Hiệu quả điều trị ghẻ bằng thuốc uống Ivermectin
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị cho bệnh nhân mắc ghẻ bằng uống ivermectin tại Bệnh viện Da
liễu Trung ương năm 2018.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng: 40 bệnh nhân mắc ghẻ từ 8/2017 đến 6/2018 được điều trị bằng uống Ivermectin và được
đánh giá hiệu quả sau điều trị.
Phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng có so sánh trước – sau điều trị.
Kết quả: Sau điều trị, tỷ lệ BN còn luống ghẻ, sẩn cục và mụn nước đã giảm đáng kể (p<0,001).>
mức độ ngứa: Trước điều trị, 50,0% BN cảm thấy rất ngứa, 47,6% ngứa vừa. Sau điều trị: 75,0% BN không
còn ngứa và 22,5% chỉ còn ngứa ít (p<0,01). về="" mức="" độ="" mất="" ngủ:="" trước="" đó,="" tất="" cả="" các="" bn="" đều="" bị="" mất="">
57,5% mất ngủ nặng, 40,0% mất ngủ vừa. Tuy nhiên, sau điều trị 2 tuần, 70,0% BN không còn bị mất
ngủ, còn lại chỉ mất ngủ ở mức độ nhẹ. Về một số tác dụng phụ: thường xảy ra trong vòng 1-3 ngày đầu.
Một số tác dụng phụ thường gặp nhất đó là: Sốt (17,5%), sưng đau khớp (10,0%), đau cơ (7,5%) và một
số biểu hiện khác: nhịp tim nhanh, hoa mắt/chóng mặt, hạ huyết áp thể đứng. Nhìn chung, sau điều trị,
có tới 90,0% BN mắc ghẻ đáp ứng điều trị với thuốc uống Ivermectin (65% BN có kết quả tốt, 25% BN
có kết quả khá).
Kết luận: Thuốc uống Ivermectin đem lại hiệu quả điều trị tương đối tốt. Do đó, nên sử dụng thuốc
này để điều trị cho bệnh nhân mắc ghẻ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả điều trị ghẻ bằng thuốc uống Ivermectin

DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC ,(88 ,(875 ( %1782 821,(50(7,1 Nguyễn Thị Hà Minh*, Trần Lan Anh** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị cho bệnh nhân mắc ghẻ bằng uống ivermectin tại Bệnh viện Da liễu Trung ương năm 2018. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng: 40 bệnh nhân mắc ghẻ từ 8/2017 đến 6/2018 được điều trị bằng uống Ivermectin và được đánh giá hiệu quả sau điều trị. Phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng có so sánh trước – sau điều trị. Kết quả: Sau điều trị, tỷ lệ BN còn luống ghẻ, sẩn cục và mụn nước đã giảm đáng kể (p<0,001). Về mức độ ngứa: Trước điều trị, 50,0% BN cảm thấy rất ngứa, 47,6% ngứa vừa. Sau điều trị: 75,0% BN không còn ngứa và 22,5% chỉ còn ngứa ít (p<0,01). Về mức độ mất ngủ: Trước đó, tất cả các BN đều bị mất ngủ: 57,5% mất ngủ nặng, 40,0% mất ngủ vừa. Tuy nhiên, sau điều trị 2 tuần, 70,0% BN không còn bị mất ngủ, còn lại chỉ mất ngủ ở mức độ nhẹ. Về một số tác dụng phụ: thường xảy ra trong vòng 1-3 ngày đầu. Một số tác dụng phụ thường gặp nhất đó là: Sốt (17,5%), sưng đau khớp (10,0%), đau cơ (7,5%) và một số biểu hiện khác: nhịp tim nhanh, hoa mắt/chóng mặt, hạ huyết áp thể đứng. Nhìn chung, sau điều trị, có tới 90,0% BN mắc ghẻ đáp ứng điều trị với thuốc uống Ivermectin (65% BN có kết quả tốt, 25% BN có kết quả khá). Kết luận: Thuốc uống Ivermectin đem lại hiệu quả điều trị tương đối tốt. Do đó, nên sử dụng thuốc này để điều trị cho bệnh nhân mắc ghẻ. Từ khóa: Ivermectin, bệnh ghẻ. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh ghẻ là một bệnh truyền nhiễm ngoài da, khá phổ biến ở nước ta, đặc biệt hay gặp ở những nơi tập trung đông dân cư, điều kiện vệ sinh kém. Bệnh ghẻ vẫn ngày ngày tiếp tục ảnh hưởng đến hơn 130 triệu người trên thế giới vào bất kỳ thời điểm nào [4]. Bệnh ghẻ gây giảm chất lượng cuộc sống, gây ra sự mặc cảm xã hội cho người bệnh. Ngoài ra, nếu không được điều trị triệt để, có thể để lại các biến chứng nguy hiểm, thậm chí là tử vong [5]. * Bộ môn Da liễu, Trường Đại học Y Hà Nội ** Bộ môn Vi sinh-Ký sinh trùng lâm sàng, Trường Đại học Y Hà Nội Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC IVM là một thuốc kháng KST phổ rộng. Nhiều nghiên cứu của các tác giả trên thế giới đã cho thấy thuốc có tác dụng tương đối tốt và đặc biệt có ưu điểm là chỉ cần uống một liều duy nhất trong suốt quá trình điều trị. Tuy nhiên cho đến nay, IVM chưa được sử dụng rộng rãi trong điều trị tại các bệnh viện chuyên khoa da liễu. Qua tìm hiểu sơ bộ chúng tôi chưa thấy có nghiên cứu nào ở Việt Nam đánh giá hiệu quả của thuốc IVM trong điều trị bệnh ghẻ. Do vậy, để góp phần cung cấp thêm thông tin cho chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh này đạt hiệu quả hơn cho Bệnh viện Da liễu Trung ương, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về hiệu quả điều trị cho bệnh nhân mắc ghẻ bằng thuốc uống Ivermectin vào năm 2018. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân đến khám được chẩn đoán mắc ghẻ tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Da liễu Trung ương. 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Từ 6/2017 đến 6/2018 tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. 2.3. Phương pháp nghiên cứu: * Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu: n= Z21-α/2 p(1-p) ∆2 . Trong đó: ∆2 p=0,7 Tỉ lệ đáp ứng điều trị mong muốn; ∆ = 0,158 (Khoảng sai lệch mong muốn); Z1-α/2=1,96, tương ứng với mức ý nghĩa thống kê α = 0,05. Thay vào công thức tính được cỡ mẫu n = 40. * Phương pháp chọn mẫu: Chọn ngẫu nhiên đơn các bệnh nhân đến khám và được chẩn đoán mắc bệnh ghẻ, các thể khác nhau trong thời gian nghiên cứu tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. * Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có so sánh trước – sau điều trị. * Vật liệu: Ivermectin dạng viên nén màu trắng với 2 hàm lượng 3mg và 6mg, hộp 1 vỉ 4 viên do Davipharm sản xuất. * Thiết bị, hóa chất: Dao cùn, lam kính và lamen, Dung dịch KOH 20-30%, hoặc dầu soi kín, paran, glyceri; Mực xanh, xanh Methylen; Kim khêu; Kính lúp; Kính hiển vi quang học; Kính Dermoscopy. * Kỹ thuật: Khám lâm sàng ngày đầu tiên (Lựa chọn bệnh nhân, kiểm tra trọng lượng, da, mức độ nghiêm trọng của ghẻ và các chỉ số khác); Điều trị bằng Ivermectin: Khuyên BN không dùng bất kỳ loại thuốc nào khác được phát bởi nhà nghiên cứu. Được phát thuốc Ivermectin theo cân nặng, uống 1 lần duy nhất trước bữa sáng; Khám và xét nghiệm lại sau 2 tuần; Nhận định kết quả. *Một số chỉ số đánh giá: - Đánh giá đáp ứng điều trị: Bệnh nhân được xem là đáp ứng điều trị khi có kết quả khá (Giảm ngứa và giảm thương tổn >70%) hoặc tốt (Các thương tổn sạch, hết ngứa), không đáp ứng điều trị khi kết quả kém (Giảm ngứa và giảm thương tổn <50%) hoặc trung bình (Giảm ngứa và giảm thương tổn 50 – 70%). - Mức độ ngứa: mức độ đánh giá dựa trên cảm giác chủ quan, được cho điểm dựa trên hỏi cảm giác ngứa của BN. Có các mức: Không ngứa; Ngứa mức độ ít (không gây khó chị cho BN); Ngứa mức độ trung bình (gây khó chịu cho bệnh nhân nhưng không ảnh hưởng đến giấc ngủ và hoạt động sinh hoạt khác); Ngứa mức độ nhiều (gây khó chịu cho bệnh nhân, gây mất ngủ và ảnh hưởng đến hoạt động sinh hoạt khác). DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC - Mức độ mất ngủ: Không mất ngủ (không bị ảnh hưởng gì đến giấc ngủ); Mức độ nhẹ (khó đi vào giấc ngủ); Mức độ vừa (Khó đi vào giấc ngủ và bị tỉnh giấc do ngứa); Mức độ nặng (Hầu như không ngủ được suốt đêm). 2.3. Xử lý và phân tích số liệu: Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 21.0. Sử dụng các thuật toán thống kê phù hợp để phân tích. 2.4. Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu được chấp thuận thông qua của Hội đồng đạo đức trong ng- hiên cứu Y Sinh Dược học của Trường Đại học Y Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu được tư vấn cụ thể và tự nguyện tham gia, nghiên cứu (đồng ý trong Bản đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu). Các thông tin của bệnh nhân được giữ bảo mật tuyệt đối và chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1. Thay đổi triệu chướng luống ghẻ và sẩn cục trước và sau điều trị Thời gian Trước điều trị Sau 2 tuần điều trị pn Tỷ lệ % n Tỷ lệ % Luống ghẻ Có 7 17,5 1 2,5 <0,001Không 33 82,5 39 97,5 Sẩn cục Có 21 52,5 3 7,5 <0,001Không 19 47,5 37 92,5 Mụn nước Có 40 100,0 6 15,0 <0,001Không 0 0,0 34 85,0 Kết quả tại bảng 1 cho thấy, sau điều trị, tỷ lệ bệnh nhân còn luống ghẻ, sẩn cục và mụn nước đã giảm đáng kể so với thời điểm trước khi điều trị. Tất cả sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Bảng 2: Hiệu quả thay đổi triệu chứng ngứa trước và sau điều trị Mức độ ngứa Trước điều trị Sau 2 tuần điều trịn Tỷ lệ % n Tỷ lệ % Không ngứa 0 0,0 30 75,0 Ít ngứa 1 2,5 9 22,5 Ngứa vừa 20 50,0 1 2,5 Rất ngứa 19 47,5 0 0,0 p p<0,001 Bảng 2 chỉ ra kết quả, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thay đổi triệu chứng ngứa của giai đoạn sau khi điều trị ghẻ bằng Ivermectin so với trước điều trị (p<0,001). Trước điều trị có tới 50,0% bệnh nhân khi được hỏi đánh giá mức độ ngứa là rất ngứa, 47,6% ngứa vừa và chỉ có 2,4% ngứa ít. Sau điều trị thì đã có tới 75,0% bệnh nhân không còn ngứa và 22,5% chỉ còn ngứa ít. Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC Bảng 3: Hiệu quả điều trị với triệu chứng mất ngủ trước và sau điều trị Mức độ mất ngủ Trước điều trị Sau 2 tuần điều trịn Tỷ lệ % n Tỷ lệ % Không mất ngủ 0 0,0 28 70,0 Mất ngủ nhẹ 1 2,5 12 30,0 Mất ngủ vừa 16 40,0 0 0,0 Mất ngủ nặng 23 57,5 0 0,0 p p<0,001 Kết quả tại bảng 3 cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thay đổi triệu chứng mất ngủ của bệnh nhân ở giai đoạn sau khi điều trị ghẻ bằng Ivermectin so với trước điều trị (p<0,001). Trước điều trị, tất cả các bệnh nhân đều bị mất ngủ: 57,5% mất ngủ nặng, 40,0% mất ngủ vừa và chỉ có 2,5% mất ngủ mức độ nhẹ. Tuy nhiên, sau điều trị 2 tuần, đã có tới 70,0% bệnh nhân không còn bị mất ngủ, còn lại chỉ mất ngủ ở mức độ nhẹ. Bảng 4: Một số tác dụng không mong muốn của thuốc sau thời gian điều trị Mức độ mất ngủ Sau 2 ngày Sau 2 tuần điều trịn Tỷ lệ % n Tỷ lệ % Sốt 7 17,5 1 2,5 Hoa mắt/chóng mặt 1 2,5 0 0,0 Đau cơ 3 7,5 1 2,5 Sưng đau khớp 4 10,0 1 2,6 Hạ huyết áp thể đứng 1 2,5 0 0,0 Nhịp tim nhanh 2 5,0 0 0,0 Qua bảng 4 có thể thấy, các tác dụng phụ khi sử dụng thuốc Ivermectin thường xảy ra trong vòng 1-3 ngày đầu. Một số tác dụng phụ thường gặp nhất đó là: Sốt (17,5%), sưng đau khớp (10,0%), đau cơ (7,5%) và một số biêu hiện khác: nhịp tim nhanh, hoa mắt/chóng mặt, hạ huyết áp thể đứng. Biểu đồ 1: Kết quả đáp đứng sau 2 tuần điều trị bằng thuốc uống Ivermectin của bệnh nhân mắc ghẻ Biểu đồ trên cho thấy, có tới 90,0% bệnh nhân mắc ghẻ có đáp ứng điều trị với thuốc uống Ivermectin (65% bệnh nhân có kết quả điều trị tốt, 25% bệnh nhân có kết quả điều trị khá). 2.5% 7.5% 25.0% 65.0% Kết quả điều trị kém Kết quả điều trị trung bình Kết quả điều trị tốtKết quả điều trị khá DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 4. BÀN LUẬN Thực tế hiện nay, Ivermectin dạng uống được sử dụng rộng rãi để điều trị các bệnh khác nhau ở người, chẳng hạn như các bệnh giun sán. Gần đây trên thế giới, các nghiên cứu đã áp dụng Ivermectin vào điều trị ghẻ. Trước điều trị, tổn thương cơ bản thường gặp nhất là mụn nước (100,0%). Phân tích này tương đồng với nhận định của Phạm Hoàng Khâm khi tìm hiểu về bệnh nhân mắc bệnh ghẻ trong hồ sơ lưu trữ tại bệnh viện 103 từ năm 2000-2009, tác giả chỉ ra: tổn thương thường gặp nhất là mụn nước (100,0%) hay cũng phù hợp với một số tác giả khác như Nguyễn Khắc Bình (2000) [1] và Hoàng Văn Minh (2003) [2]. Về tổn thương luống ghẻ là một tổn thương rất đặc hiệu, song ở nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ tìm thấy ở khoảng hơn 17% bệnh nhân, tuy nhiên vẫn cao hơn so với Phạm Hoàng Khâm (5,91%) [3] và Hoàng Văn Minh (14,7%) [2]. Tuy nhiên, sau điều trị, những tổn thương này đã được cải thiện rõ rệt (p<0,001). Điều này đã cho thấy phần nào tác dụng điều trị trực quan cho Ivermectin cho bệnh nhân mắc ghẻ. Ngứa là một trong những triệu chứng điển hình của bệnh ghẻ. Trước điều trị có tới 50,0% bệnh nhân khi được hỏi đánh giá mức độ ngứa là rất ngứa, 47,6% ngứa vừa và chỉ có 2,4% ngứa ít. Sau điều trị thì đã có tới 75,0% bệnh nhân không còn ngứa và 22,5% chỉ còn ngứa ít. Sự cải thiện này có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Hiệu quả giúp giảm cảm giác ngứa cho bệnh nhân của thuốc uống Ivermectin có ý nghĩa rất quan trọng, giúp người bệnh cảm thấy thoải mái hơn, hạn chế được những triệu chứng ảnh hưởng liên quan khác như khó chịu hay mất ngủ. Ngoài ra, sau khi điều trị bằng thuốc Ivermectin đã được cải thiện giấc ngủ hơn rất nhiều. Trước đó, tất cả các bệnh nhân đều bị mất ngủ: 57,5% mất ngủ nặng, 40,0% mất ngủ vừa và chỉ có 2,5% mất ngủ mức độ nhẹ. Tuy nhiên, sau điều trị 2 tuần, đã có tới 70,0% bệnh nhân không còn bị mất ngủ, còn lại chỉ mất ngủ ở mức độ nhẹ. Kết quả này có thể một phần là do hiệu quả giảm ngứa mà thuốc đã mang lại – vì ngứa là một trong những triệu chứng khiến cho bệnh nhân có thể mất ngủ hoặc ngủ không ngon do tỉnh dậy giữa đêm. Cũng như bất kỳ những thuốc tây y nào, Ivermectin cũng có thể gây ra một số tác dụng không mong muốn cho bệnh nhân trong quá trình điều trị ghẻ. Các tác dụng phụ khi sử dụng thuốc Ivermectin thường xảy ra trong vòng 1-3 ngày đầu. Một số tác dụng phụ thường gặp nhất đó là: Sốt (17,5%), sưng đau khớp (10,0%), đau cơ (7,5%) và một số biêu hiện khác: nhịp tim nhanh, hoa mắt/chóng mặt, hạ huyết áp thể đứng. Qua đây có thể thấy, nhưng tác dụng không mong muốn do Ivermectin gây ra hầu hết đều rất nhẹ. Hầu hết các tác dụng không mong muốn của thuốc là do các phản ứng miễn dịch đối với các ấu trùng bị chết. Vì vậy, mức độ nặng nhẹ của tác dụng này có liên quan đến mật độ ấu trùng ở da. Do vậy, việc nhận biết được những tác dụng phụ này đóng vai trò giúp cho bác sỹ có thể lường trước được để đưa ra những hướng giải quyết phù hợp. Đồng thời, cũng giúp cho bệnh nhân hiểu được rõ, tránh lo lắng Nhìn chung, hiệu quả điều trị ghẻ của Ivermectin đạt được khá cao: có tới 90,0% bệnh nhân mắc ghẻ đáp ứng điều trị với thuốc uống Ivermectin. Điều này tương đồng với một số nghiên cứu. Như nghiên cứu của Fernando và Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC cộng sự về điều trị ghẻ với Ivermectin cho 123 tù nhân cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân khỏi bệnh sau 15 ngày điều trị đạt tới 91,05% [7]. Hay một nghiên cứu khác cho thấy sử dụng liều đơn IVM có tỷ lệ khỏi bệnh là 70%; liều nhắc lại sau 2 tuần cho tỷ lệ khỏi tăng lên tới 95% [6]. Qua đây đã cho thấy những hiệu quả nhất định mà Ivermectin đem lại trong điều trị ghẻ cho bệnh nhân. Do đó, nên áp dụng phương pháp này phổ biến hơn cho điều trị bệnh nhân mắc ghẻ trong tương lại tại nước ta. 5. KẾT LUẬN Sau điều trị, tỷ lệ BN còn luống ghẻ, sẩn cục và mụn nước đã giảm đáng kể (p<0,001). Về mức độ ngứa: Trước điều trị, 50,0% BN cảm thấy rất ngứa, 47,6% ngứa vừa. Sau điều trị: 75,0% BN không còn ngứa và 22,5% chỉ còn ngứa ít (p<0,01). Về mức độ mất ngủ: Trước đó, tất cả các BN đều bị mất ngủ: 57,5% mất ngủ nặng, 40,0% mất ngủ vừa. Tuy nhiên, sau điều trị 2 tuần, 70,0% BN không còn bị mất ngủ, còn lại chỉ mất ngủ ở mức độ nhẹ. Về một số tác dụng phụ: thường xảy ra trong vòng 1-3 ngày đầu. Một số tác dụng phụ thường gặp nhất đó là: Sốt (17,5%), sưng đau khớp (10,0%), đau cơ (7,5%) và một số biểu hiện khác: nhịp tim nhanh, hoa mắt/chóng mặt, hạ huyết áp thể đứng. Nhìn chung, sau điều trị, có tới 90,0% BN mắc ghẻ đáp ứng điều trị với thuốc uống Ivermectin (65% BN có kết quả tốt, 25% BN có kết quả khá). TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Khắc Bình (2000), Tình hình bệnh ghẻ, đặc điểm lâm sàng và tác động của thuốc DEP ở một số trường tiểu học bán trú tỉnh Yên Bái, Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 2. Hoàng Văn Minh và Võ Quang Đỉnh (2003), Bệnh ghẻ và nhiễm HIV trên người nghiện ma túy, Nhà xuất bản Y học, Bộ môn Da liễu - Trường Đại học Y dược TP.Hồ Chí Minh. 3. Phạm Hoàng Khâm (2011), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng bệnh ghẻ tại Bệnh viện 103 (2000 - 2009)”, Y học thực hành, 760(4/2011), tr. 87-89. Tiếng Anh 4. Fuller and L. Claire (2013), “Epidemiology of scabies”, Current opinion in Infectous Diseases, 26(2), pp. 123 – 126. 5. Hersch C (1967), “Acute glomerulonephritis due to skin disease, with special reference to scabies”, S Afr Med J, 41:(29). 6. Nnoruka EN and Agu CE (2001), “Successful Treatment of Scabies with Oral Ivermectin in Nigeria”, Tropical Doctor, 31(1), pp. 15-18. 7. Ribeiro Fde A, Taciro E, Guerra MR and et al. (2005), “Oral ivermectin for the treatment and prophylaxis of scabies in prison”, Journal of Dermatological Treatment, 16(3), pp. 138-141. DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC SUMMARY EFFECTIVE TREATMENT FOR SCABIES PATIENTS WITH IVERMECTIN Objective: To evaluate the therapeutic ecacy of ivermectin in patients with scabies inltration at the National Hospital of Dermatology and Venereology in 2018. Subjects and methodology: A pre-clinical trial study was conducted on 40 patients with scabies from 6/2017 to 6/2018. Patients were treated with oral ivermectin under the guidance of a physician and evaluated the eectiveness of treatment.. Results: After treatment, the incidence of scabies, bladder and blisters was signicantly reduced (p <0.001). On the itch level: Before treatment, 50.0% of patients felt very itchy, 47.6% of patients were moderate itching. After treatment: 75.0% patients had no itching and 22.5% had mild itching (p <0.01). With insomnia: Before treatment, all patients had insomnia: 57.5% insomnia, 40.0% moderate insomnia. However, after 2 weeks of treatment, 70.0% of patients no longer lost sleep, the rest only had insomnia at mild level. About some side eects: Usually occur within the rst 1-3 days. Some of the most common side eects were fever (17.5%), joint pain (10.0%), muscle pain (7.5%) and other side eects: tachycardia, dizziness, hypertension. In general, after treatment, about 90.0% of patients with scabies meet treatment with Ivermectin (65% of patients with good results, 25% of patients have good results) Conclusion: Ivermectin is a relatively good treatment. Therefore, it should be used to treat patients with scabies. Key words: Ivermectin, Scabies.
File đính kèm:
hieu_qua_dieu_tri_ghe_bang_thuoc_uong_ivermectin.pdf