Hình tượng chằn trong sân khấu Dù kê của người Khmer ở Nam Bộ

Tóm tắt

Bài viết giới thiệu diện mạo cơ bản của một hình thức sân khấu đặc trưng cho cư dân Khmer ở Nam

Bộ qua những chuyến điền dã mà chúng tôi đã có dịp thu thập được, đó chính là sân khấu Dù kê, trong

đó chú trọng đến hình tượng Chằn trong loại hình nghệ thuật này. Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đã

dung nạp những yếu tố khác vào trong nó một cách hòa hợp và nhuần nhuyễn. Loại hình này là kết quả

giao lưu văn hóa của các dân tộc sinh sống trên mảnh đất Nam Bộ

pdf 7 trang yennguyen 8900
Bạn đang xem tài liệu "Hình tượng chằn trong sân khấu Dù kê của người Khmer ở Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hình tượng chằn trong sân khấu Dù kê của người Khmer ở Nam Bộ

Hình tượng chằn trong sân khấu Dù kê của người Khmer ở Nam Bộ
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201478 Soá 13, thaùng 3/2014 79
yên tâm theo nghề, cống hiến hết mình vì sự tồn tại 
và phát triển của nền nghệ thuật dân tộc.
3. Kết luận
 Đến nay, tại vùng đất phương Nam, người 
Khmer vẫn còn lưu giữ được hai loại hình nghệ 
thuật sân khấu dân gian độc đáo của dân tộc, đặc 
biệt là kịch hát Dù kê, góp phần làm phong phú 
thêm vốn văn hóa của dân tộc, làm đặc sắc thêm 
vốn văn hóa dân gian Nam Bộ, đó là một điều vô 
cùng đáng quý. Do đó, để Rô băm, Dù kê tiếp tục 
đứng vững được với thời gian, không bị mai một, 
không bị chìm vào quên lãng, thì ta cần nhanh 
chóng đào tạo được đội ngũ kế thừa có đủ tâm, 
đủ lực, để khi Rô băm, Dù kê được ghi tên trong 
danh sách những Di sản văn hóa phi vật thể của 
thế giới, thì ta vẫn đủ sức duy trì, giữ mãi được vẻ 
độc đáo, tính truyền thống của hai loại hình sân 
khấu dân gian đặc sắc này.
Tài liệu tham khảo
Đàm Văn Hiển, Trần Văn Bổn, Lê Hàm. 2012. Sân khấu dân gia. NXB Văn hóa dân tộc.
Đào Huy Quyền, Sơn Ngọc Hoàng, Ngô Khị. 2007. Nhạc khí dân tộc Khmer Sóc Trăng. Nxb Tổng 
hợp Tp. HCM.
Lê Huy Hoàng. 2001. Xây dựng chính sách xã hội tạo sự công bằng, bình đẳng trong việc phát huy 
nguồn lực sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay. Triết học. số 9. tr. 5-8.
Phạm Minh Hạc. 2001. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa. Nxb Chính trị Quốc gia.
Phạm Thị Phương Hạnh (Chủ biên). 2011. Văn hóa Khmer Nam Bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hóa 
Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia – Sự Thật.
HÌNH TƯỢNG CHẰN TRONG SÂN KHẤU DÙ KÊ 
CỦA NGƯỜI KHMER Ở NAM BỘ
Nguyễn Thị Tâm Anh1
Tóm tắt
Bài viết giới thiệu diện mạo cơ bản của một hình thức sân khấu đặc trưng cho cư dân Khmer ở Nam 
Bộ qua những chuyến điền dã mà chúng tôi đã có dịp thu thập được, đó chính là sân khấu Dù kê, trong 
đó chú trọng đến hình tượng Chằn trong loại hình nghệ thuật này. Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đã 
dung nạp những yếu tố khác vào trong nó một cách hòa hợp và nhuần nhuyễn. Loại hình này là kết quả 
giao lưu văn hóa của các dân tộc sinh sống trên mảnh đất Nam Bộ.
Từ khóa: Dù kê, Khmer Nam Bộ, hình tượng Chằn (Yeak).
 Abstract
This paper is to introduce a basic appearance of a distinctive form of the Southern Khmer people 
through our fieldtrip. That is “Du ke” on which Yeak figuration is mainly focused. “Du ke” receives 
other factors harmoniously and smoothly. This type of theatre results from cultural exchanges among 
various ethnic groups living in the southern land. 
Keywords: Du ke, the Southern Khmer, Yeak figuration.
1 Thạc sĩ, Khoa Xã hội học – Công tác xã hội – Đông Nam Á,
 Trường ĐH Mở Tp. HCM.
1. Đặt vấn đề
Dân tộc Khmer vốn có một nền văn hóa nghệ 
thuật đặc sắc và phong phú. Qua bao thăng trầm 
trong lịch sử dân tộc và cũng chính là những biến 
động trong lịch sử nghệ thuật, dân tộc Khmer đã 
đã có một số loại hình nghệ thuật dần bị mai một, 
thậm chí mất hẳn.
Sân khấu của người Khmer ở Nam Bộ nói 
chung khá đa dạng, từ các loại hình diễn xướng 
dân gian đến Rô băm, Dù kê và Yì kê Trong đó, 
Rô băm và Dù kê là hai loại hình sân khấu tiêu 
biểu, vẫn được bảo tồn lưu giữ trong cộng đồng 
cư dân Khmer Nam Bộ cho đến ngày nay. Loại 
hình Yì kê là loại hình nghệ thuật độc đáo ở vùng 
Bảy Núi – An Giang. Ở đây, chúng tôi muốn giới 
thiệu diện mạo cơ bản của một hình thức sân khấu 
đặc trưng cho cư dân Khmer ở Nam Bộ qua những 
chuyến điền dã mà chúng tôi đã có dịp thu thập 
được, đó chính là sân khấu Dù kê.
2. Sân khấu Dù kê – Loại hình nghệ thuật độc 
đáo của người Khmer Nam Bộ
2.1. Về nguồn gốc
Về nguồn gốc, có thể nói Dù kê là sản phẩm 
của người Khmer sinh sống, cư trú trên vùng Tây 
Nam Bộ. Đó là những con người lao động bình 
thường nhưng khát khao sáng tạo. Do nhu cầu đời 
sống văn hóa tinh thần, cư dân Khmer sau những 
ngày lao động cực nhọc trên ruộng rẫy đã tìm cách 
thư giãn bằng âm nhạc. Ban đầu, chỉ dưới các hình 
thức đơn giản, thô sơ, sử dụng cây cối làm phông 
nền cùng vài nhạc cụ mà quây quần bên nhau.
Nguồn gốc của loại hình này đến nay vẫn chưa 
có những chứng cứ xác thực. Một số nghệ sĩ ở Sóc 
Trăng cho rằng người khai sinh ra Dù kê là ông Lý 
Cọn (còn có tên là Lý Cuông), quê gốc ở xã An 
Ninh, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Ông đã cho 
rước thầy Soun ở Trà Vinh về dạy hát tập tuồng, 
thời gian này vào khoảng năm 1921. Đoàn Dù kê 
của ông được thành lập mang tên Tự lập ban sân 
khấu sơn thủy2. 
Tuy nhiên, sự hình thành của loại hình này 
phải kể từ sau năm 1930, khoảng thời gian này có 
ba gánh hát lớn: Nhật Nguyệt Quang, Tự lập ban 
và Tự lập thành. Ba gánh hát cạnh tranh nhau và 
phát triển Dù kê lên những bước mới. Khi sang 
biểu diễn tại Campuchia, do sự kết hợp của sân 
khấu Rô băm truyền thống cùng những môn nghệ 
thuật có mặt trên vùng đất Nam Bộ như Cải lương 
2 Theo Ngô Hồng Khanh, “Từ Cải lương Nam Bộ đến sân 
khấu Dù kê Bassắc” in trong Về sân khấu truyền thống 
Khmer Nam Bộ, Sở VHTT Sóc Trăng, 1998, trang 21 – 30. 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201480 Soá 13, thaùng 3/2014 81
của người Kinh và Hồ Quảng của dân tộc Hoa, Dù 
kê đã thực sự đem lại ấn tượng cho người Khmer 
tại đây. Nhà vua Campuchia đã gọi loại hình nghệ 
thuật của người Khmer Nam Bộ là Lakhol Bassac, 
có nghĩa là sân khấu vùng Nam Bộ (vùng Nam Bộ 
được gọi là vùng Bassac).
Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đã dung nạp 
những yếu tố khác vào trong nó một cách hòa hợp 
và nhuần nhuyễn. Loại hình này là kết quả giao 
lưu văn hóa của các dân tộc sinh sống trên mảnh 
đất Nam Bộ. Nội dung những vở diễn của Dù kê 
ngoài khai thác từ tuồng tích xưa, chủ yếu rút ra 
trong bộ sử thi Ramayana, còn tiếp thu những đề 
tài mới gần gũi với đời sống của cư dân Khmer 
vùng Nam Bộ. 
2.2. Về nội dung
Những mảng đề tài này rất phong phú, có 
nguồn gốc, có liên hệ với đạo Bà La Môn, đạo Phật, 
những truyện truyền kỳ diễn giải các di tích, địa dư 
như sự tích các con rạch, hồ nước, ngọn đồi... Cũng 
có truyện dân gian như Thạch Sanh chém Chằn 
mang nội dung tương tự như Thạch Sanh Lý Thông 
của người Kinh. Hay là những truyện theo tuồng 
của người Hoa như Tiết Đinh San, Phàn Lê Huê... 
Những vở này rất quen thuộc với bà con Khmer, 
có người còn thuộc làu hết các tình tiết, câu hát, lời 
thoại của vở diễn nhưng khi có đoàn hát đến diễn 
thì họ vẫn đi xem. Có thể nói Dù kê đã trở thành 
một phần tâm hồn người Khmer.
Cũng như các loại hình sân khấu truyền thống 
khác, vào đầu mỗi mùa diễn, các đoàn Dù kê cũng 
phải cúng Tổ nhằm cầu xin sự bình an và thành 
công cho vở diễn. Những yếu tố về tôn giáo, thần 
linh đã thấm sâu vào tư tưởng, tâm lý của mỗi 
người dân Khmer với triết lý sống kiếp này là tạm 
để đức cho kiếp sau, tích thật nhiều phước để được 
giải thoát về sau nên việc thờ cúng Tổ cũng là một 
cách thể hiện sự biết ơn những người đi trước, 
những người thầy đã tạo nên sân khấu này. Như đã 
nói, người dân Khmer rất tin vào nhân quả nên nếu 
không cúng Tổ cũng giống như con cháu làm gì đó 
mà quên đi ông bà, cha mẹ mình vậy.
Ngôn ngữ chính của sân khấu Dù kê là ca hát, 
đối thoại trên nền nhạc kết hợp với sự sáng tạo ngẫu 
hứng của từng diễn viên. Dù kê khác với Rô băm 
vì ít thần bí và mang tính người nhiều hơn. Theo 
tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các môn văn nghệ 
truyền thống của người Khmer thì Dù kê cũng chia 
thành hai tuyến nhân vật thiện và ác rõ rệt. Trong 
phần lớn tuồng tích sân khấu đều có nhân vật Chằn 
trong vai diễn phản diện, nó tượng trưng cho thế 
lực đen tối đầy tham vọng. “Diệt Chằn” trở thành 
mô típ dàn dựng chính trong sân khấu Khmer, hình 
tượng Chằn trở nên quen thuộc với khán giả sân 
khấu Dù kê, Rô băm... cũng như trong đời sống 
văn hóa tín ngưỡng của người Khmer Nam Bộ. 
2.3. Vai Chằn (Yeak) trong sân khấu Dù kê 
Hình tượng Chằn trong sân khấu Dù kê không 
phải là một kẻ rách rưới đói khát mà là những kẻ 
giàu có lắm mưu nhiều kế, quỷ quyệt và háo sắc, 
có sở trường sử dụng ma thuật và binh lực đi gây 
chiến. Cấu trúc các tuồng tích “diệt Chằn cứu 
người” không chỉ nêu ra sự xung đột giữa Chằn và 
người hùng để kết thúc bằng diệt Chằn (như truyện 
dân gian: Nàng công chúa tóc thơm; Anh mù và anh 
bại...) mà còn hàm chứa những xung đột khác lớn 
hơn, mà trong đó mâu thuẫn giữa Chằn và người 
diệt Chằn là những chi tiết lồng vào cho vở diễn 
thêm phong phú. Trong dị bản Khmer của trường 
ca Ramayana Ấn Độ, tình tiết liên quan đến việc 
đánh Chằn Krong Reap (Vua Chằn – kẻ bắt cóc 
nàng Seda) chiếm một khối lượng phong phú đến 
mức làm lu mờ xung đột tranh chấp quyền lực ở 
cung đình. Nàng Seda, nạn nhân của Chằn Krong 
Reap đã tập trung mọi sự chú ý của khán giả. Do 
vậy, việc giải thoát cho nàng Seda trở thành biểu 
trưng của sự thắng lợi chính nghĩa. Nhưng trong 
thực tế, việc chuyển tác phẩm văn học này ít khi 
sử dụng trọn vẹn để dàn dựng trên sân khấu. Các 
thầy tuồng thường chọn những tình tiết cơ bản của 
cốt truyện để dẫn đến một trong những trận đánh 
tiêu diệt con Chằn thuộc hạ hay trận đánh kết thúc 
diệt Chằn Krong Reap. Ý nghĩa triết lý ở đây là cái 
ác luôn tồn tại bên cạnh cái thiện và cái thiện chiến 
thắng cái ác là kết thúc có hậu mà nhân dân mong 
ước. Do đó, trong chừng mực nhất định có thể nói 
rằng mô típ diệt Chằn trong sân khấu và cả trong 
văn học Khmer đều bắt nguồn từ truyện Ream kê. 
Điều này chứng tỏ Ream kê đã tạo nên một xu 
hướng sáng tạo nghệ thuật độc đáo riêng của các 
nghệ sĩ Khmer.
Vai Chằn trong sân khấu Dù kê dùng màu để 
vẽ mặt, gần giống như “kép núi”3 trong tuồng tích 
của gánh hát Bội và Hồ quảng. Đặc biệt, chằn 
mang cặp nanh cong và dài, lúc ngậm vào lúc lồi 
ra hai bên mép, làm tăng thêm tính hung dữ. Tất cả 
đều là biểu tượng đặc trưng của các nhân vật phản 
diện trên sân khấu tuồng.
Chằn trong Dù kê Khmer thường được phân 
biệt: Chằn chưa biết phép thuật là chằn khi xuất 
hiện trên sân khấu chưa biết múa vũ đạo, chằn biết 
phép thuật là Chằn có vũ đạo và Chằn thiện (người 
Khmer gọi là Chằn tu) thì phân biệt ở cách hóa 
trang (chủ yếu màu trắng) và trang phục.
Vai Chằn trong sân khấu Dù kê cũng được chia 
thành nhiều loại: Chằn lính, Chằn vua, Chằn tu, 
Chằn nữ... Theo lời anh Thạch Sakhol – nghệ nhân 
Dù kê Đoàn Nghệ thuật Sóc Trăng, chúng ta có thể 
nhận biết pháp lực của chằn qua cách múa của đôi 
tay. Nếu khi múa vai Chằn có động tác tay thấp 
hơn đầu là chằn đó chưa có phép thuật hoặc phép 
còn non yếu. Nếu động tác tay luôn cao hơn đầu 
chứng tỏ chằn đó có nhiều phép thuật hoặc là cho 
biết một nhân vật Chằn từ không có phép thuật 
đã hoàn thành việc đi học phép trở về. Động tác 
tay của vai Chằn rất quan trọng. Nó quy định nếu 
tay phải để cao hơn đầu thì tay trái ngang lưng và 
ngược lại. 
Trang phục cũng là một cách giúp nhận biết 
thân phận của nhân vật Chằn. Chằn trong Dù kê 
có khoác áo choàng và ba dải thắt lưng, đầu thắt 
chiếc kabăng (một dạng khăn). Chằn Vua ví dụ 
như Krong Reap mặc đồ sáng đẹp, có áo choàng, 
thường là màu đỏ, tượng trưng cho sức mạnh và 
uy quyền. Chằn trong rừng mặc đồ màu đen, vẽ 
mặt màu đen và trắng nhưng phần màu đen trội 
hơn, có đeo nanh. Chằn lính của Chằn Reap (có 
nghĩa là chằn đó ở trong cung) thì đồ màu xanh, có 
đeo nanh. Chằn tu thì mặc đồ màu trắng và vàng, 
có đeo miếng vải trắng trên vai. Chằn tu vẽ mặt 
màu trắng có pha màu đen một ít, chân mày màu 
trắng và không đeo nanh. Chằn nữ còn gọi là Yeak 
Keyney, mặc đồ rực rỡ và vẽ mặt rất đẹp, không 
đeo nanh. Tuy nhiên, vai Chằn nữ này hiện nay 
không còn được thể hiện trên sân khấu.
3 Kép núi trong hát Bội: mặt xanh xám, mắt tròng xéo, má 
đỏ, đen hay xanh; trên đầu có chít khăn đen của tên cướp.
Trong sân khấu Dù kê, đôi nanh là chi tiết khá 
quan trọng đối với nhân vật Chằn. Nanh là nanh 
heo thật, được các nghệ sĩ chọn lựa đặt hàng hết 
sức cẩn thận. Khi diễn xong một vở tuồng, phải đặt 
đôi nanh lên bàn thờ Tổ rất trân trọng. Các nghệ 
sĩ tin rằng làm như thế mới được thần linh phù 
trợ để vai diễn luôn xuất thần và người diễn được 
mạnh khỏe.
Trước đây, các nghệ sĩ đóng vai Chằn trong 
Dù kê sử dụng hai màu chính là đen và trắng để vẽ 
mặt. Ngày nay, người ta có dùng thêm nhiều màu 
khác nhưng chủ đạo vẫn là đen và trắng. Ví dụ như 
Đôi nanh của Chằn trong Dù kê
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Chằn Vua Krong Reaptrong sân khấu Dù kê
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201480 Soá 13, thaùng 3/2014 81
của người Kinh và Hồ Quảng của dân tộc Hoa, Dù 
kê đã thực sự đem lại ấn tượng cho người Khmer 
tại đây. Nhà vua Campuchia đã gọi loại hình nghệ 
thuật của người Khmer Nam Bộ là Lakhol Bassac, 
có nghĩa là sân khấu vùng Nam Bộ (vùng Nam Bộ 
được gọi là vùng Bassac).
Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đã dung nạp 
những yếu tố khác vào trong nó một cách hòa hợp 
và nhuần nhuyễn. Loại hình này là kết quả giao 
lưu văn hóa của các dân tộc sinh sống trên mảnh 
đất Nam Bộ. Nội dung những vở diễn của Dù kê 
ngoài khai thác từ tuồng tích xưa, chủ yếu rút ra 
trong bộ sử thi Ramayana, còn tiếp thu những đề 
tài mới gần gũi với đời sống của cư dân Khmer 
vùng Nam Bộ. 
2.2. Về nội dung
Những mảng đề tài này rất phong phú, có 
nguồn gốc, có liên hệ với đạo Bà La Môn, đạo Phật, 
những truyện truyền kỳ diễn giải các di tích, địa dư 
như sự tích các con rạch, hồ nước, ngọn đồi... Cũng 
có truyện dân gian như Thạch Sanh chém Chằn 
mang nội dung tương tự như Thạch Sanh Lý Thông 
của người Kinh. Hay là những truyện theo tuồng 
của người Hoa như Tiết Đinh San, Phàn Lê Huê... 
Những vở này rất quen thuộc với bà con Khmer, 
có người còn thuộc làu hết các tình tiết, câu hát, lời 
thoại của vở diễn nhưng khi có đoàn hát đến diễn 
thì họ vẫn đi xem. Có thể nói Dù kê đã trở thành 
một phần tâm hồn người Khmer.
Cũng như các loại hình sân khấu truyền thống 
khác, vào đầu mỗi mùa diễn, các đoàn Dù kê cũng 
phải cúng Tổ nhằm cầu xin sự bình an và thành 
công cho vở diễn. Những yếu tố về tôn giáo, thần 
linh đã thấm sâu vào tư tưởng, tâm lý của mỗi 
người dân Khmer với triết lý sống kiếp này là tạm 
để đức cho kiếp sau, tích thật nhiều phước để được 
giải thoát về sau nên việc thờ cúng Tổ cũng là một 
cách thể hiện sự biết ơn những người đi trước, 
những người thầy đã tạo nên sân khấu này. Như đã 
nói, người dân Khmer rất tin vào nhân quả nên nếu 
không cúng Tổ cũng giống như con cháu làm gì đó 
mà quên đi ông bà, cha mẹ mình vậy.
Ngôn ngữ chính của sân khấu Dù kê là ca hát, 
đối thoại trên nền nhạc kết hợp với sự sáng tạo ngẫu 
hứng của từng diễn viên. Dù kê khác với Rô băm 
vì ít thần bí và mang tính người nhiều hơn. Theo 
tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các môn văn nghệ 
truyền thống của người Khmer thì Dù kê cũng chia 
thành hai tuyến nhân vật thiện và ác rõ rệt. Trong 
phần lớn tuồng tích ... ề. Động tác 
tay của vai Chằn rất quan trọng. Nó quy định nếu 
tay phải để cao hơn đầu thì tay trái ngang lưng và 
ngược lại. 
Trang phục cũng là một cách giúp nhận biết 
thân phận của nhân vật Chằn. Chằn trong Dù kê 
có khoác áo choàng và ba dải thắt lưng, đầu thắt 
chiếc kabăng (một dạng khăn). Chằn Vua ví dụ 
như Krong Reap mặc đồ sáng đẹp, có áo choàng, 
thường là màu đỏ, tượng trưng cho sức mạnh và 
uy quyền. Chằn trong rừng mặc đồ màu đen, vẽ 
mặt màu đen và trắng nhưng phần màu đen trội 
hơn, có đeo nanh. Chằn lính của Chằn Reap (có 
nghĩa là chằn đó ở trong cung) thì đồ màu xanh, có 
đeo nanh. Chằn tu thì mặc đồ màu trắng và vàng, 
có đeo miếng vải trắng trên vai. Chằn tu vẽ mặt 
màu trắng có pha màu đen một ít, chân mày màu 
trắng và không đeo nanh. Chằn nữ còn gọi là Yeak 
Keyney, mặc đồ rực rỡ và vẽ mặt rất đẹp, không 
đeo nanh. Tuy nhiên, vai Chằn nữ này hiện nay 
không còn được thể hiện trên sân khấu.
3 Kép núi trong hát Bội: mặt xanh xám, mắt tròng xéo, má 
đỏ, đen hay xanh; trên đầu có chít khăn đen của tên cướp.
Trong sân khấu Dù kê, đôi nanh là chi tiết khá 
quan trọng đối với nhân vật Chằn. Nanh là nanh 
heo thật, được các nghệ sĩ chọn lựa đặt hàng hết 
sức cẩn thận. Khi diễn xong một vở tuồng, phải đặt 
đôi nanh lên bàn thờ Tổ rất trân trọng. Các nghệ 
sĩ tin rằng làm như thế mới được thần linh phù 
trợ để vai diễn luôn xuất thần và người diễn được 
mạnh khỏe.
Trước đây, các nghệ sĩ đóng vai Chằn trong 
Dù kê sử dụng hai màu chính là đen và trắng để vẽ 
mặt. Ngày nay, người ta có dùng thêm nhiều màu 
khác nhưng chủ đạo vẫn là đen và trắng. Ví dụ như 
Đôi nanh của Chằn trong Dù kê
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Chằn Vua Krong Reaptrong sân khấu Dù kê
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201482 Soá 13, thaùng 3/2014 83
cho miệng màu đỏ, mũi màu xanh, phần trán có thể 
cho màu đỏ hồng... tất cả những cách thức này tùy 
thuộc vào khả năng sáng tạo của từng diễn viên, 
miễn sao thể hiện được nét hung tợn của nhân vật 
Chằn. Một khuôn mặt của diễn viên vẽ mất khoảng 
25 phút. Chất liệu để vẽ mặt là sơn bột màu trộn 
với mỡ heo.
Việc thể hiện những đặc điểm nhân vật trên 
sân khấu Dù kê dựa vào cơ sở mà những nghệ 
nhân dân gian trước đã quy định. Ví dụ như Chằn 
Krong Reap sử dụng trang phục màu đỏ, vẽ mặt 
cũng dùng màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh và 
uy quyền. Vai Khỉ Hanuman được thiết kế trang 
phục màu trắng có những xoáy tròn, còn các diễn 
viên vẽ mặt thì lấy tông màu trắng là chủ đạo.
Chất liệu vẽ mặt trong Dù kê
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Màu đen 
Màu đen 
Màu trắng 
Mô phỏng mặt Chằn vẽ theo cách thức trước đây 
Vùng này vẽ tùy 
diễn viên 
Màu đen 
Vẽ xanh hoặc đỏ 
Vẽ màu tùy diễn viên 
Mô phỏng mặt Chằn vẽ theo cách ngày nay 
Vì là vai phản diện tiêu biểu cho cái ác nên các 
động tác múa của vai Chằn được cường điệu, trông 
rất dữ tợn. Trên sân khấu, vai Chằn Dù kê thể hiện 
hết mình qua động tác múa và võ thuật. Chằn luôn 
dùng động tác võ lực nhằm áp đảo đối phương, ít 
sử dụng ngôn từ mà chủ yếu chỉ bằng những âm 
thanh phát ra như gầm thét lên. Nét mặt của chằn 
rất quan trọng, các diễn viên phải giỏi điều khiển 
cơ mặt theo ý muốn để bộc lộ được bản chất của 
nhân vật. 
Qua phỏng vấn, anh Thạch Sakhol – diễn viên 
Dù kê đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng đã cho 
biết vai Chằn có những động tác chính sau:
- Pong: bước ra
- Chai: đi 
- Choong chơn: dậm chân tại chỗ, giơ tay 
phải lên cao và chỉ hai ngón tay diễn tả “ta là 
hùng mạnh”.
- Tr’ong diêng: như bưng người lên, hai tay 
đưa lên cao “hứng máu”.
- Chơ-bôt puk mót: vuốt râu.
Ngoài những động tác chính đó, vai Chằn cần 
phải thể hiện tốt những yếu tố khác như đôi mắt, 
cặp nanh và bộ ngực. Cặp mắt luôn liếc qua liếc lại 
nhiều lần. Miệng và nanh trong trạng thái chuyển 
động sao cho cặp nanh đưa lên đưa xuống. Trong 
tư thế đi đứng phải ưỡn căng lồng ngực, ngực luôn 
đi trước và theo chân nhúng nhịp nhàng.
Về trình tự biểu diễn cũng thay đổi theo từng 
giai đoạn, theo tài liệu và các nghệ nhân Dù kê ở 
thời kỳ đầu còn sống thì: trước khi trình diễn vở 
tuồng ở thời kỳ đầu chỉ có hát Hum roông và sau 
đó mới đồng thanh hô tô 3 câu là “Yak O”. Còn 
việc lồng một số điệu múa cho mở màn trình diễn 
chỉ mới sau này từ thập niên 50 của thế kỉ XX trở 
lại đây. Theo lời bà Kim Thị Suông – diễn viên 
Màu đen 
Vẽ tùy sáng tạo 
của diễn viên 
Màu trắng hoặc đỏ 
Viền màu đen 
Mô phỏng vẽ mặt nạ kiểu Chằn nữ 
Chằn Krong Reap và Hoàng tử Preah Ream
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201482 Soá 13, thaùng 3/2014 83
cho miệng màu đỏ, mũi màu xanh, phần trán có thể 
cho màu đỏ hồng... tất cả những cách thức này tùy 
thuộc vào khả năng sáng tạo của từng diễn viên, 
miễn sao thể hiện được nét hung tợn của nhân vật 
Chằn. Một khuôn mặt của diễn viên vẽ mất khoảng 
25 phút. Chất liệu để vẽ mặt là sơn bột màu trộn 
với mỡ heo.
Việc thể hiện những đặc điểm nhân vật trên 
sân khấu Dù kê dựa vào cơ sở mà những nghệ 
nhân dân gian trước đã quy định. Ví dụ như Chằn 
Krong Reap sử dụng trang phục màu đỏ, vẽ mặt 
cũng dùng màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh và 
uy quyền. Vai Khỉ Hanuman được thiết kế trang 
phục màu trắng có những xoáy tròn, còn các diễn 
viên vẽ mặt thì lấy tông màu trắng là chủ đạo.
Chất liệu vẽ mặt trong Dù kê
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Màu đen 
Màu đen 
Màu trắng 
Mô phỏng mặt Chằn vẽ theo cách thức trước đây 
Vùng này vẽ tùy 
diễn viên 
Màu đen 
Vẽ xanh hoặc đỏ 
Vẽ màu tùy diễn viên 
Mô phỏng mặt Chằn vẽ theo cách ngày nay 
Vì là vai phản diện tiêu biểu cho cái ác nên các 
động tác múa của vai Chằn được cường điệu, trông 
rất dữ tợn. Trên sân khấu, vai Chằn Dù kê thể hiện 
hết mình qua động tác múa và võ thuật. Chằn luôn 
dùng động tác võ lực nhằm áp đảo đối phương, ít 
sử dụng ngôn từ mà chủ yếu chỉ bằng những âm 
thanh phát ra như gầm thét lên. Nét mặt của chằn 
rất quan trọng, các diễn viên phải giỏi điều khiển 
cơ mặt theo ý muốn để bộc lộ được bản chất của 
nhân vật. 
Qua phỏng vấn, anh Thạch Sakhol – diễn viên 
Dù kê đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng đã cho 
biết vai Chằn có những động tác chính sau:
- Pong: bước ra
- Chai: đi 
- Choong chơn: dậm chân tại chỗ, giơ tay 
phải lên cao và chỉ hai ngón tay diễn tả “ta là 
hùng mạnh”.
- Tr’ong diêng: như bưng người lên, hai tay 
đưa lên cao “hứng máu”.
- Chơ-bôt puk mót: vuốt râu.
Ngoài những động tác chính đó, vai Chằn cần 
phải thể hiện tốt những yếu tố khác như đôi mắt, 
cặp nanh và bộ ngực. Cặp mắt luôn liếc qua liếc lại 
nhiều lần. Miệng và nanh trong trạng thái chuyển 
động sao cho cặp nanh đưa lên đưa xuống. Trong 
tư thế đi đứng phải ưỡn căng lồng ngực, ngực luôn 
đi trước và theo chân nhúng nhịp nhàng.
Về trình tự biểu diễn cũng thay đổi theo từng 
giai đoạn, theo tài liệu và các nghệ nhân Dù kê ở 
thời kỳ đầu còn sống thì: trước khi trình diễn vở 
tuồng ở thời kỳ đầu chỉ có hát Hum roông và sau 
đó mới đồng thanh hô tô 3 câu là “Yak O”. Còn 
việc lồng một số điệu múa cho mở màn trình diễn 
chỉ mới sau này từ thập niên 50 của thế kỉ XX trở 
lại đây. Theo lời bà Kim Thị Suông – diễn viên 
Màu đen 
Vẽ tùy sáng tạo 
của diễn viên 
Màu trắng hoặc đỏ 
Viền màu đen 
Mô phỏng vẽ mặt nạ kiểu Chằn nữ 
Chằn Krong Reap và Hoàng tử Preah Ream
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201484 Soá 13, thaùng 3/2014 85
Dù kê lâu năm trong đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc 
Trăng thì hát trước khi diễn gọi là Hum roông. 
Lúc xưa còn có múa Băm bô trước khi hát Hum 
ronl, đây là điệu múa lai Ấn nhưng ngày nay gần 
như không còn lưu truyền nữa. Ngày nay, trình tự 
diễn trở nên linh hoạt hơn, đơn giản hơn cho phù 
hợp với điều kiện và hoàn cảnh các đoàn Dù kê4.
Khi ra diễn, các diễn viên được xức dầu thơm 
đã được làm phép để diễn thật có hồn. Tùy tuyến 
nhân vật mà sẽ ra sân khấu theo hướng khác nhau. 
Tuyến nhân vật thiện sẽ ra phía tay trái sân khấu, 
vô phía tay phải. Trống kèn cũng ngồi phía tay trái 
sân khấu. Tuyến nhân vật ác có thể ra phía tay phải 
nhằm tượng trưng cho sự ngang ngược, ngông 
cuồng của vai phản diện.
Dù kê từ khi ra đời đã đáp ứng được nhu cầu 
của cư dân Khmer Nam Bộ. Một sản phẩm riêng có 
của những người con Khmer vùng Nam Bộ nay đã 
khẳng định được vị thế của mình. Không những thế, 
4 Qua tổng hợp, ở Sóc Trăng chỉ còn 3 đoàn Dù kê do tư nhân 
thành lập là duy trì hình thức cúng Tổ như ngày xưa: Đoàn 
Roong Roong, xã Phú Tân, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng; 
Đoàn Xà Coong (Ánh Bình Minh), xã Tham Đôn, huyện Mỹ 
Xuyên, tỉnh Sóc Trăng; Đoàn ông Tha (Chòng bệt), xã Phú 
Mỹ, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
Dù kê còn vươn tới những con người Khmer trên 
đất Campuchia và được tiếp nhận nồng hậu. Cấu 
trúc song tuyến đối lập – thiện và ác, nhân đức và 
bạo tàn, chính nghĩa và phi nghĩa, yêu nước và phản 
quốc... trong tuồng tích diệt Chằn truyền thống đã 
trở thành một quán tính của thị hiếu tâm lý thưởng 
ngoạn sân khấu, vẫn chưa thay đổi với các thầy 
tuồng và khán giả Khmer Nam Bộ. Chằn trên sân 
khấu Dù kê không mang tính ma thuật mà chủ yếu 
tượng trưng cho cái xấu, các ác tồn tại xung quanh 
đời sống. Từ những con người gian xảo lừa lọc, 
lực lượng ngoại xâm đã từng đe dọa cuộc sống của 
đồng bào, đến các thế lực ma quỷ, thần linh trong 
niềm tin sâu thẳm của cư dân Khmer. 
Như thế, hình tượng Chằn Dù kê đã đi từ hư 
đến thực, từ những hoang đường đến hiện hữu. 
Cùng mang ý nghĩa giáo dục nhân cách con người, 
hướng đến những giá trị nhân văn như các loại 
hình sân khấu khác nhưng hình tượng Chằn Dù kê 
lại “đời” hơn nên được cư dân Nam Bộ tiếp nhận 
nhiệt tình và cởi mở. 
Động tác “hứng máu” của vai Chằn Dù kê do anh 
Thạch Dara (Đoàn Nghệ thuật Sóc Trăng) thể hiện
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Hóa trang vai Khỉ Hanuman trong Dù kê
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
3. Kết luận
Nhìn chung, sân khấu của người Khmer gắn 
liền với tôn giáo và tín ngưỡng. Vai Chằn là một 
hình tượng tiêu biểu cho những gì xấu xa, gian 
dối, nguy hiểm đang tồn tại. Tiêu diệt thế lực này 
để hướng đến một cuộc sống yên bình và vươn tới 
những giá trị tốt đẹp. Đó là bài học đạo đức nhân 
văn mà các nghệ nhân dân gian Khmer gửi gắm 
vào cho chính bản thân và cộng đồng. Như vậy, 
chúng ta thấy ở đây thể hiện khát vọng của dân tộc 
Khmer theo tư tưởng, triết lý Phật giáo với quan 
niệm: dù rằng cái thiện và cái ác luôn tồn tại song 
hành trong đời sống nhưng cuối cùng cái thiện 
luôn chiến thắng và chinh phục cái ác.
Tài liệu tham khảo
Lê Hương. 1969. Người Việt gốc Miên, Xuất bản Trí Đăng. 277tr.
Nguyễn Thị Tâm Anh. 2006. Tài liệu điền dã chép tay.
Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. 372tr.
Nhiều tác giả. 1997. Văn hóa nghệ thuật Nam Bộ. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. NXB VH TT Hà 
Nội. 491tr.
Sở VH – TT Tỉnh Sóc Trăng & Phân viện VHNT Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh. 1998. Về sân khấu 
truyền thống Khmer Nam Bộ. NXB Sở VH – TT. 173tr.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201484 Soá 13, thaùng 3/2014 85
Dù kê lâu năm trong đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc 
Trăng thì hát trước khi diễn gọi là Hum roông. 
Lúc xưa còn có múa Băm bô trước khi hát Hum 
ronl, đây là điệu múa lai Ấn nhưng ngày nay gần 
như không còn lưu truyền nữa. Ngày nay, trình tự 
diễn trở nên linh hoạt hơn, đơn giản hơn cho phù 
hợp với điều kiện và hoàn cảnh các đoàn Dù kê4.
Khi ra diễn, các diễn viên được xức dầu thơm 
đã được làm phép để diễn thật có hồn. Tùy tuyến 
nhân vật mà sẽ ra sân khấu theo hướng khác nhau. 
Tuyến nhân vật thiện sẽ ra phía tay trái sân khấu, 
vô phía tay phải. Trống kèn cũng ngồi phía tay trái 
sân khấu. Tuyến nhân vật ác có thể ra phía tay phải 
nhằm tượng trưng cho sự ngang ngược, ngông 
cuồng của vai phản diện.
Dù kê từ khi ra đời đã đáp ứng được nhu cầu 
của cư dân Khmer Nam Bộ. Một sản phẩm riêng có 
của những người con Khmer vùng Nam Bộ nay đã 
khẳng định được vị thế của mình. Không những thế, 
4 Qua tổng hợp, ở Sóc Trăng chỉ còn 3 đoàn Dù kê do tư nhân 
thành lập là duy trì hình thức cúng Tổ như ngày xưa: Đoàn 
Roong Roong, xã Phú Tân, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng; 
Đoàn Xà Coong (Ánh Bình Minh), xã Tham Đôn, huyện Mỹ 
Xuyên, tỉnh Sóc Trăng; Đoàn ông Tha (Chòng bệt), xã Phú 
Mỹ, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
Dù kê còn vươn tới những con người Khmer trên 
đất Campuchia và được tiếp nhận nồng hậu. Cấu 
trúc song tuyến đối lập – thiện và ác, nhân đức và 
bạo tàn, chính nghĩa và phi nghĩa, yêu nước và phản 
quốc... trong tuồng tích diệt Chằn truyền thống đã 
trở thành một quán tính của thị hiếu tâm lý thưởng 
ngoạn sân khấu, vẫn chưa thay đổi với các thầy 
tuồng và khán giả Khmer Nam Bộ. Chằn trên sân 
khấu Dù kê không mang tính ma thuật mà chủ yếu 
tượng trưng cho cái xấu, các ác tồn tại xung quanh 
đời sống. Từ những con người gian xảo lừa lọc, 
lực lượng ngoại xâm đã từng đe dọa cuộc sống của 
đồng bào, đến các thế lực ma quỷ, thần linh trong 
niềm tin sâu thẳm của cư dân Khmer. 
Như thế, hình tượng Chằn Dù kê đã đi từ hư 
đến thực, từ những hoang đường đến hiện hữu. 
Cùng mang ý nghĩa giáo dục nhân cách con người, 
hướng đến những giá trị nhân văn như các loại 
hình sân khấu khác nhưng hình tượng Chằn Dù kê 
lại “đời” hơn nên được cư dân Nam Bộ tiếp nhận 
nhiệt tình và cởi mở. 
Động tác “hứng máu” của vai Chằn Dù kê do anh 
Thạch Dara (Đoàn Nghệ thuật Sóc Trăng) thể hiện
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
Hóa trang vai Khỉ Hanuman trong Dù kê
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh, 2006
3. Kết luận
Nhìn chung, sân khấu của người Khmer gắn 
liền với tôn giáo và tín ngưỡng. Vai Chằn là một 
hình tượng tiêu biểu cho những gì xấu xa, gian 
dối, nguy hiểm đang tồn tại. Tiêu diệt thế lực này 
để hướng đến một cuộc sống yên bình và vươn tới 
những giá trị tốt đẹp. Đó là bài học đạo đức nhân 
văn mà các nghệ nhân dân gian Khmer gửi gắm 
vào cho chính bản thân và cộng đồng. Như vậy, 
chúng ta thấy ở đây thể hiện khát vọng của dân tộc 
Khmer theo tư tưởng, triết lý Phật giáo với quan 
niệm: dù rằng cái thiện và cái ác luôn tồn tại song 
hành trong đời sống nhưng cuối cùng cái thiện 
luôn chiến thắng và chinh phục cái ác.
Tài liệu tham khảo
Lê Hương. 1969. Người Việt gốc Miên, Xuất bản Trí Đăng. 277tr.
Nguyễn Thị Tâm Anh. 2006. Tài liệu điền dã chép tay.
Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. 372tr.
Nhiều tác giả. 1997. Văn hóa nghệ thuật Nam Bộ. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. NXB VH TT Hà 
Nội. 491tr.
Sở VH – TT Tỉnh Sóc Trăng & Phân viện VHNT Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh. 1998. Về sân khấu 
truyền thống Khmer Nam Bộ. NXB Sở VH – TT. 173tr.

File đính kèm:

  • pdfhinh_tuong_chan_trong_san_khau_du_ke_cua_nguoi_khmer_o_nam_b.pdf