Kết cấu nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô của Yasunari Kawabata

Tóm tắt. Lựa chọn và phối hợp một cách linh hoạt thủ pháp mờ hóa, quan hệ bổ sung, quan

hệ đối chiếu, tương phản, bút pháp kì ảo, bút pháp hiện thực. . . để xây dựng kiểu nhân vật:

Người nam - người lữ khách lang thang đi tìm cái đẹp và người phụ nữ – hiện thân của cái

đẹp trong bộ ba tiểu thuyết được giải thưởng Nobel văn học, Y.Kawabata đã thể hiện được

quan niệm về con người, cuộc đời, quan niệm thẩm mĩ rất riêng của Nhật Bản, rất riêng

của Y.Kawabata.

pdf 6 trang yennguyen 6000
Bạn đang xem tài liệu "Kết cấu nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô của Yasunari Kawabata", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết cấu nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô của Yasunari Kawabata

Kết cấu nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô của Yasunari Kawabata
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0012
Social Sci., 2017, Vol. 62, No. 2, pp. 88-93
This paper is available online at 
KẾT CẤU NHÂN VẬT TRONG BỘ BA TIỂU THUYẾT XỨ TUYẾT,
NGÀN CÁNH HẠC, CỐ ĐÔ CỦA YASUNARI KAWABATA
Nguyễn Thị Huân
Khoa Sư phạm Mầm non, Đại học Hạ Long
Tóm tắt. Lựa chọn và phối hợp một cách linh hoạt thủ pháp mờ hóa, quan hệ bổ sung, quan
hệ đối chiếu, tương phản, bút pháp kì ảo, bút pháp hiện thực. . . để xây dựng kiểu nhân vật:
Người nam - người lữ khách lang thang đi tìm cái đẹp và người phụ nữ – hiện thân của cái
đẹp trong bộ ba tiểu thuyết được giải thưởng Nobel văn học, Y.Kawabata đã thể hiện được
quan niệm về con người, cuộc đời, quan niệm thẩm mĩ rất riêng của Nhật Bản, rất riêng
của Y.Kawabata.
Từ khóa: Kết cấu, nhân vật, quan hệ, bổ sung, đối chiếu, tương phản.
1. Mở đầu
Nói đến kết cấu nhân vật không chỉ là nói đến các thủ pháp xây dựng nhân vật mà còn là
nói đến tổ chức các quan hệ nhân vật cụ thể của tác phẩm như quan hệ đối lập, đối chiếu, tương
phản, bổ sung. Vì thế khi tìm hiểu kết cấu nhân vật trong tác phẩm văn học như trường hợp “Kết
cấu nhân vật trong bộ ba Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô của Y.Kawabata” một mặt cần tìm hiểu
về các thủ pháp xây dựng nên hai kiểu nhân vật chính: nhân vật nam – người lữ khách lang thang
đi tìm cái đẹp và nhân vật nữ – hiện thân của cái đẹp, một mặt cần chú ý tìm hiểu hai kiểu nhân
vật này trong “các mối quan hệ” với tất cả chiều sâu, chiều rộng của nội dung tác phẩm. Tuy nhiên
cho đến nay việc nghiên cứu về kết cấu nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết nói trên của Kawabata
mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu một vài thủ pháp, kĩ thuật mà chưa có công trình chính thức nào
nghiên cứu về “tổ chức các quan hệ nhân vật cụ thể”, chẳng hạn như các công trình: Thi pháp tiểu
thuyết của Yasuanari Kawabata, nhà văn lớn Nhật Bản của Lưu Đức Trung [8]; Thi pháp truyện
ngắn trong lòng bàn tay của Yasunari Kawabata của Hoàng Long [5]; Những cây bút kiệt xuất
trong văn học Nhật Bản hiện đại của Nguyễn Tuấn Khanh [6]; Yasunari Kawabnata – “Lữ khách
muôn đời đi tìm cái đẹp” của Nguyễn Thị Mai Liên [7]; Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata
của Đào Thị Thu Hằng [4]; Cái nhìn chủ thể, cái nhìn khách thể. Tái định dạng cái nhìn trong tiểu
thuyết Kawabata Yasunari thời kì 1939 -1962 (Gazing subjects, gazing objects. Reconfiduring the
gaze in Kawabata Yasunari novels 1939-1962) của Gloria R. montebruno [1]... Vì thế, bài báo tập
trung tìm hiểu cách thức tổ chức, xây dựng hệ thống nhân vật trong bộ ba Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc,
Cố đô trên cả hai phương diện: thủ pháp xây dựng nhân vật và “các mối quan hệ” như quan hệ bổ
sung, quan hệ đối chiếu, tương phản.
Ngày nhận bài: 15/9/2016. Ngày nhận đăng: 20/3/2017
Liên hệ: Nguyễn Thị Huân, e-mail: huannguyenthi.c17@moet.edu.vn
88
Kết cấu nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô của Yasunari Kawabata
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thủ pháp mờ hóa và quan hệ đối chiếu, tương phản trong việc xây dựng
kiểu nhân vật nam - người lữ khách lang thang đi tìm cái đẹp
Người lữ khách trong sáng tác của Kawabata thường là những nam nhân. Họ “ra đi” vừa để
kiếm tìm, phát hiện vẻ đẹp con người, thiên nhiên, những giá trị văn hóa dân tộc, vừa để tìm lại
bản thân và ý nghĩa cuộc sống đích thực cho mình. Nên khi xây dựng kiểu nhân vật này, Kawabata
chủ yếu sử dụng thủ pháp mờ hóa để miêu tả ngoại diện, lai lịch. Vì thế Shimamura (Xứ tuyết),
Kikuji (Ngàn cánh hạc), Takichiro (Cố đô) là ai, làm gì, cha mẹ và cuộc sống gia đình ra sao,
không ai biết, chỉ biết họ là các nhân vật nam chính sinh ra, lớn lên trong những gia đình khá giả
ở những thành phố lớn. Lai lịch mờ nhạt, ngoại hình nhân vật cũng khó hình dung nắm bắt, do tác
giả không sử dụng chi tiết miêu tả ngoai diện. Nếu có nhân vật nam nhân nào được miêu tả ngoại
diện thì cũng chỉ dừng ở đôi nét đơn sơ để phác thảo ra dánh dấp chung cho những lữ khách xuất
thân từ thành phố, sở hữu vẻ đẹp phong lưu hấp dẫn giới nữ chứ không phải để nhận diện, khu biệt
nhân vật này với nhân vật khác, điển hình như trường hợp Shimamura trong Xứ tuyết.
Xây dựng kiểu nhân vật này, Kawabata cũng không chú ý làm nổi bật phẩm chất theo quan
điểm đạo đức, cũng không chú ý xây dựng con người tính cách trong tổng hòa các mối quan hệ
xã hội mà chú ý sử dụng quan hệ đối chiếu, tương phản để tạo nên những con người cá nhân vừa
đời thường trần tục với xung động dục tính vừa thanh cao, trong sáng với khát vọng khám phá,
giữ gìn, nâng niu cái đẹp theo quan niệm duy mĩ, duy tình riêng của Nhật Bản. Về con người đời
thường với ham muốn bản năng, Kawabata đã chú ý tô đậm thông qua những chi tiết điển hình cho
tính dục trong “sự tiết chế mạnh mẽ” để nhằm mục đích “tôn vinh vẻ đẹp của con người” [4;152].
Nên chỉ với những thiếu nữ đẹp sạch sẽ, tươi mát như Komako mới khơi dậy ham muốn nhục thể ở
Shimamura; chỉ Ota – người đàn bà mang vẻ đẹp “người tình – mẫu thân” mới mang lại cho Kikuji
cảm giác êm đềm mãn nguyện sau giây phút ái ân và chỉ bé gái kháu khỉnh trên tòa tàu tưởng
niệm– biểu tượng cho vẻ đẹp tinh khiết, trong sáng – mới làm cho ông già Takichiro mê thích.
Khi những ham muốn bản năng, những xung động dục tính trở nên mạnh mẽ, những lữ
khách như Shimamura, Kikuji đã sử dụng đôi bàn tay để ôm, lần, kéo, áp (tay), đặt tay, nắm (chặt
tay), xiết chặt, ghì chặt... người đàn bà của mình; hoặc dùng vị giác bằng cách lè lưỡi ra để cho
người thiếu nữ thận trọng chạm vào cặp môi ấm nóng, mềm mại của mình rồi hít riết lấy như
Takichiro. Ba lữ khách là ba cuộc đời, có số phận, tâm tính, tuổi tác khác nhau nhưng khi đặt
họ bên cạnh nhau: Kikuji, nhiệt tình kiếm tìm, phát hiện người đàn ông đích thực trong mình;
Shimamura trầm tĩnh thể hiện sự sung mãn của xung động dục tính, còn Takichiro lại khát khao
tìm lại nguồn sức lực trẻ trung đã mất. Người đọc thấy hiển hiện ra một mẫu nam nhi rất riêng của
Nhật Bản. Mẫu nam nhi này không có tham vọng “trị quốc, bình thiên hạ”, không lấy công danh,
học vấn làm lẽ sống mà lấy sự thỏa mãn trong mĩ cảm, sắc dục làm một trong những niềm vui lớn
của cuộc đời. Mẫu nam nhi này ta đã bắt gặp ở hình tượng Genji từ thế kỉ X “một nhân vật được
xây dựng thành công hơn cả của tiểu thuyết Nhật Bản. Mọi hành động của chàng, vừa quyến rũ mà
đầy chất người, một tính chất thuộc về tâm hồn, trái tim (kokoro) mà vẫn không xa rời nhục thể”
[2;124]. Nên Genji của Murasaki cũng như Shimamura, Kikuji, Takichiro của Kawabata không
hiện lên như những Đông Gioăng của Molie (Pháp) hay Sở Khanh của Nguyễn Du (Việt Nam) mà
là những người tình hào hoa và trân trọng tình yêu, trân trọng người phụ nữ - hiện thân của vẻ đẹp
thiên tính nữ vĩnh cửu. Vì thế khi bàn đến người lữ khách trong sáng tác của Kawabata nói chung,
Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô nói riêng, có người đã cho rằng dù rất yêu cái đẹp, yêu các lễ hội,
yêu văn hóa truyền thống dân tộc, có trách nhiệm với gia đình “nhưng cuộc sống của họ bao giờ
cũng gắn liền với yếu tố sắc dục dù là thể xác hay tinh thần” [4;96]. Đây một trong những yếu tố
89
Nguyễn Thị Huân
làm nét độc đáo của văn hóa xứ sở Phù Tang.
Đối chiếu, tương phản mà vẫn thống nhất với con người của xung động dục tính là con
người thanh cao, trong sáng với khát vọng giữ gìn, nâng niu cái đẹp lại được Kawabata tô đậm
bằng thủ pháp dòng ý thức và nghệ thuật độc thoại nội tâm. Nhờ vậy, người lữ khách trở thành
những con người hướng nội, con người tâm lí. Họ sống sâu sắc, giàu tình cảm, luôn khát khao
kiếm tìm thứ nghệ thuật đích thực của cuộc đời dù xuất thân, dù cuộc sống của họ không có nhiều
duyên nợ, không gắn bó sâu sắc với nghệ thuật như trường hợp Takichiro (Cố đô) và Shimamura
(Xứ tuyết). Takichiro sinh ra, lớn lên trong gia đình kinh doanh buôn bán vải may kimono nhưng
niềm đam mê của ông lại là thiết kế trang phục, vẽ mẫu thắt lưng. Niềm đam mê ấy gặp thời buổi
kinh tế thị trường đã mang thêm nỗi ngậm ngùi tiếc nuối, rồi chuyển hóa thành mong muốn tìm lại
nguồn cảm hứng sáng tạo. Mong muốn này thôi thúc Takichiro vào chùa ở ẩn để thiết kế mẫu thắt
lưng nhưng nguồn cảm ấy mới chỉ khơi dậy ở Takichiro khả năng sáng tạo mà chưa khơi dậy được
sự nồng ấm của tâm hồn nên ông chỉ vẽ được mẫu thắt lưng đẹp lộng lẫy, tân kì nhưng thiếu hài
hòa, thiếu hơi ấm của tâm hồn, phảng phất nỗi bất ổn cùng một vẻ gì đó bệnh hoạn. . . Shimamura
sinh ra, lớn lên ở khu buôn bán lớn của Tokyo nhưng lại yêu thích, say mê nghệ thuật (kịch Kabuki,
vũ đạo, kịch câm, biên đạo múa phương Tây, phê bình văn học...). Say mê và liên tục thay đổi sở
thích nghệ thuật không phải vì chàng bồng bột mà vì chàng luôn ước mơ về một thứ nghệ thuật
hoàn hảo, lí tưởng, cao quý và thuần khiết, thứ nghệ thuật có khả năng nâng đỡ, thanh lọc, làm giàu
tâm hồn con người. Đây là ước mơ chính đáng, thể hiện được sự sâu sắc trong suy nghĩ, nghiêm
túc trong nghề nghiệp nhưng có phần hoang tưởng trong xã hội đã phần nào bị ô nhiễm bởi đồng
tiền, đảo điên vì lợi lộc. Không tìm thấy thứ nghệ thuật đích thực trên sân khấu, trong sách vở, nơi
phồn hoa đô thị, Shimamura đi tìm nó trong cuộc đời, ở vùng đất phương Bắc xa xôi, hoang sơ,
trinh bạch... Và trên hành trình kiếm tìm ấy, Shimamura cũng như Takichiro và Kikuji đã bộc lộ vẻ
đẹp thanh cao, trong sáng của tâm hồn thông qua sự phát hiện và nâng niu vẻ đẹp của thiên nhiên
và con người trong cuộc sống. Đó là vẻ đẹp thanh xuân, tươi trẻ, tinh khiết, thánh thiện – vẻ đẹp
không chỉ để chiêm ngắm mà còn khơi gợi nhu cầu chiếm lĩnh hưởng thụ. Như vậy có thể nói, với
việc sử dụng thủ pháp mờ hóa, quan hệ tương phản, đối lập Kawabata đã tạo nên một kiểu nhân
vật duy mĩ, duy tình độc đáo của văn hóa Nhật Bản trong các sáng tác của mình. Đó là người lữ
khách lang thang đi tìm cái đẹp có sự hài hòa thống nhất giữa con người trần tục với những xung
động dục tính và con người thanh cao, trong sáng, có khát vọng về một thứ nghệ thuật đích thực
được làm nên từ cái đẹp của cuộc đời. Cái đẹp ấy hội tụ rõ nhất ở người phụ nữ.
2.2. Quan hệ bổ sung, đối chiếu, tương phản trong việc xây dựng kiểu nhân vật
người phụ nữ – hiện thân của cái đẹp
Với quan niệm cái đẹp chỉ hoàn hảo khi gắn với nỗi buồn và người phụ nữ là hiện thân của
cái đẹp nên người phụ nữ trong Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô của Kawabata thường đẹp và buồn.
Họ chủ yếu là các cô gái trẻ, sinh ra lớn lên trong những gia đình thiếu vắng, mất mát người thân
và có quê quán, tiểu sử không rõ ràng. Vì thế, ấn tượng về họ chỉ là cảm giác mơ hồ, huyền bí trong
nỗi cô đơn, lẻ loi. Đặc biệt so với các nam nhân lữ khách, người phụ nữ có xuất thân đa dạng với
đủ mọi hoàn cảnh: giàu – nghèo, thành thị và nông thôn, trên núi rừng và trong thành phố. Song
dù làm gì, ở đâu, người phụ nữ nữ cũng đều hiện ra trong sự hài hòa giữa vẻ đẹp văn hóa và vẻ đẹp
nữ tính.
Thứ nhất về vẻ đẹp văn hóa người phụ nữ. Đây là vẻ đẹp gắn với ý thức giữ gìn các giá trị
văn hóa truyền thống như trà đạo, kimono; giữ gìn phong tục tập quán, tín ngưỡng, văn học dân
tộc theo chuẩn mực, quan niệm của xã hội, đã được Kawabata thể hiện qua “mối quan hệ bổ sung”.
“Quan hệ bổ sung” - “quan hệ của các nhân vật cùng loại, nhằm mở rộng phạm vi của một loại
90
Kết cấu nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô của Yasunari Kawabata
hiện tượng” [9;99] nhưng không phải “quan hệ bổ sung phụ thuộc” mà là “quan hệ bổ sung đồng
đẳng”. Bởi các nhân vật phụ nữ – hiện thân của vẻ đẹp văn hóa trong bộ ba tiểu thuyết nói trên “bổ
sung cho nhau nhưng không phụ thuộc vào nhau, mà cùng thể hiện cuộc sống của một tầng lớp
người” [9;99]. Nên trong Xứ tuyết, bên cạnh geisha Komako xinh đẹp, quyến rũ, tài năng, say sưa
tìm hiểu văn học, kịch Kabuki, luôn có ý thức giữ mình, giữ nghề, sống và hành động theo tiếng
gọi của con tim là geisha Kikyuu giỏi giang, có bản lĩnh “vứt bỏ hết” nhà cửa, tấm tình của Mạnh
Thường Quân nọ để “muốn cưới” người đàn ông mình yêu; là thiếu nữ Yoko yêu thích các bài hát
đồng dao, dân ca. Như vậy, Kikyuu và Yoko dù chỉ là nhân vật phụ nhưng đã cùng với Komako tô
đậm vẻ đẹp sắc – tài - tâm - tình của cả một bộ phận phụ nữ làm nghề geisha, tô đậm tình yêu, ý
thức giữ gìn các giá trị văn học nghệ thuật truyền thống của thế hệ trẻ. Còn trong Ngàn cánh hạc,
bên cạnh Yukiko - một tia sáng, một làn hương trong trẻo, tinh khôi, tinh khiết trong thế giới xô
bồ, ô nhiễm, là cõi “vô trùng” cho hồn trà trú ngụ – là Fumiko, hiện thân một đồ vật thưởng trà có
vẻ đẹp mong manh còn vương lại trong thế giới dung tục này. Hai nhân vật đã bổ sung cho nhau để
làm nên vẻ đẹp hài hòa giữa “những cô gái trẻ, đồ gốm cổ và những giá trị văn hóa truyền thống”
[3;96].
Thứ hai về vẻ đẹp nữ tính. Nữ tính - tính nữ bắt nguồn và là cốt tủy của nguyên lý Mẫu
mang tính nhân loại. Tuy nhiên do tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố mang tính dân tộc nên
cùng với vẻ đẹp tính nữ mang tính nhân loại, người phụ nữ Nhật Bản nói chung, người phụ nữ
trong Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô nói riêng còn sở hữu vẻ đẹp độc đáo rất riêng mang tính dân
tộc.
Vẻ đẹp tính nữ mang tính nhân loại là khát khao được làm mẹ, làm vợ, được yêu thương và
được hi sinh mang tính bản năng của giới nữ. Xét riêng ở từng nhân vật, vẻ đẹp này thường được
Kawabata làm nổi bật qua những hành động chăm chút ân cần người khác hoặc qua mong ước của
họ về một mái ấm gia đình. Xét trong cả hệ thống, vẻ đẹp các nhân vật phụ nữ được Kawabata xem
xét trong mối quan hệ bổ sung cho nhau, “phản ánh nhau, tác động vào nhau, soi sáng nhau, để
cùng phản ánh đời sống” [9;99]. Nên trong Xứ tuyết, bên cạnh một Yoko mang vẻ đẹp người chị,
người vợ, người mẹ (khi luôn lấy việc quan tâm, chăm sóc người khác là niềm vui, làm nguồn nuôi
dưỡng sự sống cho mình) là một Komako sẵn sàng hi sinh bản thân để làm geisha chuyên nghiệp
lấy tiền chữa bệnh cho con trai bà giáo dạy nhạc, luôn mong muốn có một người chồng, một đứa
con. Trong Ngàn cánh hạc, Cố đô bên cạnh bà mẹ Ota, Xighe luôn yêu con, chăm lo từng chút cho
con là những thiếu nữ như Yukiko, Fumiko, Chieko, Naeko có khát khao thầm kín về một mái ấm
gia đình. Như vậy với việc sử dụng quan hệ bổ sung đồng đẳng, Kawabata đã làm nổi bật vẻ đẹp
thiên tính nữ của người phụ nữ với thông điệp: dù là ai, dù được sinh thành, nuôi dưỡng trong điều
kiện hoàn cảnh nào nhưng đã là phụ nữ thì từ trong sâu thẳm tâm hồn, từ bản năng và thiên chức
của giới tính, họ đều khát khao một mái ấm gia đình để được làm vợ, làm mẹ; để được yêu thương,
được hi sinh; để đem lại hạnh phúc cho mọi người.
Trong khi vẻ đẹp nữ tính mang tính nhân loại được chú ý xây dựng từ quan hệ bổ sung đồng
đẳng thì vẻ đẹp nữ tính đậm đà tính dân tộc lại được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ đối chiếu,
tương phản: nước (tuyết) và lửa, nồng nàn và lạnh lùng. . . Từ góc độ văn hóa, nước và lửa là những
cổ mẫu, song nếu nước ứng với phương Bắc, gắn với sự mềm mại, dịu dàng, là biểu tượng cho khả
năng sinh sôi nảy nở, sự tinh khiết, tính hiền minh, khoan dung và đức hạnh thì lửa lại ứng với
phương Nam, màu đỏ, mùa hè và trái tim, là biểu tượng cho sự tẩy uế và tái sinh, tượng trưng cho
nhiệt huyết và tinh thần. Kết hợp đặc trưng, ý nghĩa biểu tượng của mẫu gốc: nước – lửa, Kawabata
đã xây dựng được hệ thống nhân vật mà ở đó từng cặp nhân vật nữ Komako – Yoko, Yukiko –
Fumiko, Chieko – Naeko, và ngay trong bản thân từng nhân vật nữ vừa có vẻ đẹp mềm mại, tươi
mát như nước, tinh khôi, thanh sạch như tuyết vừa nồng ấm, nồng nàn như lửa giữa bên ngoài -
91
Nguyễn Thị Huân
ngoại diện và bên trong - tâm hồn. Khuôn mặt Yoko lúc nào cũng lạnh lùng xa cách, nhưng đôi
mắt lại lấp lóa lửa, tâm hồn luôn nồng ấm tình phu thê, tình mẫu tử khi chăm chút người đàn ông
bị ốm và dỗ dành trẻ con. Komako luôn sạch sẽ, tươi mát ở tấm thân, lạnh buốt ở mái tóc song lúc
nào cũng ấm áp, nóng bỏng, rừng rực, đỏ rực, đỏ bừng, rực lên, ửng hồng ở đôi má, thân thể và ở
tình yêu nồng cháy dành cho Shimamura (Xứ tuyết). Không trực tiếp miêu tả như Yoko, Komako
nhưng căn cứ vào đặc trưng của nước và lửa, chúng ta vẫn cảm nhận được vẻ đẹp hài hòa, thống
nhất giữa hai mặt đối lập này ở Yukiko, Fumiko (Ngàn cánh hạc), Chieko và Naeko (Cố đô) bởi
sự tươi trẻ ở tuổi tác, tươi mát ở thân thể, dịu dàng, giản dị, nghiêm nghị ở động tác, tư thế, phong
thái và sự nồng nàn của thứ hương thơm con gái, hơi ấm tuổi thanh xuân. Thứ hương thơm, hơi ấm
này có thể xua đi giá lạnh, hong khô được sự ướt át và làm rực cháy con tim người lữ khách. Có
thể nói,với cách thức miêu tả này, Kawabata không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo người phụ nữ
được sinh thành, tạo tác, kết tụ từ sóng biển, tuyết trắng, mặt trời và núi lửa mà còn cho thấy người
phụ nữ là ngọn nguồn của sự sống, là hiện thân của đức hạnh nên có thể tái sinh, tẩy uế những tâm
hồn đã úa tàn, ô nhiễm.
Mặc dù cùng được xây dựng từ nguyên lí thống nhất của những mặt đối lập là nước và lửa,
nóng và lạnh, các nhân vật nữ vẫn mỗi người một vẻ trong một bó hoa đa hương sắc. Trước hết,
đối với kiểu nhân vật nữ mang vẻ đẹp thánh thiện, thoát tục, siêu nhiên mà tiêu biểu là Yoko (Xứ
tuyết), Yukiko (Ngàn cánh hạc) và Chieko (Cố đô), Kawabata chủ đạo sử dụng bút pháp huyền
thoại hóa mà ở đó có cái kì (kì lạ, khác thường) của Trung Quốc, có cái yugen (mơ hồ, bỏ lửng,
bí ẩn) của Nhật Bản để tạo nên gia thế nhân vật mơ hồ, huyền ảo: Yoko là dân xứ tuyết nhưng lại
sống trong nhà bà giáo dạy nhạc để chăm sóc người ốm, người ốm ấy là người nàng yêu nhưng
lại là chồng chưa cưới của Komako. Yukiko là con nhà Inamura, một thương gia buôn bán tơ lụa
(nào đó, ở đâu đó) không ai biết, và sau đó nghe đâu (theo lời Chikako) nàng đi lấy chồng (Ngàn
cánh hạc). Chieko - đứa trẻ bị bỏ rơi, nhưng bị bỏ rơi ở đâu, không biết, nhưng với ông Takichiro
thì nàng nhất định được sinh ra dưới rặng anh đào nở hoa ở Ghion. . . “Giống như Hào quang Thất
nữ Kaguyahime của “Truyện lão ông Taketori” mà người đời phát hiện thấy trong gióng trúc” [5;
639]. Cùng với cái “kì” gia thế, xuất thân, các nhân vật còn “kì” ở khả năng bản thân, điển hình
như Yukiko (Ngàn cánh hạc) và Chieko (Cố đô) khi con người họ luôn tỏa ra thứ hương thơm
nồng nàn, quyến rũ. Đặc biệt, là “kì” ở ngoại diện với nghĩa đẹp khác người – một kiểu ngoại diện
thể hiện tố chất, phẩm chất đẹp và buồn của một thứ người tinh khôi, tinh khiết nhất không thể có
ở cõi trần thô tục. Đó là vẻ đẹp một nhân vật nào đó xa xưa, một con người lí tưởng của thế giới
huyền thoại; vẻ đẹp của Tiểu thư ánh trăng, của Đức mẹ Đồng Trinh, của Quan thế âm Bồ Tát -
vẻ đẹp không chỉ làm nên sự say đắm mà còn có khả năng cứu rỗi tâm hồn người lữ khách, vẻ đẹp
mà người lữ khách chỉ có thể gặp được ở trong mơ, trong ước vọng về một tình yêu thánh thiện.
Còn đối với kiểu nhân vật nữ đẹp trần tục, gợi cảm mà tiêu biểu là Komako (Xứ tuyết), Ota,
Fumiko (Ngàn cánh hạc) Naeko (Cố đô), Kawabata lại chú ý sử dụng bút pháp tả thực với việc
miêu tả chi tiết đường nét ngoại hình theo nguyên tắc “ngoại diện chịu sự chi phối của điều kiện,
môi trường sống” cùng những liên tưởng, ví von độc đáo. Vì thế, Kawabata không chỉ làm nổi bật
được cảnh sống đơn côi, cơ hàn của họ trong những căn nhà thanh đạm, đơn sơ, thậm chí tồi tàn,
tăm tối - biểu tượng cho cuộc sống vật chất thiếu thốn, nghèo khổ, biểu tượng cho một thứ nhà
ngục tinh thần giam giữ tuổi xuân, triệt tiêu niềm vui, niềm hạnh phúc mà còn làm nổi bật vẻ đẹp
đa hương sắc vượt lên lên hoàn cảnh sống, vẻ đẹp chịu sự chi phối của môi trường sống. Kawabata
không chỉ mô tả được thế giới tâm hồn phong phú phức tạp của nhân vật nữ trần thế với đủ mọi
ái ối hỉ nộ, đặc biệt là nỗi góa bụa đơn côi trong sự nồng nàn say đắm mà còn khắc họa thần tình,
sống động chân dung, diện mạo tinh thần riêng cho từng nhân vật: Komako nồng cháy mãnh liệt
trong một tình yêu vô vọng. Ota đam mê lạc lối trong thứ tình yêu ngang trái đớn đau. Naeko buồn
92
Kết cấu nhân vật trong bộ ba tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô của Yasunari Kawabata
rầu, âu lo, ghen tị cho tương lai đầy bất định. . .
3. Kết luận
Nói tóm lại, việc tổ chức, sáng tạo hai kiểu nhân vật cơ bản nói trên bằng thủ pháp mờ hóa,
quan hệ bổ sung, tương phản đối lập, bút pháp huyền thoại hóa, bút pháp hiện thực,... Kawabata
không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp văn hóa độc đáo xứ sở Phù Tang với quan niệm về sắc dục, tinh thần
tôn thờ cái đẹp tự nhiên, đặc trưng duy mĩ duy tình. . . mà còn khắc họa thần tình “bức tranh xã
hội với tư duy khoáng đạt, với một niềm cảm thông nhuốm màu sắc bi quan trong buổi giao thời
giữa cái cũ và cái mới” [5;959], từ đó “đóng góp vào việc bắc một nhịp cầu tinh thần giữa phương
Đông và phương Tây” [5;960].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Gloria R.montebruno, 2003. Cái nhìn chủ thể, cái nhìn khách thể. Tái định dạng cái nhìn
trong tiểu thuyết Kawabata Yasunari thời kì 1939 -1962 (Gazing subjects, gazing objects.
Reconfiduring the gaze in Kawabata Yasunari novels 1939-1962).
[2] Nhật Chiêu, 2010. Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1869. Nxb Giáo dục Việt Nam.
[3] Khương Việt Hà, 2004. Thủ pháp tương phản trong truyện Người đẹp ngủ say (Nemureru Buo)
của Kawabata Yasunari. Tạp chí văn học, Số 1.
[4] Đào Thị Thu Hằng, 2007. Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata. Nxb Giáo dục, Hà Nội,
tr 81, 152, 96.
[5] Yasunari Kawabata, 2005. Tuyển tập tác phẩm, Nhiều người dịch. Nxb Lao động - Trung tâm
văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
[6] Nguyễn Tuấn Khanh, 2010. Những cây bút kiệt xuất trong văn học Nhật Bản. Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
[7] Nguyễn Thị Mai Liên, 2005. Yasunari Kawabata – Lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp. Tạp chí
Nghiên cứu văn học, Số 11, Hà Nội.
[8] Lưu Đức Trung, 1999. Thi pháp tiểu thuyết của Yasunari Kawabata nhà văn lớn Nhật Bản.
Tạp chí Văn học, Số 9, Hà Nội.
[9] Nhiều tác giả, 1987. Lí luận văn học, tập 2. Nxb Giáo dục.
ABSTRACT
Kinds of characters in three novels including Snow Area,
Thousands of cranes, Ancient capital by Yasunari Kawabata
Nguyễn Thị Huân
Faculty of Early-Childhood Education, Ha Long University
Flexible choice and coordination to the fuzzy writing style, additional relation, contrastive
relation, magical writing style, realistic writing style etc in order to build a character: a man - the
traveler wandering to search for the beauty and the woman - the embodiment of beauty in the 3
novels which gained the Nobel literature prize, has shown Y.Kawabata conception of man, life,
unique aesthetic concept of Japan, showing Y.Kawabata’s particularity.
Keywords: Structure, character, relationship, addition, contrastive, contrast.
93

File đính kèm:

  • pdfket_cau_nhan_vat_trong_bo_ba_tieu_thuyet_xu_tuyet_ngan_canh.pdf