Hmong in Vietnam and some major issues of language

Abstract: The Hmong is an ethnic minority in Vietnam, which owns a typical language. The issues of this

ethnic language will be better addressed with certain knowledge of ethnic culture. Our research interest focuses on national history tied to the problems of language and script. Thereby we try to show the very tight relationship between the three elements namely, ethnicity, language and culture. The research results contribute to build up language policies for ethnic minorities in Vietnam.

pdf 8 trang yennguyen 1020
Bạn đang xem tài liệu "Hmong in Vietnam and some major issues of language", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hmong in Vietnam and some major issues of language

Hmong in Vietnam and some major issues of language
16 
[2] Bộ Giáo dục Đào tạo (2006). Quyết định về việc ban hành chương trình tiếng Mông dùng 
để đào tạo giáo viên dạy tiếng Mông cho cán bộ, công chức ở vùng dân tộc, miền núi, 
Hà Nội. 
[3] Phan Hữu Dật (2014). Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học 
Quốc gia Hà Nội. 
[4] Trần Trí Dõi (2016). Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học 
Quốc gia Hà Nội 
[5] Vũ Quốc Khánh (2005). Dân tộc Mông ở Việt Nam. Nhà xuất bản Thông tấn. 
[6] F. Savina (1924). Lịch sử người Mèo, Bản dịch Trương Thị Thọ và Đỗ Trọng Quang, 
Phòng tư liệu - Thư viện Dân tộc học, Hà Nội. 
[7] Vương Duy Quang (2005). Văn hóa tâm linh của người Mông ở Việt Nam, truyền thống 
và hiện tại. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. 
[8] Thào Seo Sình, Phan Thanh (2003). Sách học tiếng Mông. Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc. 
[9] Nguyễn Kiến Thọ (2014). Thơ ca dân tộc Mông từ truyền thống đến hiện đại. Nhà 
xuất bản Đại học Thái Nguyên. 
[10] Tổng cục thống kê (2010). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009. 
HMONG IN VIETNAM 
AND SOME MAJOR ISSUES OF LANGUAGE 
Nguyen Trung Kien 
Tay Bac University 
Abstract: The Hmong is an ethnic minority in Vietnam, which owns a typical language. The issues of this 
ethnic language will be better addressed with certain knowledge of ethnic culture. Our research interest focuses 
on national history tied to the problems of language and script. Thereby we try to show the very tight 
relationship between the three elements namely, ethnicity, language and culture. The research results contribute 
to build up language policies for ethnic minorities in Vietnam. 
Keywords: Culture, ethnicity, history, minority, language, policy. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
Khoa học Xã hội, Số 9 (6/2017) tr. 17 - 23 
17 
DÂN CA CỔ TRUYỀN CỦA NGƢỜI BỐ Y Ở HÀ GIANG 
Trần Quốc Việt 
Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội 
Tóm tắt: Người Bố Y ở Hà Giang - Việt Nam có một kho tàng dân ca cổ truyền nhưng chưa được nhiều 
người biết đến, bao gồm những bài dân ca được dùng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống, chứa đựng nhiều 
giá trị xứng đáng được trân trọng, giữ gìn. Dựa trên các tài liệu hồi cố và điền dã thực tế của tác giả, bài viết 
này giới thiệu về dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang thông qua diện mạo và những đặc trưng được thể 
hiện trong nghi tục, cách thức diễn xướng và các thành tố âm nhạc. 
Từ khóa: Dân ca cổ truyền, diện mạo, đặc trưng, người Bố Y. 
1. Mở đầu 
Tại Hà Giang, dân ca cổ truyền của những tộc người như Mông, Nùng, Tày, Thái... đã 
được phổ biến ở cả trong và ngoài tỉnh. Nhưng dân ca cổ truyền của người Bố Y mới chỉ được 
rất ít người biết đến. 
Người Bố Y ở Hà Giang được các nhà khoa học xếp vào nhóm ngữ hệ Tày - Thái. Dân 
số khoảng 808 người theo số liệu điều tra dân số năm 2009. Tổ tiên của họ xưa kia là người 
Pầu Ỳ thuộc tộc người Bố Y ở Quý Châu, Trung Quốc, di cư sang Việt Nam đến Hà Giang 
vào khoảng đầu thế kỷ XIX [2, 3]. 
Trong số các công trình nghiên cứu về người Bố Y ở Hà Giang đã được công bố mà 
chúng tôi biết, đa phần là những nghiên cứu về văn hóa tổng hợp bằng phương pháp miêu 
thuật. Đó là các công trình của các nhà nghiên cứu Lunet de Lajonquyère (Pháp) (1904), Bùi 
(1950), Chu Thái Sơn (1973, 1983), Nguyễn Phi Vân (2006). Trong những công trình này, 
các chi tiết liên quan đến âm nhạc cổ truyền, đặc biệt là dân ca rất hiếm hoi. Năm 2006 có duy 
nhất chuyên khảo về hát đám cưới Bố Y ở Hà Giang của nhà nghiên cứu Trần Bình. Tuy 
nhiên, chuyên khảo mới chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát sơ lược, miêu thuật, tổng hợp riêng về 
thể loại hát nghi tục đám cưới. 
Như vậy, chưa có công trình đã được công bố nào khái quát được diện mạo, hoặc nêu 
được đặc trưng dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang. Do đó, trong bài viết này, 
chúng tôi sẽ giới thiệu về dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang thông qua những khía 
cạnh đó. 
Để có thể nhận thức sâu vấn đề nghiên cứu, chúng tôi kết hợp cả phương pháp nghiên 
cứu lý thuyết lẫn phương pháp nghiên cứu thực tiễn với các công cụ như tổng hợp, phân tích, 
so sánh, điền dã khai thác tối đa nguồn tài liệu kể cả các tài liệu hồi cố và viết tay của các 
người già và nghệ nhân. 
2. Nội dung 
Để tìm hiểu về dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang, trước tiên chúng tôi khái 
quát về diện mạo của nó. 
 Ngày nhận bài: 30/11/2016. Ngày nhận đăng: 15/6/2017 
Liên lạc: Trần Quốc Việt, e - mail: tqviet@daihocthudo.edu.vn 
18 
2.1. Diện mạo dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang 
Theo hồi cố của những người già Bố Y ở Hà Giang và tài liệu viết tay của nghệ nhân 
Ngũ Khởi Phượng, xưa kia họ có 5 điệu hát bao gồm: Sinh phăn, Sinh ún, Sinh oài, Sinh khề 
và Sinh mua, được sử dụng để hát trong nhiều thể loại dân ca như dân ca đời thường, dân ca lễ 
nghi phong tục và dân ca lễ nghi tín ngưỡng [1]. Tuy nhiên, hiện nay hai điệu Sinh ún, Sinh 
oài và một số thể loại, bài bản đã bị mai một, chỉ còn lại ba điệu Sinh phăn, Sinh khề, Sinh 
mua và các thể loại, bài dân ca dưới đây: 
a. Dân ca sinh hoạt đời thường và lễ nghi đám cưới 
Các thể loại dân ca sinh hoạt đời thường của người Bố Y ở Hà Giang bao gồm: Hát lao 
động (phân củ shang), hát làm khách (phân pầu shía) và hát giao duyên (phân bó xho). Dân ca 
lễ nghi đám cưới có hát ngăn cửa (phân thoàn tâu). 
Về hát lao động, người Bố Y ở Hà Giang có những bài hát về các công việc như làm 
ruộng, hớt cá, đi rừng, làm nhà, dệt vải Theo các nghệ nhân, xưa kia họ có nhiều bài hát ở 
thể loại này. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại một bài hát về việc tìm cây thuốc, quá trình làm 
men và nấu rượu. 
Hát làm khách là các bài hát được người Bố Y ở Hà Giang dùng trong những cuộc vui 
giữa chủ nhà và khách. Thể loại hát này có quy định như sau: Khi được chủ nhà mời, người 
được mời hát phải hát mở đầu bằng một bài có tên Phân chăm - tức Hát xin phép, rồi mới 
được hát các bài khác. Nội dung hát làm khách hầu hết là những lời thăm hỏi, ca ngợi và cảm 
ơn. Hiện nay, người Bố Y ở Hà Giang còn giữ được sáu bài hát làm khách. 
Hát giao duyên được thanh niên người Bố Y ở Hà Giang xưa sử dụng để làm quen, tìm 
hiểu nhau. Đặc biệt, họ có quy định đôi trai gái phải gặp nhau hát thâu đêm suốt sáng trước 
ngày cưới. Các nghệ nhân Bố Y ở Hà Giang còn nhớ chín bài hát giao duyên. 
Hát dân ca trong lễ nghi đám cưới được người Bố Y ở Hà Giang gọi là hát ngăn cửa 
(tiếng Bố Y là phân thoàn tâu). Khi đến trước cửa ra vào của nhà gái, đoàn nhà trai dừng lại 
đứng ngoài sân hát đối đáp với đoàn nhà gái đứng sau cửa ra vào ở trong nhà. Chỉ khi hát đối 
đáp xong, đoàn nhà trai mới được vào nhà của nhà gái. Hát ngăn cửa đám cưới bao gồm năm 
bài đối đáp giữa nhà gái với nhà trai. 
Các thể loại dân ca vừa nêu đều sử dụng duy nhất một điệu Sinh phăn. Ngoài các thể loại 
dân ca dùng trong sinh hoạt đời thường và lễ nghi đám cưới nêu trên, người Bố Y ở Hà Giang 
còn có thể loại dân ca dùng để hát khi tiến hành các lễ nghi tín ngưỡng. 
b. Dân ca lễ nghi tín ngưỡng 
Thể loại dân ca này gắn với các lễ cúng giải hạn và cúng ma. Trong hai lễ cúng đó, tất 
cả bài cúng đều là các bài hát. Hiện nay, người Bố Y ở Hà Giang còn giữ được hai bộ sách 
cúng là Khào xhâư đinh và Khào xhâư ho. Sách cúng Khào xhâư đinh là của những dòng họ 
có tổ tiên xưa kia làm quan và sách Khào xhâư ho là của những dòng họ có tổ tiên xưa là đầy 
tớ, làm thuê [4, 5]. Những bài hát để giải hạn được hát bằng điệu Sinh khề, còn bài hát để 
cúng ma được hát bằng điệu Sinh mua. Lời ca trong tất cả các bài dân ca đời thường, lễ nghi 
đám cưới, lễ nghi tín ngưỡng nêu trên đều được hát bằng tiếng Bố Y. 
19 
Đó là toàn bộ vốn dân ca cổ truyền mà người Bố Y ở Hà Giang còn lưu giữ được cho 
đến ngày nay. Tiếp theo, chúng tôi sẽ bàn về những đặc trưng của kho tàng dân ca này. 
2.2. Đặc trưng dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang 
Những đặc trưng trong dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang được biểu hiện ở 
trong một số khía cạnh của thể loại hát nghi tục đám cưới cũng như trong các thành tố âm 
nhạc nói chung. 
a. Đặc trưng trong nghi tục và cách diễn xướng hát lễ nghi đám cưới 
Một số tộc người ở tỉnh Hà Giang như người Nùng, Tày, Mông, cũng có tục ngăn 
cửa - hát đối đáp giữa nhà trai với nhà gái trong đám cưới. Tuy nhiên, xét về khía cạnh người 
hát, số lần hát và cách diễn xướng, hát nghi tục đám cưới của người Bố Y ở Hà Giang có 
những nét riêng. 
- Phía nhà trai chỉ các ông mối và phù rể được hát đối đáp với nhà gái và hát trong cả 
4 lễ của đám cưới 
Nhiều tộc người lân cận không bắt buộc ai trong phía nhà trai sẽ hát đối đáp với nhà gái 
và họ cũng chỉ hát duy nhất trong lễ đón dâu. Nhưng người Bố Y ở Hà Giang quy định phía 
nhà trai chỉ hai ông mối, hai phù rể được hát đối đáp với nhà gái và cả bốn lễ của đám cưới 
như lễ ăn hỏi, lễ dẫn cưới lần một, lễ dẫn cưới lần hai và lễ đón dâu đều phải thực hiện nghi 
tục hát này. Hai ông mối hát trong ba lễ đầu, còn hai phù rể chỉ hát trong lễ thứ tư [2]. 
- Diễn xướng kiểu gài bẫy 
Trong hát lễ nghi đám cưới, nhà gái người Bố Y ở Hà Giang gài những cái “ bẫy lời ca” để 
thử tài đối đáp của nhà trai: Khi nhà gái hát về mình, họ cố ý dùng những lời lẽ hạ thấp để hát 
với nhà trai. Nhà trai không được dùng lại những lời ca đó để hát về nhà gái mà phải thay thế 
chúng bằng những từ hay, tốt, đề cao nhà gái. Nếu không, nhà trai sẽ bị coi là mắc lỗi coi 
khinh nhà gái và bị phạt rượu. Chẳng hạn, nhà gái tự gọi nhà của mình là “cái lều”1 để hát đối 
với nhà trai, thì nhà trai không được hát đáp lại bằng từ “cái lều” mà phải thay từ đó bằng từ 
“cái nhà” khi hát đáp lại nhà gái [1]. 
b. Đặc trưng trong một số thành tố âm nhạc 
Dân ca của người Bố Y ở Hà Giang có 3 đặc trưng sau đây: 
- Dân ca Bố Y ở Hà Giang chỉ dùng thang 3 âm và 4 âm 
Hai điệu sinh khề và sinh mua đều có thang 3 âm, xếp theo các quãng tương ứng trong âm 
nhạc phương Tây gồm 5Đ - 3t - 2T. Các bài dân ca sử dụng hai điệu này dùng 4 cao độ trong 
phạm vi một quãng 8Đ (la - mi - sol - la1). 
Điệu Sinh phăn chỉ có 4 âm trong thang âm, xếp theo các quãng tương ứng trong âm 
nhạc phương Tây là 2T - 3t - 2T. Các bài dân ca sử dụng điệu này cũng dùng 4 cao độ nhưng 
chỉ trong phạm vi một quãng 5Đ (re - mi - sol - la). 
1
 Lời ca trong bài hát số 3 do nhà gái hát 
20 
Theo cố GS.TS. Phạm Minh Khang - nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Việt Nam, đây có 
thể là những thang âm cổ, tiền thân của những thang 5 âm sau này2. 
- Dân ca Bố Y ở Hà Giang chỉ dùng cấu trúc làn điệu 
Các bài dân ca của người Bố Y ở Hà Giang không có loại cấu trúc ổn định theo kiểu bài 
hát, chỉ có loại cấu trúc theo kiểu làn điệu. Giai điệu của các bài dân ca trong quá trình diễn 
xướng đều bị biến hóa và có những trường hợp khác nhau rất xa. Có thể thấy rõ điều đó qua 
ba bài hát đám cưới số 1,2,4 của nhóm Bố Y ở Hà Giang do nhà gái hát theo điệu Sinh phăn: 
Ví dụ 1: Bài 1 của nhà gái 
 Mầng táy pẻ pầng 
 cái ti là óe? Mầng táy pẻ pầng lo là 
 mà ? Mầng táy pẻ pầng 
quáng là thào? Tân tịp tân tân tịp tảy. 
Tân tịp táy pầng lo là mà? Tân tịp táy pầng 
quáng là thào? 
Sơ đồ cấu trúc bài này như sau: Số nhịp: 15,5 
Vế 1: Mở đầu (2 nhịp) + Giữa (4 nhịp) + Kết (3,5 nhịp) // Vế 2: Mở đầu (2 nhịp) + Giữa 
(2 nhịp) + Kết (2 nhịp). 
2
 Phỏng vấn GS.TS Phạm Minh Khang năm 2007 
21 
Ví dụ 2: Bài 2 của nhà gái 
 Nầư dỉnh mà xhâu chi thào tàng chác? Xhâu nác 
 Nầư dỉnh mà xhâu chi thào tàng chác? Xhâu nác 
 dỉnh mà thào tàng tình. Địp cáy 
 dỉnh mà thào tàng đòng. Địp cáy 
 dỉnh mà dỉnh tàng này? 
 dỉnh mà long tàng này? 
Sơ đồ cấu trúc của bài 2: Số nhịp: 8 
Vế 1: Không Mở đầu + Giữa (chất liệu 2,5 nhịp) + Kết (2 nhịp) // Vế 2: Mở đầu (1,5 
nhịp) + không có Giữa + Kết (2 nhịp). 
Ví dụ 3: Bài 4 của nhà gái 
 Tâu cúa pủa di 
 mầy đam a tình. Tâu tình pủa di mầy 
 đam a má. Tàng mầy i hà dầu chạp a 
 pá. Tang mầy má hà dầu chạp hằng. Pin lằng 
 i vùa hấư choài dầu mầy đài? 
Sơ đồ cấu trúc của bài 4: Số nhịp: 14,5 
22 
Vế 1: Mở đầu (4 nhịp) + Giữa mở rộng (5 nhịp) + Kết (2 nhịp) + Bổ sung (chất liệu 
Giữa rút gọn 2 nhịp) + Kết bổ sung (1,5 nhịp) // không có Vế 2. 
Như vậy, dù có sự giống nhau về âm điệu, nhưng 3 bài này hoàn toàn khác nhau cả về độ 
dài và cấu trúc: Ở bài 1 có 2 vế, mỗi vế đều có Mở, Giữa và Kết; nhưng trong bài 2, vế 1 
không có Mở, vế 2 không có Giữa; còn bài 4 chỉ có vế 1, không có vế 2, trong vế 1 lại có 
thêm đoạn nhạc Bổ sung. 
- Thanh điệu ca từ đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành giai điệu 
So với tiếng Việt, tiếng Bố Y có đôi chút khác biệt. Theo nghệ nhân Ngũ Khởi Phượng: 
“Trong 5 dấu chữ Quốc ngữ huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã thì riêng dấu ngã tiếng Pu Y không 
dùng đến nhưng lại thiếu dấu huyền nặng3” [2]. 
Mặc dù người Bố Y ở Hà Giang hát dân ca theo nguyên tắc “tròn vành, rõ chữ” cũng 
như cách người Việt hát dân ca. tuy nhiên, việc hình thành giai điệu của dân ca Bố Y có một 
số đặc điểm riêng. 
Trong các bài dân ca Bố Y, có hiện tượng một số chữ được hát trái dấu hoặc không rõ 
dấu. Tuy nhiên số lượng những chữ trái dấu và không rõ dấu này không nhiều. Tính trong 5 
bài hát lễ nghi đám cưới do nhà gái hát, chỉ có 8/185 chữ được hát không đúng dấu bao gồm 6 
chữ trái dấu (chiếm khoảng 3%) và 2 chữ không rõ dấu (chiếm khoảng 1%). 
Những chữ trái dấu và không rõ dấu chủ yếu nằm ở trong khoảng giữa của câu hát. Đặc 
biệt, chúng đều nằm trong thành phần của những từ được ghép bởi hai chữ với nhau mới 
thành nghĩa. Vì vậy, theo PGS.TS. Nguyễn Thụy Loan - nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian 
Việt Nam, dù có hát trái dấu cũng không làm người nghe bị “gợn” hoặc nhầm lẫn giữa từ nọ 
với từ kia như các trường hợp “cưỡng dấu” trong một số thể loại dân ca của người Việt4. 
Như vậy, mặc dù dân ca Bố Y ở Hà Giang có làn điệu đã hình thành lòng bản rõ rệt 
(như Sinh phăn), nhưng đại bộ phận ca từ vẫn bám sát theo đúng thanh điệu vốn có của nó. 
Điều này chứng tỏ thanh điệu trong tiếng nói vẫn còn đóng vai trò đáng kể trong sự hình 
thành giai điệu đặc biệt nếu xét trên tỷ lệ rất nhỏ của những chữ bị hát sai thanh điệu. 
3. Kết luận 
Tuy bài bản dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang không nhiều, nhưng nó cũng 
bao gồm nhiều thể loại được người dân sử dụng trong hầu hết các khía cạnh của cuộc sống 
như sinh hoạt đời thường, lễ nghi phong tục và lễ nghi tín ngưỡng. 
Dân ca Bố Y ở Hà Giang có bản sắc riêng, được thể hiện trong dân ca lễ nghi đám cưới 
về người hát của nhà trai - bắt buộc phải là ông mối, phù rể; hát trong tất cả các lễ dạm ngõ, 
dẫn cưới lần 1, dẫn cưới lần 2 và đón dâu; cách thức diễn xướng kiểu gài bẫy. Ngoài ra còn 
bộc lộ trong một số thành tố âm nhạc như thang âm của các điệu hát chỉ sử dụng 3 và 4 âm, 
cấu trúc dạng làn điệu của các bài dân ca và giai điệu hát còn phụ thuộc khá nhiều vào thanh 
điệu lời ca. 
3
 Theo ông Ngũ Khởi Phượng, dấu "huyền nặng" đọc gần như dấu huyền trong tiếng Việt nhưng nặng hơn. 
4
 Phỏng vấn PGS.TS. Nguyễn Thụy Loan năm 2012 
23 
Việc nghiên cứu dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang đem lại những nhận thức 
mới. Đó là: bức tranh khái quát về diện mạo và những đặc trưng của dân ca cổ truyền. Điều 
đó góp phần khẳng định dân ca cổ truyền của nhóm người này chưa bị hòa tan hoàn toàn 
trong quá trình giao lưu văn hóa với các tộc người khác mà vẫn đang được người dân nâng 
niu, bảo tồn cho tới ngày nay. 
Tóm lại, dân ca cổ truyền của người Bố Y ở Hà Giang giữ vai trò quan trọng trong đời 
sống và có giá trị thể hiện bản sắc văn hóa của tộc người. Vì vậy, nó xứng đáng được gìn giữ, 
tôn vinh và quảng bá rộng rãi cho nhiều người biết đến. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Khởi Phượng (2005). Dân ca Pu Y. Tài liệu viết tay, Hà Giang. 
[2] Ngũ Khởi Phượng (2005). Văn hóa dân tộc Pu Y ở Việt Nam. Tài liệu viết tay. 
[3] Chu Thái Sơn (1973). Sinh hoạt văn hóa hiện nay của người Bố Y ở Hà Giang. Thông 
báo Dân tộc học số 3/1973, Hà Nội. 
[4] La Tiến Tài (1960). Khào xhâu ho, sách mo. Tài liệu viết tay, Hà Giang. 
[5] La Tiến Tài (1960). Khào xhâu đinh, sách mo. Tài liệu viết tay, Hà Giang. 
A DESCRIPTION AND SOME CHARACTERISTICS OF TRADITIONAL SONGS 
OF BO Y ETHNIC GROUP IN HA GIANG PROVINCE 
Tran Quoc Viet 
Hanoi Metropolitan University 
Abstract: The Bo Y ethnic group in Ha Giang - Vietnam has their traditional songs but they are still not 
well known. These songs are very useful for their life and worth to preserved and promoted. This article uses 
retrospective study and experimental research methods to present a detailed description and some 
characteristics of their traditional songs in ceremonies, ways to sing and the lyrics of these songs. 
Keywords: Characteristic, description, the Bo Y ethnic group, traditional son. 

File đính kèm:

  • pdfhmong_in_vietnam_and_some_major_issues_of_language.pdf