Kết quả điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam và một số vấn đề đặt ra thời gian tới

Trong nền kinh tế mở thì chính sách tỷ giá giữ vai trò rất quan trọng, được xem

như là chiếc “van” để điều tiết các hoạt động kinh tế bên trong gắn với bên ngoài.

Xét về nguyên lý, chính sách tỷ giá giữa các nước trong từng thời kỳ thường có sự

khác biệt nhất định, căn cứ vào các điều kiện kinh tế- xã hội trong nước và quốc

tế trong từng giai đoạn. Từ đó, việc lựa chọn chính sách điều hành tỷ giá trở thành “kim chỉ nam” để dẫn dắt thị trường đi đúng hướng và tăng hiệu lực của chính sách tiền tệ quốc gia. Tất cả các nước đều rất chú ý đến điều này. Bài viết này sẽ tập trung đề cập các mô hình lý thuyết lựa chọn chế độ tỷ giá. Trên cơ sở đề cập khái quát chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam những năm qua, bài viết đưa ra một số vấn đề cần chú ý trong thời gian tới trong chính sách điều hành tỷ giá

pdf 7 trang yennguyen 7920
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam và một số vấn đề đặt ra thời gian tới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam và một số vấn đề đặt ra thời gian tới

Kết quả điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam và một số vấn đề đặt ra thời gian tới
2 soá 162 - thaùng 11.2015
Kết quả điều 
hành chính sách 
tỷ giá của Việt Nam và 
một số vấn đề đặt ra thời gian 
tới
 Vấn đề - Sự kiện 
PGS. TS. Kiều Hữu THiện
Trong nền kinh tế mở thì chính sách tỷ giá giữ vai trò rất quan trọng, được xem 
như là chiếc “van” để điều tiết các hoạt động kinh tế bên trong gắn với bên ngoài. 
Xét về nguyên lý, chính sách tỷ giá giữa các nước trong từng thời kỳ thường có sự 
khác biệt nhất định, căn cứ vào các điều kiện kinh tế- xã hội trong nước và quốc 
tế trong từng giai đoạn. Từ đó, việc lựa chọn chính sách điều hành tỷ giá 
trở thành “kim chỉ nam” để dẫn dắt thị trường đi đúng 
hướng và tăng hiệu lực của chính sách tiền tệ quốc 
gia. Tất cả các nước đều rất chú ý đến điều này.
Bài viết này sẽ tập trung đề cập các mô hình 
lý thuyết lựa chọn chế độ tỷ giá. Trên cơ 
sở đề cập khái quát chính sách điều 
hành tỷ giá của Việt Nam những 
năm qua, bài viết đưa ra một 
số vấn đề cần chú ý trong 
thời gian tới trong 
chính sách điều 
hành tỷ giá.
3thaùng 11.2015 - soá 162
Từ khóa: Chế độ tỷ giá, điều 
hành tỷ giá, Việt Nam
1. Các mô hình lý thuyết 
lựa chọn chế độ tỷ giá
1.1. Phân loại chế độ tỷ giá
ó nhiều dạng chế độ tỷ 
giá, song có thể chia thành 
một số dạng chính sau 
đây:
 ○ Chế độ tỷ giá cố định: Chế 
độ tỷ giá này lại có thể phân 
chia thành các dạng:
(1) Gắn với một đồng tiền: 
Có nghĩa là nền kinh tế sẽ gắn 
đồng tiền của mình vào những 
đồng tiền quốc tế chủ chốt 
mà rất ít khi điều chỉnh giá trị 
so sánh của chúng. Việc điều 
chỉnh chỉ diễn ra khi có những 
cú sốc đặc biệt. Cũng có thể có 
những thay đổi các biến số thị 
trường sẽ tác động bất lợi đối 
với kinh tế bên trong, khi đó sẽ 
thực hiện điều chỉnh tỷ giá cố 
định cho phù hợp. Trong những 
trường hợp này, việc điều 
chỉnh tỷ giá sẽ được công bố 
trước lịch trình và biên độ điều 
chỉnh đồng tiền nước mình với 
đồng tiền mà nó gắn vào. 
(2) Gắn với một rổ các loại tiền: 
Nền kinh tế sẽ gắn đồng tiền 
nước mình vào một rổ các đồng 
tiền có giao dịch chính hoặc với 
đồng tiền tiêu chuẩn (SDRs).
(3) Gắn với một khoảng chênh 
lệch xác định trước: Trong 
trường hợp này thì nền kinh 
tế sẽ gắn đồng tiền của nước 
mình vào một đồng tiền khác 
hoặc một rổ các đồng tiền 
trong một khoảng chênh lệch 
nhất định (thường là nhỏ).
(4) Cố định nhưng có thể điều 
chỉnh: Được thực hiện theo thoả 
ước hệ thống tỷ giá cân bằng 
theo Hiệp định Bretton- Woods.
 ○ Chế độ tỷ giá linh hoạt: Tỷ 
giá có thể được điều chỉnh một 
cách linh hoạt, bao gồm các 
dạng chính sau đây:
(1) Điều chỉnh linh hoạt theo 
các chỉ số: Các nước sẽ tự 
động điều chỉnh đồng tiền 
của nước mình theo sự thay 
đổi trong các chỉ số cho trước 
(chẳng hạn theo tỷ giá thực đa 
phương);
(2) Thả nổi có kiểm soát: Các 
nước sẽ thường xuyên điều 
chỉnh tỷ giá trên cơ sở đánh 
giá diễn biến của các biến số 
kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các 
biến số về tình hình dự trữ, 
thanh toán.
 ○ Thả nổi tự do: Các nước 
cho phép thị trường và các lực 
lượng thị trường quyết định tỷ 
giá đồng tiền của mình.
Thông thường thì các nhà kinh 
tế lồng ghép chế độ tỷ giá linh 
hoạt và chế độ tỷ giá thả nổi tự 
do vào một loại hình chế độ tỷ 
giá linh hoạt và cho rằng chế 
độ tỷ giá thả nổi tự do chính là 
mức độ linh hoạt cao chất của 
loại chế độ tỷ giá này.
1.2. Sự lựa chọn chế độ tỷ 
giá
Thông thường, việc lựa chọn 
chế độ tỷ giá xoay quanh 3 
vấn đề chính là: (i) Mối quan 
hệ giữa nền kinh tế quốc gia 
với nền kinh tế thế giới; (ii) 
Tính chất cơ cấu của nền kinh 
tế; (iii) Mức độ linh hoạt của 
các chính sách kinh tế bên 
trong của nước đó.
 ○ Về mối quan hệ giữa nền 
kinh tế quốc gia với kinh tế thế 
giới
Thực chất trường hợp này xác 
định nền kinh tế quốc gia là 
mở cửa hay đóng cửa.
Các nước lựa chọn một hệ 
thống kinh tế mở thường 
thiên về sự lựa chọn chế độ 
tỷ giá cố định. Lý do là: Lựa 
chọn thoả ước chế độ tỷ giá 
cố định tức là chấp nhận sự 
ràng buộc đối với các chính 
sách kinh tế quốc gia, đặt các 
chính sách kinh tế quốc gia 
trong mối tương tác với cả 
hệ thống kinh tế thế giới. Về 
nguyên tắc thì các nước chỉ có 
thể thực hiện được các chính 
sách kinh tế đối nội hỗn hợp 
một khi duy trì chế độ tỷ giá 
cố định. Hay nói cách khác, 
chế độ tỷ giá cố định sẽ khống 
chế một cách tích cực nhất các 
khả năng thực hiện các chính 
sách kinh tế đối nội hỗn hợp 
mà một quốc gia theo đuổi. 
Nghĩa là, sự lựa chọn chế độ 
tỷ giá cố định tức là lựa chọn 
việc áp đặt các ràng buộc quốc 
tế vào các chính sách kinh tế 
quốc gia. Trong chế độ tỷ giá 
cố định, ảnh hưởng của chính 
sách kinh tế đối nội và đối 
ngoại sẽ lan truyền rộng rãi 
trên toàn hệ thống. 
Như vậy, các nước lựa chọn 
chế độ tỷ giá cố định thể hiện 
sự cam kết áp đặt các ràng 
buộc chính sách kinh tế quốc 
gia vào kinh tế thế giới (cam 
kết không theo đuổi các chính 
sách đối nội một cách độc 
lập). Có thể nói đây chính là 
đặc thù của hệ thống kinh tế 
mở, bởi vì, trong hệ thống 
này thì không thể tránh khỏi 
sự rò rỉ thông tin nên không 
còn cách nào khác ngoài việc 
không khuyến khích các hoạt 
4 soá 162 - thaùng 11.2015
động độc lập.
Các nước lựa chọn một hệ 
thống kinh tế đóng cửa thường 
lựa chọn chế độ tỷ giá linh 
hoạt. Lý do là: Với việc lựa 
chọn chế độ tỷ giá linh hoạt 
thì các chính sách kinh tế bên 
ngoài dù thay đổi như thế nào 
chăng nữa thì sự điều chỉnh 
của tỷ giá cũng sẽ giữ các ảnh 
hưởng của chúng nằm bên 
ngoài mà không thể xâm nhập 
vào bên trong phạm vi quốc 
gia này. 
Như vậy, chế độ tỷ giá linh 
hoạt chính là một công cụ 
chính sách được sử dụng để 
giữ cho các hoạt động kinh 
tế của quốc gia không bị ảnh 
hưởng bởi các biến động của 
hệ thống kinh tế thế giới. 
Nghĩa là quốc gia này có thể 
thực hiện các chính sách kinh 
tế đối nội mà không phải bận 
tâm đến môi trường kinh tế 
bên ngoài.
Do trong quá trình phát triển 
kinh tế xã hội, hầu hết các 
nước đều phải đối mặt với 
các rối loạn kinh tế, cho nên 
trong việc lựa chọn chế độ 
tỷ giá ứng với mỗi mô hình 
phát triển kinh tế thì không 
thể không tính đến yếu tố này. 
Rối loạn kinh tế được phân ra 
thành các rối loạn danh nghĩa 
hoặc rối loạn thực.
Rối loạn danh nghĩa (rối loạn 
phát sinh từ sự mất cân đối 
trên thị trường tiền tệ): Chẳng 
hạn, cung ứng tiền quá lớn tác 
động tới cán cân thanh toán 
quốc tế do hao tốn dự trữ hối 
đoái để khôi phục lại sự cân 
bằng trên thị trường tiền tệ. 
Rối loạn này sẽ không thực 
sự ảnh hưởng đến nền kinh tế 
một khi quốc gia này lựa chọn 
chế độ tỷ giá cố định.
Rối loạn thực (những rối loạn 
phát sinh từ sự mất cân đối 
trên thị trường hàng hoá): Để 
chống lại những rối loạn này 
tốt nhất các nước lựa chọn chế 
độ tỷ giá linh hoạt vì với chế 
độ tỷ giá linh hoạt thì những 
biến động về mức cầu hàng 
hoá trong nước sẽ dẫn đến 
những thay đổi về tỷ giá, do đó 
sẽ tự động điều chỉnh mức cầu 
hàng hoá nước ngoài, vì thế 
sản phẩm trong nước sẽ không 
bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
 ○ Về tính chất cơ cấu của nền 
kinh tế
Với một nền kinh tế đòi hỏi 
các nhân tố sản xuất lớn, cả 
các nhân tố đầu vào và các 
yếu tố đầu ra của quá trình tái 
sản xuất, thì các nước này bắt 
buộc phải lựa chọn mô hình 
mở cửa kinh tế. Khi đó nước 
này nên lựa chọn chế độ tỷ giá 
cố định.
 ○ Về mức độ linh hoạt của các 
chính sách kinh tế bên trong
Khi lựa chọn chế độ tỷ giá thì 
một yếu tố không kém phần 
quan trọng là phải xem xét 
phạm vi mà ở đó nền kinh tế 
quốc gia hoặc tham gia vào 
các mục tiêu chung, hoặc có 
các chính sách tương đồng, 
hoặc cả hai. Cụ thể: Quốc 
gia càng có ít mục tiêu chính 
sách chung và càng có ít các 
chính sách tương đồng, thì lựa 
chọn chế độ tỷ giá linh hoạt sẽ 
hiệu quả hơn. Ngược lại, nếu 
quốc gia càng có nhiều mục 
tiêu chính sách chung và càng 
nhiều các chính sách tương 
đồng thì lựa chọn chế độ tỷ giá 
cố định sẽ hiệu quả hơn.
Gắn với việc lựa chọn chế độ 
tỷ giá, các chuyên gia của IMF 
đưa ra một số khuyến cáo:
Thứ nhất, với những nước mà 
đồng nội tệ chưa tự do chuyển 
đổi, các nước khi tham gia vào 
một liên minh tiền tệ, các nước 
nhỏ hay khả năng điều hành 
các công cụ của chính sách 
tiền tệ còn bất cập... thì việc 
cố định tỷ giá (thông thường 
là xác định một mốc tỷ giá mỏ 
neo- còn gọi là tỷ giá trung 
tâm và cho phép tỷ giá được 
biến động trong một biên độ 
nào đó xung quanh mỏ neo 
này) là cần thiết, bởi vì: 
(i) Trong các giao dịch thương 
mại quốc tế thì chế độ tỷ 
giá thả nổi chứa đựng rủi ro 
hối đoái rất lớn cho các nhà 
xuất nhập khẩu. Mặc dù trên 
thị trường luôn có các công 
cụ cho việc phòng ngừa rủi 
ro (chẳng hạn các nhà xuất 
nhập khẩu có thể sử dụng 
các hợp đồng Swap, Option, 
Forward...) nhưng chi phí để 
thực hiện các nghiệp vụ này 
tương đối cao và vì thế, việc 
sử dụng các công cụ cho việc 
phòng ngừa rủi ro chỉ có hiệu 
quả với các giao dịch có giá 
trị lớn. Do vậy, với những nền 
kinh tế nhỏ, giá trị giao dịch 
là không lớn, thì một chế độ 
tỷ giá ổn định vẫn là cần thiết 
(tạo tâm lý trong công chúng 
về sự ổn định giá trị đối ngoại 
của đồng nội tệ, giảm thiểu rủi 
ro phát sinh trong giao dịch 
thương mại quốc tế và do vậy 
sẽ thúc đẩy các giao lưu kinh 
tế quốc tế phát triển); 
5thaùng 11.2015 - soá 162
(ii) Giữa tỷ giá và lãi suất 
có mối quan hệ “bình thông 
nhau”, hơn nữa, trong điều 
kiện thị trường tài chính ngày 
nay, với mức độ lưu thông vốn 
giữa các nước là rất lớn, làm 
cho lãi suất trong nước phụ 
thuộc lớn vào sự biến động 
của lãi suất trên thị trường tài 
chính quốc tế; do vậy, một chế 
độ tỷ giá cố định sẽ giúp hạn 
chế sự biến động của lãi suất 
trong nước, từ đó giúp ổn định 
các biến số kinh tế vĩ mô (đầu 
tư, chi tiêu...).
(iii) Khi mà một nước nằm 
trong các liên kết kinh tế quốc 
tế nào đó, thì sự phối hợp các 
chính sách giữa các quốc gia 
cũng cần thiết phải có một 
chính sách ổn định tiền tệ chung 
và nếu giữa các nước càng có 
nhiều chính sách và mục tiêu 
chung, thì tỷ giá giữa các đồng 
tiền trong liên kết càng cần thiết 
phải được cố định.
(iv) Một số nước thị trường 
tài chính có độ nhạy cảm cao, 
nhất là độ nhạy cảm về lãi 
suất và tỷ giá, dẫn tới dễ bị tổn 
thương do các nhân tố đầu cơ 
cao, thì tốt hơn là nên lựa chọn 
một chế độ tỷ giá thiên về cố 
định. Việc cố định tỷ giá thông 
thường là gắn với một ngoại 
tệ mạnh sẽ tạo ra một mỏ neo 
hữu hình góp phần giảm thấp 
yếu tố tâm lý, loại trừ bớt nạn 
găm giữ ngoại tệ, góp phần ổn 
định thị trường... Tuy nhiên, 
khi một nước lựa chọn chế 
độ cố định tỷ giá thì cũng sẽ 
phải đối mặt với những bất 
cập, thậm chí là rất lớn. Cụ 
thể: 1/ Để duy trì chế độ tỷ giá 
cố định thì buộc ngân hàng 
trung ương (NHTW) phải có 
một lượng dự trữ ngoại hối đủ 
mạnh để sẵn sàng can thiệp 
thị trường nhằm duy trì tỷ giá 
đã công bố; 2/ Chế độ tỷ giá 
cố định tạo ra một sự ràng 
buộc chặt chẽ đối với chính 
sách tiền tệ và làm mất tính 
chủ động của chính sách tiền 
tệ, hơn nữa, với việc lựa chọn 
chế độ tỷ giá gắn với một đồng 
ngoại tệ mạnh, thì chính sách 
tiền tệ quốc gia bị phụ thuộc 
một phần hay lệ thuộc hoàn 
toàn vào chính sách tiền tệ của 
nước có đồng tiền mạnh đó; 3/ 
Việc lựa chọn chế độ tỷ giá cố 
định đòi hỏi phải có hệ thống 
thông tin tốt để xác định được 
một mốc tỷ giá cố định hợp lý, 
nếu không thoả mãn được điều 
đó thì duy trì chế độ tỷ giá cố 
định có thể gây những bất lợi 
lớn đối với kinh tế trong nước 
(gây bất lợi đối với hoạt động 
xuất hay nhập khẩu, tạo ra cơ 
chế 2 giá trên thị trường hối 
đoái, kích thích gia tăng nạn 
đầu cơ găm giữ ngoại tệ...); 4/ 
Một nền kinh tế có tình trạng 
lạm phát cao thì với việc lựa 
chọn tỷ giá cố định sẽ làm 
giảm khả năng cạnh tranh 
trong thương mại quốc tế, từ 
đó tất yếu sẽ làm trầm trọng 
thêm tình trạng thâm hụt cán 
cân vãng lai; 5/ Với những nền 
kinh tế nhỏ, đồng nội tệ chưa 
có khả năng tự do chuyển đổi, 
dự trữ ngoại hối không lớn, 
các công cụ tài chính chưa đa 
dạng và hiệu quả, luôn tiềm 
ẩn những nguy cơ bất ổn trong 
nền kinh tế, thì để duy trì tỷ 
giá cố định bắt buộc NHTW 
phải sử dụng kết hợp với các 
biện pháp mang tính hành 
chính (kết hối, các qui định 
hạn chế trong kiểm soát vốn 
và ngoại tệ). Hậu quả của sự 
kiểm soát này có thể sẽ làm 
phát sinh thị trường chợ đen 
ngoại tệ, làm trầm trọng thêm 
nạn buôn lậu, chuyển tiền bất 
hợp pháp...
Thứ hai, với những nước có 
thương mại quốc tế qui mô lớn 
và phát triển vững mạnh, đồng 
nội tệ có thể tự do chuyển 
đổi, khả năng kiểm soát tốt thị 
trường tài chính thông qua hệ 
thống các công cụ tài chính đa 
dạng và hoạt động hiệu quả, 
thì việc lựa chọn chế độ tỷ giá 
linh hoạt là cần thiết, bởi vì:
(i) Cho phép NHTW thực thi 
chính sách tiền tệ một cách 
độc lập; hơn nữa, việc lựa 
chọn chế độ tỷ giá này cho 
phép các nước tự xác định 
mức lạm phát phù hợp với bối 
cảnh cụ thể của mình (trong 
khi chế độ tỷ giá cố định sẽ tạo 
nên sự ràng buộc và để duy trì 
tỷ giá cố định bắt buộc phải 
duy trì chính sách tiền tệ tương 
tự nhau, nghĩa là bắt buộc phải 
có chung tỷ lệ lạm phát);
(ii) Chế độ tỷ giá linh hoạt sẽ 
giúp nền kinh tế tránh khỏi 
những cú sốc giá cả từ bên 
ngoài;
(iii) Chế độ tỷ giá linh hoạt 
không đòi hỏi NHTW phải 
duy trì lượng dự trữ ngoại hối 
lớn để can thiệp nhằm ổn định 
tỷ giá, khi ấy, tỷ giá sẽ thường 
xuyên biến động để phản ánh 
đúng quan hệ cung cầu ngoại 
tệ trên thị trường và sự linh 
hoạt của tỷ giá sẽ góp phần 
làm tăng tính cạnh tranh của 
6 soá 162 - thaùng 11.2015
nền kinh tế.
2. Chế độ tỷ giá ở Việt Nam
Từ thực tiễn có thể thấy chế 
độ tỷ giá được Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam (NHNN) lựa 
chọn trong điều hành là “cố 
định” gắn với một khoảng 
chênh lệch nhất định với đồng 
tiền mà VND gắn vào, đó là 
USD, còn khoảng chênh lệch 
này lớn hay nhỏ được xác định 
theo từng thời kỳ nhất định. Có 
những thời kỳ khoảng chênh 
lệch này là khá lớn, lên tới 
±5% trong thời kỳ từ 27/2/1997 
đến 13/10/1997, thậm chí trong 
thời kỳ từ 13/10/1997 đến 
6/8/1998 thì khoảng chênh lệch 
này lên tới +7% của giá bán 
ra, hay thời kỳ từ 6/8/1998 đến 
25/2/1999 thì khoảng chênh 
lệc này thậm chí lên tới +10% 
của giá bán ra. Sau đó khoảng 
chênh lệch này có xu hướng rút 
ngắn chỉ còn khoảng ±0,25% 
của tỷ giá giao dịch bình quân 
liên ngân hàng. Tuy vậy, từ 
cuối năm 2011 đến 18/8/2015 
thì khoảng chênh lệch này lại 
bị nới rộng lên ± 1%; và từ 
19/8/2015 đến nay thì khoảng 
chênh lệch này lại tiếp tục 
được nới rộng lên ±3%. 
Cho dù còn có khá nhiều ý kiến 
trái chiều xung quanh chế độ tỷ 
giá được NHNN lựa chọn trong 
điều hành chính sách, song 
theo quan điểm của tác giả thì 
đây là sự lựa chọn hợp lý bởi 
một số lý do sau đây:
Thứ nhất, từ nghiên cứu kinh 
nghiệm một số nước đang phát 
triển, chế độ tỷ giá cố định có 
hiệu quả hơn chế độ tỷ giá linh 
hoạt trong các nền kinh tế có 
mức độ lạm phát tiềm ẩn cao, 
bởi với việc cố định tỷ giá sẽ 
giúp kiềm chế lạm phát, ổn 
định giá cả thị trường qua đó 
giúp ổn định tiền tệ. Hơn nữa, 
quyết định cố định tỷ giá để 
ổn định giá cả là rất cần thiết 
trong giai đoạn đầu của thời 
kỳ chuyển đổi sau các cú sốc 
về tài chính những năm qua, 
bởi với việc gắn cố định giá trị 
đồng nội tệ vào đồng ngoại tệ 
mạnh là USD sẽ giúp duy trì 
được lòng tin của dân chúng 
và các nhà đầu tư trong và 
ngoài nước. Kèm theo việc tự 
do hóa giá cả, thì việc tỷ giá 
gắn với USD đã tạo ra “mỏ 
neo” cho mức giá cả trong 
nước, đồng thời tạo ra xu 
hướng chỉ đạo để giá cả được 
cân bằng nhanh chóng theo 
từng thị trường. 
Thứ hai, việc duy trì mô hình 
kinh tế mở cửa hội nhập sâu 
rộng vào các nền kinh tế khu 
vực và quốc tế (thực tế chúng 
ta hầu như đã gia nhập hầu 
hết các khối liên kết kinh tế 
lớn khu vực và quốc tế), điều 
này bắt buộc chúng ta phải lựa 
chọn chế độ tỷ giá cố định để 
qua đó tạo ra sự cam kết chắc 
chắn về việc thực thi các mục 
tiêu chung mang tính khu vực 
và toàn cầu. Với việc duy trì 
chế độ cố định tỷ giá rất có thể 
các áp lực đối với việc thực thi 
chính sách tiền tệ không mong 
đợi của NHNN sẽ lớn, thậm 
chí có những giai đoạn căng 
thẳng, bởi vì các công cụ tỷ 
giá và lãi suất vẫn còn sự thiếu 
gắn kết với nhau trong khi các 
hoạt động đầu cơ luôn tiềm ẩn 
đặt trong điều kiện có sự biến 
động phức tạp trong thực thi 
chính sách tiền tệ của các nước 
lớn. Do vậy, việc nới rộng 
khoảng chênh lệch là cần thiết 
nhằm giảm các áp lực trong 
lựa chọn điều hành chính sách 
tiền tệ của NHNN.
Thứ ba, do VND chưa thể 
chuyển đổi tự do nên các hoạt 
động thanh toán trong thương 
mại quốc tế phải sử dụng các 
ngoại tệ tự do chuyển đổi khác 
là chủ yếu, nếu như tỷ giá 
biến động phức tạp sẽ khiến 
các nhà xuất nhập khẩu phải 
đối mặt với các rủi ro tiềm 
ẩn cao1. Do vậy, việc gắn cố 
định tỷ giá VND với USD sẽ 
giúp các nhà xuất nhập khẩu 
của Việt Nam giảm thiểu các 
rủi ro về ngoại thương, đây là 
tiền đề để ổn định và phát triển 
hoạt động ngoại thương của 
Việt Nam. Lý do là, thị trường 
các công cụ phái sinh của Việt 
Nam chưa phát triển nên các 
nhà xuất nhập khẩu thiếu các 
công cụ để tự bảo vệ trước các 
biến động của tỷ giá, nên nếu 
như NHNN để tỷ giá diễn biến 
phức tạp khó dự báo sẽ khiến 
các nhà xuất nhập khẩu phải 
đối mặt với các rủi ro tiềm ẩn. 
3. Một số vấn đề đặt ra 
trong thời gian tới
Từ các phân tích trên đây có 
thể thấy rằng, việc lựa chọn 
chế độ tỷ giá cố định để điều 
hành thị trường ngoại hối của 
NHNN là hợp lý. Song từ các 
diễn biến thị trường gần đây 
cũng cho thấy một thực tế là 
1 Thực tế những tháng gần đây khi 
NHNN điều chỉnh tăng tỷ giá USD/
VND khiến hàng loạt doanh nghiệp 
trong nước, trong đó có cả các doanh 
nghiệp lớn như Vinacomin bị thua lỗ 
lớn tới hàng nghìn tỷ đồng
7thaùng 11.2015 - soá 162
NHNN cũng cần có các giải 
pháp phù hợp hơn ứng phó với 
các diễn biến phức tạp rất khó 
dự báo từ việc thực thi chính 
sách tiền tệ của các nền kinh tế 
lớn, trong đó đặc biệt là Mỹ và 
Trung Quốc. 
Theo tôi, một số vấn đề đặt 
ra trong thời gian tới cần phải 
quan tâm xử lý đó là:
Thứ nhất, như trên đã đề cập, 
với sự lựa chọn chế độ tỷ giá 
cố định đòi hỏi cần phải có 
mức dự trữ ngoại hối đủ lớn 
hoặc phải có sự hỗ trợ tích 
cực từ bên ngoài, song sự hỗ 
trợ từ bên ngoài là thiếu chắc 
chắn, do vậy NHNN cần quan 
tâm triển khai các giải pháp 
quyết liệt nhằm tăng cường 
dự trữ ngoại hối. Đây là điều 
cần thiết không chỉ trong 
những thời kỳ có các cú sốc 
trên thị trường tài chính mà nó 
còn gắn với cả tiến trình phát 
triển và hội nhập kinh tế của 
Việt Nam, bởi dự trữ ngoại 
hối được xem là chiếc “đệm” 
trong chiến lược tăng tốc kinh 
tế. Tăng tốc kinh tế càng lớn 
thì đòi hỏi chiếc đệm này càng 
phải “dày” hơn.
Tài liệu THam KHảo
1. Nguyễn Thị Mùi (2006): Lựa chọn chế độ và điều hành tỷ giá hối đoái- Phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều 
hành. NXB Tài chính.
2. Nguyễn Công Nghiệp- Lê Hải Mơ (1996) Tỷ giá hối đoái- phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều hành. NXB 
Tài chính.
3. Nguyễn Thị Thư (2004): Tỷ giá hối đoái và tác động của nó đối với ngoại thương qua thực tiễn phát triển kinh tế 
một số nước. NXB Chính trị Quốc gia.
4. Lương Xuân Quỳ- Nguyễn Tuấn Anh (2008): Cơ chế điều hành tỷ giá và mối quan hệ với quá trình đổi mới thể 
chế kinh tế của Nhà nước. Tạp chí Kinh tế và Phát triển.
5. Lưu Hảo: Sáu nền tỷ giá. www.cafef.vn. Ngày 19/9/2015.
Summary
Effectiveness of Vietnam exchange rate policy and forthcoming issues 
In an open economy, exchange rate policy plays a crucial role, being seen as a "valve" to regulate domestic 
economic activities in association with external parties. According to the conventional theory, exchange rate 
policy is usually different among different countries at specific periods, based on specific socio-economic 
conditions in the country and in the world. Therefore, choice of optimal exchange rate policies becomes 
guidlines to lead the market in the right direction, and enhance effectiveness of the country’s monetary policy. 
The paper will focus on the theoretical models of identifying optimal exchange rate regime. In addition, based 
on overview of Vietnam's exchange rate policy in the past years, the author analyses some forthcoming issues 
related to Vietnam exchange rate policy.
THônG Tin Tác Giả
Kiều Hữu Thiện, Phó giáo sư, Tiến sĩ
Đơn vị công tác: Phó Giám đốc phụ trách Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Tài chính- Ngân hàng
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Khoa học 
và Đào tạo Ngân hàng
Email: thienkh@hvnh.edu.vn
Thứ hai, từ những rủi ro lớn 
mà các nhà xuất nhập khẩu 
Việt Nam phải “trải nghiệm” 
những năm trước đây cũng 
như thời gian gần đây, có thể 
nhận thấy rằng các doanh 
nghiệp Việt Nam chưa có thái 
độ sẵn sàng đối diện với rủi ro, 
hơn nữa, “thái độ” này không 
chỉ thuộc về doanh nghiệp, mà 
còn là của toàn bộ thị trường, 
trong đó có các cơ chế, chính 
sách để ứng phó rủi ro còn 
khá nghèo nàn, phiến diện. 
Đứng từ phía doanh nghiệp thì 
thấy rằng có lẽ sự trải nghiệm 
8 soá 162 - thaùng 11.2015
của doanh nghiệp được xem 
là “bất ngờ” bởi nhiều lý do, 
chẳng hạn sự thiếu thông tin 
để dự báo các diễn biến chính 
sách trong nước và các diễn 
biến thị trường quốc tế, khả 
năng tổng hợp và dự báo diễn 
biến thị trường trong tương 
lai Điều này đặt ra vấn đề 
cấp thiết mà các cơ quan chức 
năng có liên quan phải nghiên 
cứu để xử lý. Đối với NHNN, 
tôi cho rằng thời gian tới nên 
lựa chọn chế độ tỷ giá trượt 
(Crawling Band). Với việc lựa 
chọn chế độ tỷ giá này, cho 
phép NHNN nới rộng hoặc rút 
ngắn khoảng chênh lệch tỷ giá 
song vẫn không gây bất ngờ 
đối với thị trường. Tuy vậy, 
việc lựa chọn điều hành chính 
sách theo chế độ tỷ giá này 
đòi hỏi NHNN phải có các dự 
báo diễn biến thị trường trong 
tương lai và phải tuân thủ 
đúng với các cam kết.
Thứ ba, về điều hành tỷ giá: 
Hàm lượng các yếu tố thị 
trường (quan hệ cung- cầu 
về ngoại tệ, lạm phát, lợi tức 
của các tài sản ngoại tệ, sở 
thích) phản ánh trong tỷ giá 
càng cao, thì khả năng một 
chính sách tỷ giá có hiệu quả 
càng cao và chống đỡ được 
các cú sốc về tài chính. Chính 
sách tỷ giá có khả năng dự báo 
các diễn biến của tỷ giá trong 
tương lai càng cao sẽ tạo khả 
năng ổn định tương đối dài 
hạn và giảm thiểu được những 
rủi ro hối đoái, đẩy mạnh thu 
hút vốn đầu tư nước ngoài ■
Vui cười
Không như đồ đệ nghĩ
Một thanh niên luôn tự ti khi mình có làm da không được như ý cho lắm liền tìm đến sư phụ xin lời khuyên.
- Thưa đại sư, con vốn đã đen rồi, hễ đến mùa hè là phơi nắng càng đen hơn, người ta cứ cười con, con phải 
làm sao đây ạ?
Sư phụ không nói gì, thong thả mở cánh cửa lớn ra, để ánh nắng chiếu vào bên trong.
Chàng trai thấy vậy liền reo lên:
- Con hiểu rồi thưa sư phụ, người muốn con mở rộng cánh cửa trái tim, đừng để ý đến suy nghĩ của người 
khác, đúng không ạ?
- Không phải, thầy đây chỉ muốn nhìn cho rõ xem rốt cuộc con đang đứng ở đâu!
- !?!
(Sưu tầm)
Xin thuật ngữ y học để báo cáo vợ
Một người đàn ông đến gặp bác sĩ than thở:
- Thưa bác sĩ, dạo gần đây không hiểu sao tôi thường mệt mỏi, không còn đủ sức để làm bất kỳ việc gì cả.
Sau khi được khám hết một lượt, ông ta tiếp tục nói với bác sĩ:
- Giờ ông có thể nói bằng tiếng Việt cho tôi biết tôi bị bệnh gì không?
Bác sĩ nhìn anh đầy nghi hoặc:
- Dĩ nhiên tôi nói bằng tiếng Việt rồi! Anh không có bệnh gì cả, chẳng qua anh đang quá lười biếng thôi.
Người đàn ông mừng rỡ:
- Tốt lắm! Vậy giờ ông nói cho tôi vài thuật ngữ y học để tôi về báo cáo lại với vợ nữa!
- !!!
(Sưu tầm)

File đính kèm:

  • pdfkieu_20huu_20thien_20thang11_2015_9324_543657.pdf