Hướng dẫn ôn tập Triết học Mác-Lênin
Phần A
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ THẾ GIỚI
Câu 1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?
1. Khái niệm triết học:
“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng
về vũ trụ và nhân sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm
“triết học” có những biến đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm:
yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về con người và sự giải thích bằng hệ
thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý để con người có thái độ và
hành động).
Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội;
là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của
thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên
cứu thế giới xét như một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri
thức phổ quát. Từ cách xem xét đó, triết học có vai trò giải thích bản chất, nguyên
nhân và những quy luật phát triển của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường,
những phương tiện để nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Về mặt nhận thức, triết học xuất
hiện khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho
phép họ tổng kết và khái quát những tri thức riêng lẻ thành hệ thống quan niệm,
quan điểm chung. Về mặt xã hội, triết học xuất hiện khi sản xuất vật chất của loài
người phát triển đến trình độ làm nảy sinh quá trình phân công lao động trí óc và
lao động chân tay; nhưng quá trình phân công lao động này trong thực tế chỉ diễn
ra khi lịch sử nhân loại bước vào giai đoạn có phân chia giai cấp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng dẫn ôn tập Triết học Mác-Lênin
1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ KHOA MÁC-LÊNIN BỘ MÔN TRIẾT HỌC HƯỚNG DẪN ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN (TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ) HUẾ, 1998 2 Lời nói đầu - Căn cứ vào thông báo số 7785/CTCT ngày 12.9.1998 của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh năm học 1998-1999. - Căn cứ vào nhu cầu về tài liệu học tập của sinh viên và học viên Cao học, nghiên cứu sinh không chuyên ngành Mác-Lênin, Bộ môn Triết học Trường Đại học Khoa học Huế biên soạn cuốn: “Hướng dẫn ôn tập Triết học Mác – Lênin”. Đây là tài liệu giúp cho người học nắm được một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của Triết học Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng ta vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Tập thể tác giả xin được đón nhận sự hợp tác và những ý kiến trao đổi, xây dựng của bạn sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và đồng nghiệp. Bộ môn Triết học TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ 3 Phần A CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ THẾ GIỚI Câu 1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học? 1. Khái niệm triết học: “Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm “triết học” có những biến đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm: yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về con người và sự giải thích bằng hệ thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý để con người có thái độ và hành động). Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri thức phổ quát. Từ cách xem xét đó, triết học có vai trò giải thích bản chất, nguyên nhân và những quy luật phát triển của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường, những phương tiện để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Về mặt nhận thức, triết học xuất hiện khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho phép họ tổng kết và khái quát những tri thức riêng lẻ thành hệ thống quan niệm, quan điểm chung. Về mặt xã hội, triết học xuất hiện khi sản xuất vật chất của loài người phát triển đến trình độ làm nảy sinh quá trình phân công lao động trí óc và lao động chân tay; nhưng quá trình phân công lao động này trong thực tế chỉ diễn ra khi lịch sử nhân loại bước vào giai đoạn có phân chia giai cấp. 4 2. Vấn đề cơ bản của triết học Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, hay là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này có hai mặt: - Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái nào quyết định cái nào? Tùy theo cách giải quyết vấn đề này mà triết học chia thành hai trào lưu chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là sự phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiều giai đoạn phát triển với năm hình thức lịch sử cơ bản: duy vật cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy vật tầm thường thế kỷ V-XV, duy vật cơ học máy móc thế kỷ XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ XIX và duy vật mác-xít (biện chứng). Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý thức là cái có trước và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu hiện” của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan (coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là ý thức của con người nằm trong con người) và duy tâm khách quan (cũng coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là một thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài con người và độc lập với con người). Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học; là lợi ích và cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng ở mỗi giai đoạn phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là sự tuyệt đối hóa một hình thức hay một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến tách nhận thức và ý thức khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi ích và sự phản kháng của các giai cấp, các lực lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội. - Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người. Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều thừa nhận rằng thế giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng, 5 nhận thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc con người. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng, nhận thức chỉ là sự ý thức về bản chất ý thức. Trả lời vấn đề này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri (không thể biết). Những người này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối của tri thức dẫn đến phủ nhận khả năng nhận thức của con người. - Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích thế giới từ một bản nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết học nhị nguyên luận. Nhị nguyên luận cho rằng thế giới được sinh ra từ hai bản nguyên độc lập với nhau, bản nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản nguyên tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ là khuynh hướng nhỏ trong lịch sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó càng trở nên gần với chủ nghĩa duy tâm. Câu 2: Phân tích sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng - Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ thống những nguyên tắc dùng để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể. Trong lịch sử triết học có hai phương pháp cơ bản đối lập nhau: phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng. Thuật ngữ “siêu hình” (metaphysics), đầu tiên được Aristote dùng để chỉ bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống triết học của mình. Theo đó, nó được hiểu là học thuyết về những gì vượt ra ngoài giới hạn của “kinh nghiệm”, về những đối tượng đằng sau các sự vật hữu hình. Vì vậy, cho đến thời Phục hưng người ta vẫn coi siêu hình học đồng nghĩa với triết học. Đến thế kỷ XVII-XVIII, sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải phân chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực riêng biệt để nghiên cứu. Chính cách nghiên cứu ấy đã đem lại cho các nhà khoa học một thói quen, xét sự vật và quá trình trong trạng thái cô lập ở ngoài mối liên hệ, vận động và phát triển của chúng. Khi cách xem xét này được các nhà duy vật đưa vào triết học thì nó đã tạo ra phương pháp siêu hình. Như vậy, thuật ngữ 6 “phương pháp siêu hình” được dùng để chỉ phương pháp triết học đặc trưng cho chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII. Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau hoặc không vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín. Thuật ngữ “biện chứng” (dialectics), đầu tiên được Platon dùng để chỉ một nghệ thuật trong tranh luận, theo đó nó được hiểu là những thủ đoạn biện bác chủ quan. Tuy vậy ở thời cổ đại đã có những tư tưởng biện chứng khách quan (triết học Hêraclít), nhưng vẫn còn mang tính tự phát và chưa trở thành hệ thống. Đến thế kỷ XVIII, những tư tưởng biện chứng được phục hồi và được xây dựng thành hệ thống, đặc biệt là ở trong các học thuyết của những nhà triết học duy tâm cổ điển Đức. Từ lúc này những tư tưởng biện chứng mới hợp thành một phương pháp triết học đối lập với phương pháp siêu hình. Đến giữa thế kỷ XIX, khái quát hiện thực xã hội, tổng kết những thành quả lý luận và khoa học, Mác và Ăngghen xây dựng lại phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật đã sáng tạo ra phương pháp biện chứng mácxít. Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến quy định ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát triển. - Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra trong cách giải quyết mọi vấn đề triết học, song có thể khái quát ở những nội dung chính sau đây: Thứ nhất: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái cô lập của các sự vật hiện tượng; cái này được xét tách rời cái kia mà không thừa nhận rằng giữa chúng có sự ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy tính cá biệt mà không nắm được mối liên hệ, thấy được sự khác biệt mà không nắm được sự thống nhất giữa các sự vật hiện tượng; chỉ thấy cái bộ phận, cái đơn nhất, cái riêng mà không nắm được cái toàn thể, cái phổ biến, cái chung. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ, ràng buộc giữa các yếu tố của nó và với cái khác. Vì vậy, phương pháp biện chứng nhìn nhận sự vật toàn diện hơn, thấy được cả sự khác biệt và sự thống nhất giữa các sự vật, hiện 7 tượng, nắm được cả cải bộ phận và cái toàn thể, cái đơn nhất và cái phổ biến, cái riêng và cái chung. Thứ hai: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái tĩnh; sự vật hiện tượng chỉ được xét như cái gì ổn định nằm ngoài sự vận động và phát triển của chúng. Cách xem xét này cho phép phương pháp siêu hình nắm được tính xác định và ổn định của sự vật, hiện tượng, nhưng mặt khác cũng dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng: đó là quan điểm phủ nhận sự vận động, phát triển của thế giới; là quan điểm cho rằng thế giới có sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại, mà không có sự chuyển hóa về chất, không có sự xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Vì vậy phương pháp siêu hình không thể vạch ra được bản chất thật sự của mọi sự vật, hiện tượng; không vạch ra được nguồn gốc, động lực, quy luật và xu hướng vận động phát triển của chúng. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong trạng thái vận động, chuyển hóa không ngừng; sự vật, hiện tượng nào cũng được xét như một quá trình, trong sự tự vận động, tự phát triển của nó. Thừa nhận sự phát triển, phương pháp biện chứng cho rằng: không chỉ có sự tăng giảm về lượng mà còn có sự phát triển về chất; có sự ra đời của cái mới thông qua phủ định cái cũ; nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng. Nhờ cách xem xét ấy, phương pháp biện chứng, vạch ra được bản chất đích thực của sự vật, hiện tượng; nắm bắt được nguồn gốc và động lực bên trong của mọi sự vận động, phát triển. Vì vậy, Lênin nhận xét rằng chỉ có quan điểm biện chứng về sự phát triển là sâu sắc, sinh động và chỉ có phép biện chứng mới là chìa khóa để nghiên cứu sự phát triển. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò của phép siêu hình. Trong thực tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những lúc đặc biệt lại rất cần đến phép siêu hình. Câu 3: Trình bày những tiền đề ra đời của triết học Mác-Lênin * Tiền đề kinh tế-xã hội 8 Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã trở thành hệ thống kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu và giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập. Mác nhận xét rằng, đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã trở thành một cơ thể hoàn chỉnh, làm bộc lộ đầy đủ các mâu thuẫn trong bản chất của nó. Trước hết là mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội với quan hệ sản xuất có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn xung đột giữa lao động với tư bản, giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó, đã tạo ra một cơ sở hiện thực cho những phân tích và khái quát lý luận trong học thuyết của Mác và Ăngghen. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó kéo theo sự phát triển của phong trào công nhân. Đến cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào công nhân ở các nước Tây Âu đã có bước phát triển mới về số lượng và chất lượng. Sự tập trung tư bản cùng với sự hình thành những trung tâm công nghiệp lớn thu hút công nhân thành lực lượng đông đảo, mâu thuẫn giữa lao động và tư bản trở nên gay gắt làm xuất hiện những cuộc đấu tranh chính trị ngày càng có tổ chức và tự giác. Các cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức), ở Liông và Pari (Pháp), phong trào Hiến chương (Anh) vào những năm 30-40 chứng minh rằng: giai cấp công nhân trở thành lực lượng quyết định các quá trình kinh tế- xã hội-chính trị của thời đại và bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào công nhân thời kỳ này làm bộc lộ sai lầm của quan niệm tư sản về sự hân hoan chung giữa lao động và tư sản, tạo nên những thay đổi căn bản trong quan niệm về lịch sử của Mác và Ăngghen; mặt khác, nó đề ra nhu cầu giải thích về những thực tế của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản về tổ chức, con đường và phương tiện cách mạng của giai cấp vô sản. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng những đòi hỏi này. Những phân tích và khái quát lý luận về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân vào nửa đầu thế kỷ XIX là một bộ phận quan trọng trong 9 học thuyết của Mác và Ăngghen. Vì vậy, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân thời kỳ đó là những điều kiện kinh tế-xã hội cho sự ra đời của triết học. * Tiền đề lý luận - Sự ra đời của triết học Mác trước hết có kế thừa những thành quả của triết học cổ điển Đức. Mác và Ăngghen luôn thừa nhận rằng trong sự phát triển trí tuệ của mình, hai ông đã chịu ơn nhiều nhà triết học Đức, trong đó nổi bật là Hêghen và Phoiơbắc. Công lao to lớn của Hêghen là ở chỗ: Ông đã phê phán những hạn chế cơ bản của phương pháp siêu hình, đã xây dựng phép biện chứng thành hệ thống và xem nó là phương pháp luận đúng đắn của mọi nhận thức khoa học. Nhưng Mác và Ăngghen cũng chỉ ra rằng, triết học Hêghen có những hạn chế lớn, đó là sự giải thích duy tâm về hiện thực; là sự biện hộ cho những thực tế lịch sử lỗi thời, cho tôn giáo; là triết học tự biện, trừu tượng, xa rời hiện thực và thực tiễn. Cho nên khi sáng lập triết học của mình Mác và Ăngghen đã không kế thừa toàn bộ triết học Hê-ghen mà chỉ kế thừa hạt nhân hợp lý, đó là phép biện chứng, đồng thời cải tạo và xây dựng lại phép biện chứng trên lập trường duy vật. Đánh giá về Phoiơbắc, Mác và Ăngghen cho rằng chính nhờ đọc được các tác phẩm của ông mà họ đã cương quyết đoạn tuyệt với triết học Hêghen. Công lao của Phoiơbắc là ở sự phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm-tôn giáo (nhất là phê phán Hê-ghen), là sự khẳng định cương quyết tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật, là việc giải thích trên lập trường duy vật bản chất con người, bản chất tôn giáo và đề cao chủ nghĩa nhân đạo. Nhưng Phoiơbắc cũng có những hạn chế lớn, đó là phương pháp tư duy siêu hình, (khi ph ... tưởng phản ánh một cách sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, nó là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội dựa trên cơ sở khái quát những kinh nghiệm xã hội đã được tích lũy của những giai cấp, tập đoàn xã hội nhất định. Hệ tư tưởng có thể là tư tưởng khoa học, cũng có thể phản khoa học tùy vào việc nó có phản ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất của xã hội hay không. + Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có mối quan hệ tác động lẫn nhau, do có chung một nguồn gốc là tồn tại xã hội và cùng phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng xã hội lại củng cố và phát triển tâm lý xã hội. Nhưng hệ tư tưởng không nảy sinh trực tiếp từ tâm lý xã hội và cũng không là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội. - Ý thức xã hội là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, vì thế, trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó, các giai cấp khác thường chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Ý thức xã hội, ý thức giai cấp, ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng là những khái niệm đồng nhất. Câu 40: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận. Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Kết cấu của tồn tại xã hội gồm ba yếu tố: Điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số và phương thức sản xuất do phương thức sản xuất quyết định. 102 Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử. Giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng trong đó tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định và ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Tính quyết định của tồn tại xã hội thể hiện ở: Tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có sau; tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội thế đó; tồn tại xã hội biến đổi, đặc biệt là sự biến đổi của phương thức sản xuất dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Vì vậy, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng lý luận trong óc người mà phải tìm nó trong hiện thực vật chất. Không thể giải thích một cách đầy đủ sự biến đổi của một thời đại nào nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Tuy vậy, không phải bất cứ ý thức xã hội nào cũng trực tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế của thời đại nó, mà chỉ xét đến cùng thì những quan hệ kinh tế mới được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong những tư tưởng đó. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện những mặt sau: - Ý thức xã hội thường có tính lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thông thường đó là thói quen, tập quán, truyền thống, niềm tin tôn giáo,.. Tính lạc hậu của ý thức xã hội bao giờ cũng cản trở đối sự phát triển của tồn tại xã hội. - Những tư tưởng tiến bộ, khoa học thường vượt trước tồn tại xã hội, nó có vai trò định hướng, hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn. - Sự phát triển của ý thức xã hội luôn có tính kế thừa. Vì thế không thể chỉ dựa vào tồn tại xã hội, vào quan hệ kinh tế của một thời đại để giải thích nội dung ý thức của thời đại đó mà còn phải dựa vào quan hệ kế thừa của ý thức xã hội nữa. - Trong sự phát triển, các hình thái ý thức xã hội luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Chính vậy, có những tính chất, những mặt của ý thức xã hội hoặc của mỗi hình thái ý thức xã hội không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hoặc bằng các quan hệ vật chất. 103 - Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào ý thức xã hội là tiến bộ, khoa học hay lạc hậu, phản tiến bộ, phản khoa học. Tuy vậy, vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại luôn phụ thuộc vào tính chất của các quan hệ kinh tế mà trên đó nảy sinh những tồn tại nhất định, và vai trò lịch sử của giai cấp giương cao ngọn cờ tư tưởng đó, phụ thuộc vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với nhu cầu phát triển xã hội, phụ thuộc vào mức độ thấm nhuần, mở rộng tư tưởng trong quần chúng nhân dân. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này: Nếu chỉ thấy tính quyết định của tồn tại xã hội một cách may móc sẽ rơi vào duy vật tầm thường. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức phải luôn đấu tranh khắc phục cả hai khuynh hướng đó. Trong cải tạo xã hội cũ, xã hội xã hội mới phải tiến hành cả trên hai lĩnh vực tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Câu 41: Khoa học là gì? Vai trò của khoa học đối với sự phát triển xã hội? Khoa học là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống tri thức chân thực về thế giới được kiểm nghiệm qua thực tiễn. - Đối tượng nhận thức của khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hình thức biểu hiện của khoa học là phạm trù, định luật quy luật. Xét về đối tượng nghiên cứu thì tri thức khoa học được chia thành khoa học tự nhiên-kỹ thuật (nghiên cứu các quy luật của tự nhiên và những phương thức chinh phục, cải tạo tự nhiên), khoa học xã hội (nghiên cứu các hiện tượng xã hội, các quy luật vận động và phát triển của xã hội). Các khoa học cụ thể nghiên cứu từng lĩnh vực, từng quy luật của thế giới. Triết học là khoa học nghiên cứu những vận động chung nhất, những quy luật chung nhất của thế giới (dĩ nhiên, mãi đến khi triết học Mác-Lênin ra đời thì triết học mới thực sự là một khoa học). Trong 104 mỗi khoa học lại có cấp độ kinh nghiệm (sự tổng kết các quan sát và thử nghiệm), cấp độ lý luận (khái quát kinh nghiệm thành học thuyết, quy luật, nguyên lý) Xét về vai trò, tác dụng thì tri thức khoa học được chia thành khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng. Khoa học cơ bản vạch ra những quy luật, phương hướng, phương pháp chung cho các khoa học ứng dụng. Khoa học ứng dụng vạch ra những nguyên tắc, quy tắc, phương pháp cụ thể để ứng dụng trực tiếp vào hoạt động cải biến tự nhiên và xã hội. Sự phân chia này chỉ là tương đối. Trong sự phát triển hiện nay của nhận thức khoa học, có những bộ môn khoa học có sự tương đồng lẫn nhau về đối tượng nghiên cứu (ví dụ: lý - sinh, sinh – hóa,..), vì thế các khoa học cũng làm phong phú lẫn nhau và xuất hiện các khoa học liên ngành. - Vai trò của khoa học đối với sự phát triển xã hội có thể chia thành ba giai đoạn: + Giai đoạn từ thời cổ đại đến thế kỷ XV, khoa học còn rất sơ khai, bó hẹp trong một số lĩnh vực nhất định như thiên văn, toán học, cơ học Nhằm đáp ứng các nhu cầu về tưới nước, hàng hải, xây dựng lâu đài, lăng tẩm. Tri thức khoa học ảnh hưởng đến sản xuất rất ít, thậm chí ở phương Tây thời Trung cổ, khoa học lệ thuộc vào thần học. + Giai đoạn thứ hai thừ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, khoa học trở thành một tiền đề của công nghiệp hóa, là nội dung tinh thần của lực lượng sản xuất, mà trước hết là tạo ra cơ sở lý luận để chế tạo những công cụ máy móc ngày càng hoàn thiện cho phép tiêu hao lao động sống ít mà đạt kết quả to lớn trong sản xuất vật chất. Khoa học xã hội đã đề cao chủ nghĩa nhân văn với tinh thần dân chủ sâu sắc, dần dần thoát khỏi các thuyết thần học. + Giai đoạn thứ ba trong thế kỷ XX: khoa học và kỹ thuật có sự kết hợp nhau thành một thể thống nhất. Khoa học đã phát hiện ra những đặc tính mới, quy luật mới của tự nhiên và sự sống, tạo ra và sử dụng những nguyên liệu mới có tác dụng nhiều mặt, tạo ra những dạng năng lượng mới cực mạnh, mở ra nhiều triển vọng to lớn để hiểu biết và phát hiện những tài nguyên mới trong vũ trụ và quả đất, 105 tạo ra và ứng dụng kỹ thuật mới trong điều trị bệnh, lai tạo giống loài, điều chỉnh quá trình sống của động vật Khoa học đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp làm cho cuộc sống và lao động của con người trở nên đỡ vất vả, tăng thêm quyền lực, trí tuệ của con người đối với tự nhiên, góp phần hoàn thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiện nhân cách của con người, giúp con người phát triển hài hòa tự do, hạnh phúc. Khoa học đã mở rộng chân trời cho sự sống, sự sáng tạo những của cải vật chất và tinh thần dồi dào. Song dù sao thì khoa học cũng chỉ là phương tiện chứ không là mục đích, nó không là giá trị cao nhất của văn minh loài người. Câu 42: Văn hóa là gì? Phân tích bản chất, chức năng và đặc điểm của sự phát triển văn hóa. 1. Văn hóa là gì? - Văn hóa theo nghĩa rộng là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ của loài người và sự truyền thụ giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. - Xét trên quan điểm giá trị: văn hóa là trình độ phát triển của các quan hệ nhân tính của một xã hội, của mỗi con người, nó được cộng đồng khẳng định và giữ gìn như những hệ giá trị đặc trưng cho bản sắc của dân tộc, quốc gia trong hệ chuẩn cơ bản: là CHÂN - THIỆN - MỸ. - Phân biệt khái niệm văn hóa và văn minh Văn hóa hiểu một cách tổng quát là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần của loài người, nhưng trong các thời kỳ phát triển khác nhau của văn hóa thì sự sáng tạo của họ cũng có sự khác nhau. Trong các thời kỳ đó đều có những đặc trưng riêng và để chỉ từng thời kỳ đặc trưng văn hóa đó người ta dùng khái niệm văn minh. Ví dụ như: văn minh đồ đá, văn minh đồ đồng, văn minh đồ sắt, văn minh phương Đông, văn minh phương Tây Vậy văn minh là một khái niệm dùng để chỉ một thời kỳ đặc trưng hay một vùng đặc trưng để so sánh với các thời kỳ 106 khác nhau, các vùng khác nhau trong sự phát triển xã hội. Nó chính là thước đo trình độ phát triển của văn hóa trong mỗi vùng hay mỗi thời kỳ nhất định. 2. Bản chất và chức năng của văn hóa: Với khái niệm trên văn hóa được chia thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. - Văn hóa vật chất: là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được thể hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra, kể từ các tư liệu sản xuất cho đến các tư liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sự phát triển xã hội thì sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, đó chính là sự phản ánh các giai đoạn phát triển khác nhau của văn hóa. - Văn hóa tinh thần: là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần bao gồm khoa học và mức độ áp dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh hoạt, trình độ học vấn, tình trạng giáo dục, y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức trong hành vi của các thành viên xã hội, trình độ phát triển nhu cầu của con người. Văn hóa tinh thần còn bao gồm cả những phong tục, tập quán, những phương thức giao tiếp và ngôn ngữ. - Ranh giới giữa văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ có tính tương đối. - Văn hóa có tính khách quan. Tuy xuất hiện với tính cách là sản phẩm của con người nhưng theo dòng lịch sử, những thành tựu ấy tựa hồ như siêu thời gian tạo ra truyền thống và không phụ thuộc vào cá nhân riêng lẻ mà với tư cách là một thực thể được phát triển về mặt xã hội. - Văn hóa là một biểu hiện xã hội không chỉ bao quát quá khứ, hiện tại mà còn trải qua trong tương lai. Văn hóa quá khứ trong những tấm gương tốt đẹp cùng tham dự và sống lại với hiện tại và con người sống và sáng tạo hôm nay lại truyền thụ tư tưởng của mình, kết quả lao động của mình cho những thế hệ thay thế mình theo dòng lịch sử. 107 - Văn hóa là thuộc tính bản chất, tộc loại của con người với các chức năng, giáo dục, nhận thức, định hướng, đánh giá, xác định, chuẩn mực của hành vi, điều chỉnh các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song cốt lõi trong các chức năng của các giá trị văn hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các giá trị (giá trị vật chất và giá trị tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Ngày nay nền văn hóa nhân loại với tất cả tầm vóc của nó gợi cho con người điều tự hào cao cả và tinh thần trách nhiệm, bên cạnh đó con người không thể không lo lắng và thậm chí cả sợ hãi trước vô số những vấn đề của thế giới hiện đại. 3. Đặc điểm của sự phát triển văn hóa. - Lịch sử phát triển của các yếu tố văn hóa không đồng đều. Trong cùng một giai đoạn có thể mặt này phát triển mặt kia lạc hậu. Có mặt phát triển nhanh hơn hay chậm hơn so với kinh tế. Song xét trong toàn bộ quá trình lịch sử thì văn hóa ngày càng phát triển và sự phát triển của văn hóa là do kinh tế, do phương thức sản xuất quy định. - Văn hóa tinh thần của một hình thái kinh tế-xã hội xuất hiện và phát triển trên cơ sở vật chất cụ thể và phản ánh trình độ phát triển nhất định của tồn tại vật chất. Song do các yếu tố khác nhau của văn hóa tinh thần gắn liền với cơ sở vật chất cũng không giống nhau. Một số gắn trực tiếp với cơ sở vật chất như là khoa học tự nhiên, kỹ thuật Có một số lại gắn một cách gián tiếp như triết học, nghệ thuật, đạo đức, thẫm mỹ - Sự phát triển của văn hóa mang tính kế thừa. Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của văn hóa cũng đều có sự kế thừa văn hóa xã hội đã đạt được trong các giai đoạn trước. Các giai cấp tiên tiến bao giờ cũng biết nắm lấy những thành tựu văn hóa đã đạt được của quá khứ, trên cơ sở đó tiếp thu chọn lọc cải tạo một cách có phê phán bổ sung làm cho nó ngày càng phát triển. Tính liên tục trong quá trình phát triển của văn hóa là một đặc điểm quan trọng mà ngay cả lúc chuyển biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội khác cũng không thể bị phá vỡ. 108 - Sự phát triển của văn hóa còn có đặc điểm là giữa các yếu tố cấu thành của văn hóa có mối quan hệ tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau đó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể diễn ra trong một thời gian tương đối ngắn cũng có thể diễn ra trong một thời gian tương đối dài. Sự kế thừa và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành của văn hóa diễn ra trong quá trình phát triển của nó so với chế độ kinh tế, phương thức sản xuất. - Hiện nay Đảng và nhân dân ta đang xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bản sắc đó được thể hiện trong hệ giá trị tình thần của cộng đồng dân tộc Việt Nam. “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý chí cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ chức; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong đời sống” (Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII). Đó là nền tảng tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng và nhân ái. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa mới được hình thành, chưa có sự phát triển đầy đủ, chưa có một thế phòng ngự vững chắc để chống lại các văn hóa độc hại và đồi trụy. Trước tình hình đó: “Việc tạo ra môi trường văn hóa của chủ nghĩa xã hội, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn là trách nhiệm to lớn của toàn Đảng và của toàn dân ta”
File đính kèm:
- huong_dan_on_tap_triet_hoc_mac_lenin.pdf