nghiệp. Các trường đại học cũng nên đóng vai trò là cầu nối nguồn nhân lực, 
giúp các công ty khởi nghiệp có thể tìm kiếm nhân tài dễ dàng và hiệu quả hơn, cũng như 
sinh viên ra trường tìm kiếm việc làm nhanh chóng hơn. 
20 
- Cần giải quyết hiện tượng các sinh viên hàng đầu thích tiếp cận các vị trí ổn định 
tại các tập đoàn lớn hơn là vào làm việc tại các công ty khởi nghiệp, điều này thường xảy 
ra ở các nước Châu Á hơn. Nhà nước và các trường đại học cần có các giải pháp như 
tuyên truyền, giảng dạy, đưa ra các minh chứng, các cơ hội để thay đổi tư duy đã thành 
lối mòn trong vấn đề tìm việc làm của sinh viên, giải quyết văn hoá không ưa thích rủi ro 
và thiếu tinh thần kinh doanh. 
- Các công ty khởi nghiệp và nhà nước không những cần có các biện pháp để thu 
hút nguồn nhân lực tài năng ở trong nước và cả nước ngoài, mà còn phải có các chế độ để 
giữ chân những nhân sự tài năng đó. Ở cấp nhà nước, việc khuyến khích các công ty công 
nghệ quốc tế thành lập các trung tâm R&D tại địa phương cũng là một biện pháp để góp 
phần giải quyết vấn đề này. 
- Nhà nước cần quan tâm đến việc thành lập các quỹ đầu tư, các chương trình khởi 
nghiệp trong nước, đồng thời tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư 
nước ngoài vào tiếp cận và hỗ trợ cho các ý tưởng khởi nghiệp trong nước. 
6. Kết luận 
Việt Nam đang hoà vào làn sóng khởi nghiệp năng động cùng với thế giới. Phong 
trào khởi nghiệp đang thực sự bùng nổ trên thế giới. Một số quốc gia và khu vực đã trở 
nên nổi bật và đi đầu trong khởi nghiệp và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. 
Một hệ sinh thái khởi nghiệp muốn phát triển mạnh mẽ và toàn diện thì cần phải 
chú trọng đến cả tám thành phần, bao gồm chính sách chính phủ và khuôn khổ pháp lý, 
tiếp cận thị trường, nguồn nhân lực và lực lượng lao động, tài trợ và tài chính, hệ thống 
hỗ trợ và cố vấn, giáo dục và đào tạo, các trường đại học đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ văn 
hoá (mà trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi mới chỉ có cơ hội phân tích sâu được 
bốn thành phần). Việc đi sâu vào phân tích từng thành phần của hệ sinh thái này sẽ cho 
thấy thực trạng, biểu hiện của hệ sinh thái khởi nghiệp, từ đó có thể xác định rõ các tồn 
tại hạn chế, và đề ra các biện pháp giúp hệ sinh thái khởi nghiệp của quốc gia phát triển 
nhanh hơn, mạnh mẽ hơn, tạo môi trường tốt nhất cho việc khởi nghiệp. Hơn nữa, việc 
21 
nghiên cứu và phân tích từng thành phần này của các quốc gia, khu vực trên thế giới cũng 
là cách mà một hệ sinh thái khởi nghiệp còn non trẻ như của Việt Nam cần làm, để từ đó 
có thể học tập, kế thừa, cải tiến và phát triển hệ sinh thái của mình. Không chỉ Hồng 
Kông và Waterloo, trên thế giới còn rất nhiều hệ sinh thái khởi nghiệp toàn diện mà Việt 
Nam có thể học hỏi. 
Tài liệu tham khảo 
1. Chinhphu.vn (2016), Chính phủ yêu cầu “Hệ sinh thái khởi nghiệp”, 
nghiep%E2%80%9D, truy cập ngày 20/03/2017. 
2. Chinhphu.vn (2016), Cần tiếp tục cải thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, 
 truy cập ngày 
20/03/2017. 
3. CITIE,  truy cập ngày 12/04/2017. 
4. Compass (2015), Global Startup Ecosystem Ranking 2015. 
5. Compass (2015), Waterloo Startup Ecosystem Report. 
6. Compass (2016), Hong Kong Startup Ecosystem Report. 
7. Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2014), Xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi 
nghiệp - vai trò của chính sách chính phủ. 
8. Đặng Bảo Hà (2015), Tổng quan “Xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp: 
vai trò của chính sách chính phủ”, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. 
9. Duhoccanada.org.vn (2014), Tìm hiểu thành phố Waterloo, Canada, 
 truy cập ngày 
18/04/2017. 
10. GERA (2016), Global Entrepreneurship Monitor, Global report 2016-17 
11. Information Services Department Hong Kong SAR (2015), 
www.gov.hk/en/about/abouthk/factsheets/docs/financial_services.pdf, truy cập ngày 
12/04/2017. 
12. Isenberg, D. J. (2010), “How to start an Entrepreneurial Revolution”, Harvard 
Business Review, 88(6). 
13. Nesta, Accenture, and Future Cities Catapult (2015), City Initiatives for Technology, 
Innovation and Entrepreneurship – A Resource for City Leadership,  truy 
cập ngày 13/04/2017. 
14. Preqin Ltd (2015), https://www.preqin.com/, truy cập ngày 15/04/2017. 
15. Small Enterprise Association of Australia and New Zealand (SEAANZ) (2014), 
Growing and sustaining entrepreneurial ecosystems: What they are and the role of 
government policy. 
16. Startup Genome and Telefonica Digital (2012), Startup Ecosystem Report 2012. 
17. Startup Genome (2014), Startup Ecosystem Report 2014. 
18. Thạch Anh (2016), Phát triển hệ sinh thái cho doanh nghiệp khởi nghiệp. 
22 
19. Topcoder (2015), https://community.topcoder.com/stat?c=country_avg_rating, truy 
cập ngày 23/04/2017. 
20. Trading Economics (2015),  tradingeconomics.com/hong-kong/gdp-per-
capita-ppp, truy cập ngày 17/05/2017. 
21. World Economic Forum (WEF) (2014), Entrepreneurial Ecosystems Around the 
Globe and Early-Stage Company Growth Dynamics. 
22. World Economic Forum (WEF) (2015),  weforum.org/global-
competitiveness-report-2015-2016/economies/#economy=HKG, truy cập ngày 
10/04/2017. 

File đính kèm:

  • pdfhe_sinh_thai_khoi_nghiep_mot_so_kinh_nghiem_quoc_te_va_bai_h.pdf