Không gian, thời gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào Tấn

TÓM TẮT

Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật là một trong những phương thức biểu hiện thế

giới qua tác phẩm văn học. Nghiên cứu không gian thời gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào

Tấn cũng là một cách tiệp cận để giải mã những giá trị văn học trong các tác phẩm của “Hậu Tổ

nghề tuồng”.

pdf 11 trang yennguyen 4720
Bạn đang xem tài liệu "Không gian, thời gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào Tấn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Không gian, thời gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào Tấn

Không gian, thời gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào Tấn
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE 
 No.04_November 2016 42 
KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG KỊCH BẢN TUỒNG ĐÀO TẤN 
Art space and art time in the scenario of Dao Tan’s Tuong 
Ngày nhận bài: 12/10/2016; ngày phản biện: 18/10/2016; ngày duyệt đăng:21/11/2016 
Đinh Thị Kim Thương* 
TÓM TẮT 
Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật là một trong những phương thức biểu hiện thế 
giới qua tác phẩm văn học. Nghiên cứu không gian thời gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào 
Tấn cũng là một cách tiệp cận để giải mã những giá trị văn học trong các tác phẩm của “Hậu Tổ 
nghề tuồng”. 
Từ khóa: Không gian nghệ thuật; thời gian nghệ thuật; tuồng Đào Tấn 
ABSTRACT 
Art space and art time is one of method to express the world's by literature. Studying art space 
and art time in Dao Tan’s Tuong is also an approach to clarify the literary values of the “posteriori 
ancestor of Tuong” work. 
Keywords: Art space; art time; Dao Tan’s Tuong 
1. Đặt vấn đề 
Không gian và thời gian là một phạm trù 
triết học chỉ sự tồn tại của thế giới vật chất. 
Tác phẩm văn học là một thế giới nghệ thuật. 
Trong thế giới đó, con người tồn tại trong một 
khoảng không gian và thời gian đặc biệt, đó là 
không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. 
Nó không chỉ là không gian và thời gian vật 
chất mà là một phương thức biểu hiện thế giới 
tinh thần, hiện thực đời sống thông qua tác 
phẩm văn học. 
Là nhà soạn tuồng xuất sắc nhất trong 
giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, kịch bản 
tuồng Đào Tấn đã được nghiên cứu dưới 
nhiều góc độ khác nhau như: nội dung tư 
tưởng, kết cấu, ngôn ngữ, nhân vật... nhưng 
vấn đề không gian, thời gian nghệ thuật trong 
kịch bản tuồng của ông chưa được đề cập đến 
một cách cụ thể. Ở bài viết này, chúng tôi tiếp 
cận, nghiên cứu kịch bản tuồng của Đào Tấn 
bằng lý thuyết không gian, thời gian nghệ 
thuật của thi pháp học. 
2. Không gian nghệ thuật 
Không gian là môi trường tồn tại của con 
người: dòng sông, cánh đồng, ngọn núi, đèo 
xa, biển cả... Không gian là nơi tác giả triển 
khai sự kiện, biến cố, là chỗ cho nhân vật hoạt 
động. Không gian có thể tồn tại dưới hai hình 
thức là không gian vật lý, không gian phi vật 
lý. Không gian vật lý là không gian chúng ta 
có thể tri giác được bằng các giác quan như địa 
điểm, nơi chốn, con người, sự vật... Không 
gian phi vật lý là không gian con người có thể 
tri nhận được nhưng không tri giác được bằng 
các giác quan như: không gian tâm tưởng, 
không gian tâm linh 
Tuồng là loại hình nghệ thuật tổng hợp 
bao gồm kịch bản văn học, vũ điệu, âm nhạc, 
bối cảnh sân khấu, hóa trang, phục trang... 
trong đó phương thức biểu hiện chủ yếu là ước 
* Thạc sĩ - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 04 - THÁNG 11 NĂM 2016 43
lệ. Do đó không gian có một vị trí vô cùng 
quan trọng trong việc chỉ dẫn bối cảnh để cảm 
thụ tuồng. Đối với tuồng truyền thống với đặc 
trưng “nội dung cung đình, nhân vật phong 
kiến”, không gian thường được miêu tả chủ 
yếu là không gian vật lý gắn với cảnh cung 
vàng, điện ngọc của triều đình phong kiến là 
nơi diễn ra hầu hết các sự kiện của truyện. Đó 
là những Triều Tề (Sơn Hậu), Triều Nguyên 
(Tam nữ đồ vương), Triều đình Cát Thượng 
Nguyễn (Đào Phi Phụng), Triều Ca (Trầm 
Hương các)... Trong không gian đó, các mâu 
thuẫn hình thành và phát triển tạo ra xung đột 
kịch và phát triển đến cao trào. Không gian thế 
sự có được nhắc đến nhưng không nhiều và 
không chi phối chủ đề tư tưởng, nội dung của 
tác phẩm. 
Trong các tuồng bản do Đào Tấn nhuận 
sắc, về cơ bản các không gian được giữ nguyên 
như các bản tuồng cổ. Nhưng trong các văn bản 
tuồng do ông sáng tác, có sự chuyển biến không 
nhỏ trong cách lựa chọn không gian cho nhân 
vật xuất hiện. Bên cạnh các không gian truyền 
thống như cung đình, lầu, phủ, biên ải, đền, 
miếu... ta thấy sự xuất hiện của những không 
gian riêng tư như trong khuê phòng (Diễn võ 
đình, Hộ sinh đàn), tẩm cung (Trầm Hương 
các); không gian trên đường lưu lạc (không 
gian hành trình) như trong Diễn võ đình, Hộ 
sinh đàn, Cổ thành, Tân Dã đồn, Hoàng Phi Hổ 
quá giới bài quan... Và đặc biệt là sự xuất hiện 
dày đặc của không gian phi vật lý: không gian 
tâm tưởng (nhớ mong, hoài niệm, ước mơ...), 
không gian tâm linh (cõi Phật, cõi tiên, hiện 
hồn, nằm mộng...). 
2.1. Không gian khuê phòng 
Không gian khuê phòng xuất hiện khá 
nhiều trong văn học cổ trung đại và thường gắn 
với hình ảnh người phụ nữ với những khát khao 
về hạnh phúc lứa đôi. Đó là người vợ nhớ mong 
chồng trong Khuê oán của Vương Xương Linh 
hay Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (Đoàn 
Thị Điểm diễn Nôm), sự khát khao hạnh phúc 
của Thúy Kiều khi gặp Kim Trọng và sự bẽ 
bàng của nàng khi ở lầu Ngưng Bích (Truyện 
Kiều - Nguyễn Du), đó còn nỗi đau ai oán khi 
mất vợ trong Khuê ai lục (Ngô Thì Sĩ) và Văn 
tế Trương Quỳnh Như (Phạm Thái)... 
Trong tuồng của Đào Tấn, không gian 
khuê phòng được sử dụng như bối cảnh để tâm 
sự, tự tình và giao duyên. Đó là khuê phòng 
của Vương Kiều Quang nơi nàng cùng Bích 
Đào (Triệu Khánh Sanh) sớm tối học thêu thùa 
và tâm sự chuyện nữ nhi. Ở nơi đó ấp ủ ước 
mơ hạnh phúc của Kiều Quang và những tâm 
sự băn khoăn của nàng về một người thị nữ 
với “hành vi lạ lùng”. Đồng thời đó cũng là 
nơi “nương mình” của Triệu Khánh Sanh 
trong vai Bích Đào với lòng bi hận khôn cùng 
trước thời cuộc đảo điên“Kham thán thời vận 
chi điên đảo/Ta hồ tình thế chi quai vi” (Xót 
bấy vận thời điên đảo/Đau vì tình thế rối ren) 
và đó cũng là nơi nuôi dưỡng tình yêu của 
chàng và nàng qua từng đường kim, mũi chỉ: 
Bích Đào (Khánh Sanh): ... chắp tơ mành 
Kiều Quang: ... dóng thẳng đường ngay 
Bích Đào:... nhận nẻo quanh 
Kiều Quang: Cúc trắng, mai vàng thưa 
thớt nhụy 
Bích Đào: Chim xanh lá đỏ ngẩn ngơ tình 
Cùng ngâm: Uyên ương chếch bạn còn 
lơ láo 
Phỉ thúy chiều duyên khéo rập rình 
Từng lời thơ xoắn xuýt nhau đầy quyến 
luyến, đầy yêu nhưng mang những tâm trạng 
khác nhau. Kiều Quang lúc này chưa biết Bích 
Đào là Khánh Sanh, nàng gửi yêu thương vào 
mộng tưởng về một hình bóng tình lang không 
biết đang lưu lạc phương nào. Còn Khánh 
Sanh trong khung cảnh uyên ương này không 
kìm chế nổi những cơn sóng tình đang cuồn 
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE 
 No.04_November 2016 44 
cuộn trong lòng muốn ôm chặt Kiều Quang 
vào lòng cho thỏa niềm khao khát: 
Trước chưa học xem qua lăng líu 
Nay học rồi ngẫm lại lí lăng 
Cắc cớ thay dì gió chị trăng 
Thày lay bấy mũi kim đường chỉ 
Cảnh học thêu của Kiều Quang - Khánh 
Sanh trong khuê phòng có lẽ là khung cảnh 
tình yêu đẹp nhất trên sân khấu tuồng bởi lẽ 
sân khấu cung đình phong kiến thường chỉ 
dành cho đề tài quân quốc hiếm có chỗ cho 
những tình cảm cá nhân, đặc biệt là tình yêu 
nam nữ. Vậy mà, không chỉ một lần cảnh ân ái 
riêng tư của lứa đôi được Đào Tấn đưa lên sân 
khấu tuồng. Mặc dù giữa chốn cung đình 
nhưng tẩm cung của Đát Kỷ lại được Đào Tấn 
khắc họa là một không gian sinh hoạt đời 
thường của cuộc sống vợ chồng. Ở đó không 
còn vua, không còn phi, không còn lễ giáo hà 
khắc mà chỉ có những hành động quan tâm 
chăm sóc rất đỗi bình thường của người chồng 
dành cho vợ: 
Đát Kỷ: Trong mình lạnh, mà trạo trực 
trong cổ nữa. Lại trống ngực đánh hoài khó 
chịu lắm. Xin quốc trưởng, ngài vuốt cho tôi 
một tí nào! 
Vua Trụ: Để quả nhân vuốt cho. Xuôi, 
xuôi, xuôi, xuôi! 
Đát Kỷ: Chao ơi, mỏi xương sống lắm, 
hãy đấm cho tôi một tí! 
Vua Trụ: Ừ, để quả nhân đấm cho... 
Đát Kỷ: Chao ôi! Nóng mặt lắm, biểu 
đứa mô hắn quạt phất phơ cho dễ chịu. 
Vua Trụ: Đứa nào quạt bay! 
Đát Kỷ: Thôi... ôi lạnh lắm! 
Vua Trụ: Bay quạt mạnh lắm, răng mà 
quân hư lắm. Để tao quạt cho bay coi coi. 
(Quạt) Thôi đừng rên nữa mà mệt... 
Trong Hộ sinh đàn, không gian khuê 
phòng còn là nơi tự tình, bày tỏ tâm trạng của 
người phụ nữ khi chồng đi xa: 
Luống thâm khuê vĩnh dạ ưu sầu 
Hà! Khéo loi thoi dương liễu mạnh đầu 
Càng thanh thót hoàng oanh chi thượng 
Một mình nơi khuê phòng, Lan Anh bày 
tỏ sự cô đơn, thấp thỏm và nỗi ngóng mong 
chồng trở sau bao ngày xa cách. Vế đầu mượn 
tứ thơ trong bài “Khuê oán” của Vương 
Xương Linh, vế sau mượn lời bài “Xuân oán” 
của Kim Xương Tự, Đào Tấn đã khắc họa sâu 
sắc nỗi buồn, cô đơn và sự tủi thân, ai oán 
trong lòng người thiếu phụ: 
Khuê oán 
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu 
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu 
Hốt kiếm mạch đầu dương liễu sắc 
Hối giao phu tế tịch phong hầu 
(Vợ trẻ buồng thêu chẳng biết sầu 
Ngày xuân trang điểm bước lên lầu 
Chợt thấy đầu đường phơi sắc liễu 
Tại ai giục giã chuyện phong hầu) 
Xuân oán 
Đả khởi hoàng oanh nhi 
Mạc giao chi thượng đề 
Đề thời kinh thiếp mộng 
Bất đắc đáo liêu tê (tây) 
(Xua đi cái oanh vàng 
Trên cành cấm hót vang 
Hót làm thiếp tỉnh mộng 
Liêu tây chẳng gặp chàng 
Trong hoàn cảnh này, Lan Anh tự ví 
mình như người thiếu phụ trong “Khuê oán” và 
“Xuân oán”, ngày ngày mong nhớ lang quân 
nhưng tỉnh dậy chỉ thấy bẽ bàng đơn chiếc một 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 04 - THÁNG 11 NĂM 2016 45
mình. Nàng cũng như những thiếu phụ ấy khát 
khao có được cuộc sống bình yên bên người 
mình thương yêu nhưng đối mặt với sự thật phũ 
phàng luôn là bi kịch chia ly xa cách. Tương 
phản với những chủ đề lớn lao kỳ vỹ trong 
tuồng cổ, Đào Tấn đã thực sự tinh tế, nhân văn 
khi đưa không gian khuê phòng cùng ước mơ 
của người phụ nữ lên sân khấu tuồng. 
2.2. Không gian hành trình 
Không gian hành trình là không gian có 
sự chuyển biến liên tục, thể hiện sự di chuyển 
của nhân vật từ nơi này sang nơi khác. Gắn với 
mô típ truy đuổi - chốn chạy và mô típ tha 
hương, trong tuồng của Đào Tấn xuất hiện khá 
nhiều không gian hành trình. Đó là cuộc đuổi 
bắt của Bàng Hồng với Triệu Khánh Sanh 
(Diễn Võ đình), Võ Tam Tư với Tiết Cương 
(Hộ sinh đàn); Đó là sự di chuyển của Triệu 
Khánh Sanh trên đường tha hương, Tiết 
Cương, Lan Anh lưu lạc trong rừng, Hoàng 
phi Hổ trên con đường quá ải “phản trụ, đầu 
chu”, Quan Công qua 5 ải chém 6 tướng hồi 
Cổ thành, Từ Thứ trên đường tiễn biệt anh em 
Lưu, Quan, Trương qui Tào cứu mẹ... 
Không gian hành trình thường được 
miêu tả qua không gian rừng núi, quan ải và 
không gian trên đường cô chinh. 
Không gian rừng núi thường gợi lên cảm 
giác hùng vĩ, bí ẩn và chứa đựng sự nguy hiểm. 
Chúng ta vẫn có câu “non cao rừng thẳm”, 
“rừng thiêng nước độc” để hình dung địa thế 
của loại không gian này. Các nhân vật chính 
diện thường bị đặt trong hoàn cảnh lạc giữa 
rừng sâu như một thử thách để thể hiện bản 
lĩnh, sự dũng cảm, anh hùng. Bằng tài năng, trí 
dũng hoặc được sự giúp đỡ của các nhân vật 
tâm linh, nhân vật chính sẽ vượt qua thử thách 
này để đến với thành công và hạnh phúc. Trong 
Sơn Hậu, Kim Lân cùng Thứ Phi bị lạc giữa 
rừng, chàng được hồn Khương Linh Tá biến 
thành ngọn đuốc soi đường băng rừng vượt núi 
đến thành Sơn Hậu. Đào Phi Phụng bị truy sát 
lạc trong rừng gặp miếu Quan Công và được 
Quan Công giúp thay đổi hình dáng thành Lý 
Vạn Chung trà trộn vào triều đình Cát Thượng 
Nguyên báo thù. Vợ chồng Lan Anh - Tiết 
Cương hai lần lạc nhau trong rừng, lần thứ nhất 
Lan Anh một mình đi tìm chồng trong tình cảnh 
“lấm lê lấm lết”, nhờ mưu trí, gan dạ mà nàng 
cứu được chồng đưa về Long Sơn trại; lần thứ 
hai bị tập kích ở Long Sơn trại, nàng cùng Hồ 
Nô lạc trong rừng sâu lại đúng lúc trở dạ sinh 
con, nhờ có sự giúp đỡ của thần Hộ thai nên mẹ 
tròn con vuông, tay ôm con, tay bế cháu đi tìm 
chồng. Nhờ có tổ tiên họ Tiết phù hộ, hai vợ 
chồng đã gặp lại nhau và trở về sơn trại sống 
hạnh phúc. Như vậy, có thể thấy, không gian 
rừng núi trong tuồng bản của Đào Tấn mang ý 
nghĩa như sự thử thách dành cho các nhân vật 
chính. Đó là một trong chuỗi các không gian 
hành trình tương ứng với chuỗi các thử thách 
mà nhân vật phải vượt qua để đi đến thắng lợi 
cuối cùng. 
Không gian quan ải khiến ta hình dung 
đến những ranh giới mà con người phải vượt 
qua để đến một đích nào đó. Quan ải cũng gắn 
với hình ảnh chiến trận, những đội quân chinh 
chiến liên miên, sự tang tóc và bi thương... 
Cũng như không gian rừng núi, không gian 
quan ải cũng là một trong những thử thách mà 
nhân vật phải vượt qua để khẳng định mình. 
Muốn đến Cổ thành, Quan Công phải vượt qua 
5 cửa ải, chém 6 tướng; Muốn qua ải Giới bài 
để “đầu Chu”, Hoàng Phi Hổ cũng phải vượt 
qua ải Trần Thương, Trần Ngô và biên ải do 
chính cha mình (Hoàng Cổn) trấn giữ; Muốn 
đánh quân Tào Nhân, Quan Công phải chiếm 
được Phàn Thành; Muốn đánh đổ lũ phản 
nghịch họ Tạ, Đổng Kim Lân, Phàn Diệm phải 
náu mình tại Sơn Hậu dưỡng quân suốt 15 
năm; Đào Phi Phụng và quân Cát Thượng Lân 
giao tranh ngoài biên ải. Không gian quan ải 
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE 
 No.04_November 2016 46 
cũng là không gian cho những cuộc chia ly: 
Đó là cuộc chia ly của anh em Lưu, Quan, 
Trương tiễn Từ Thứ quy Tào, Đổng Mẫu - 
Kim Lân; Đào Công - Nguyệt Tâm phải lựa 
chọn giữa trung và hiếu... (thử thách cả về tâm 
lý và lòng dũng cảm). 
Không gian trên đường cô chinh thường 
là không gian lẻ loi một mình. Không gian này 
được Đào Tấn khắc họa bằng những hình ảnh 
ước lệ thể hiện không gian rộng lớn cô liêu đối 
lập với sự nhỏ bé của con người như “sơn nhai 
hải giác” (đầu non góc bể), “góc bể chân trời”, 
“thiên cao địa hậu” (trời cao đất dày); gắn với 
những tình cảnh của con người trên đường cô 
chinh như “Nam Hồ Bắc Việt” (nay đây mai 
đó), “Sông Sở non Ngô” (xa cách), “khứ quốc 
ly gia” (bỏ nước, lìa nhà). Khung cảnh trên 
đường đi thường được miêu tả hoang vu, 
quạnh quẽ và đơn độc với các hình ảnh : “nhạn 
quy thanh”, “tàn nguyệt”, “thiên lý”, “lữ 
điếm”, “hương đài nhất vọng”, “dấu thỏ đường 
dê”, “tiếng viên điểu”... và sự ảm ảnh bởi 
tương lai mịt mờ phía trước với hình ảnh : “lộ 
nan” (đường đi khó), “lộ đa kỳ” (nhiều đường 
phía trước không biết nên đi đường nào). 
Không gian trên đường cô chinh cùng 
với không gian quan ải và không gian rừng núi 
tạo nên một bức tranh tổng thể về hành trình 
của nhân vật trong toàn bộ tác phẩm. Đó là 
không gian chính để nhân vật bộc lộ mình và 
thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. 
2.3. Không gian tâm tưởng và không 
gian tâm linh 
Không gian vật lý không phải là cõi 
không gian duy nhất của vũ trụ. Cao hơn 
không gian vật lý còn có không gian tâm 
tưởng và không gian tâm linh với sự chi phối 
bởi những quy luật tâm lý, tình cảm và trí 
tưởng tượng phong phú của con người. 
Không gian tâm tưởng được qui định bởi 
sự tác động tích cực của tình cảm lên tư duy và 
sự trỗi dậy mạnh mẽ tiềm thức khiến con 
người sinh ra những ảo giác hoặc chìm đắm 
trong những dòng suy tưởng về quá khứ hay 
sự kỳ vọng vào tương lai. Việc tác giả đào sâu 
vào tâm hồn nhân vật đến từng ngõ ngách 
thông qua những biện pháp nghệ thuật đã tạo 
ra loại không gian tâm tưởng. Nắm bắt được 
những chuyển động và sắc thái tâm trạng nhân 
vật, Đào Tấn tái hiện nó bằng ngòi bút điêu 
luyện, với cái nhìn tinh tế. Dòng suy tư của 
nhân vật tuôn chảy suốt chiều dài tác phẩm 
diễn ra trong tiềm thức tạo nên một mạch 
ngầm tâm trạng, một không gia ...  
thêm thắt các phỏng đoán, các tưởng tượng vô 
cùng hấp dẫn về thế giới đó. Các tôn giáo cũng 
cho rằng, ngoài không gian vật lý vũ trụ còn có 
cõi giới siêu hình thiên đường, địa ngục các 
cõi giới siêu hình đó tồn tại một cách khách 
quan giống như không gian vật lý chứa đựng 
nhiều sinh vật cao cấp như Ngọc Hoàng, các vị 
thần linh, các loài quỷ sứ yêu ma 
Trầm Hương các mượn cốt truyện 
Phong thần diễn nghĩa để viết lại, tác phẩm 
này được Đào Tấn xây dựng thành một không 
gian tâm linh thần bí đậm chất liêu trai. Một 
các Trầm Hương thờ Nữ Oa linh thiêng tương 
thông với cõi tiên giới, bất kì lời nói, hành 
động nào diễn ra ở các Trầm Hương thì thần 
Nữ Oa ở cõi tiên đều như đang được chứng 
kiến. Vì vậy nên khi vua Trụ có những lời nói 
và hành động suồng sã với bức tượng làm 
bằng gỗ trầm hương thì cũng như đang trực 
tiếp ghẹo trêu thần Nữ Oa. Điều đó làm chúng 
ta liên tưởng, trong thế giới này, các vị thần có 
năng lực siêu nhiên quảng đại, có thể biết được 
mọi chuyện trong thiên hạ. Trong thế giới này 
có Phật, có tiên, có thần và có cả yêu tinh, yêu 
quái. Con người, thần tiên và yêu ma cùng 
chung sống với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Thế 
giới này cũng có quy luật riêng, có lực lượng 
thống trị áp chế và sai bảo những thế lực khác. 
Vậy nên khi “chốn uy linh nhiều tiếng lăng 
khi” Thần Nữ Oa bèn “chiêu yêu huyền xuất 
không trung”. Hồ Ly, yêu quái bèn trở thành 
công cụ để trừng phạt cái ác: 
Hồ Ly: Phụng chiếu văn, phụng chiếu 
văn 
 (Tẩu) Trực hướng triều Ca, dả diệu 
thuật tiềm khuynh bạo chúa 
Tạ từ đơn phủ, trượng tôn linh đắc triển 
vị tài 
(Thẳng tới cung vua, dùng phép lạ diệt 
trừ bạo chúa 
Giã từ điện thánh, dựa oai linh thi thố 
tài hèn) 
Màn đoạt xác Đát Kỷ của Hồ Ly được 
miêu tả trong một không gian mập mờ tràn đầy 
yêu khí “Gió ở đâu ngùn ngụt Đèn trong 
trướng leo leo”, không gian quỷ mị này là bối 
cảnh thích hợp để hồ ly ra tay đuổi hồn nhập 
xác “hồn bất định, hồn bất địnhnguyện khả 
thân, nguyện khả thân”. Hồn Đát Kỷ chết đi lại 
bước vào một thế giới tâm linh khác được Địa 
tạng đón về cõi hư vô để siêu sinh tịnh độ. 
Trong thế giới này tiếp tục xuất hiện các nhân 
vật tâm linh như Phật Như Lai, Quan Âm Bồ 
Tát, và ở đây Đát Kỷ lại được kể cho biết về 
một thế giới tâm linh khác, thế giới tiền kiếp 
của mình là “người hầu dưới bệ đốt hương lễ 
Phật, bỗng sinh thói tục, nép bên đèn mỉm cười 
dâng hoa nên bị đọa xuống trần gian, mười sáu 
tuổi hoa hờn liễu thẹn” nay “trần duyên dĩ 
mãn, đồng quy tịnh độ”. Các không gian tâm 
linh lồng ghép vào nhau, từ thế giới thực sang 
thế giới ảo, từ trần gian đến thiên đình, thế giới 
con người đến với thế giới thần tiên, yêu ma 
cùng tồn tại và gây ảnh hưởng lẫn nhau theo 
quy luật nhân quả Có thể nói rằng không 
gian chính chi phối tuồng bản Trầm Hương các 
là không gian tâm linh. Trong đó không chỉ có 
thế giới con người, có thế giới thần phật mà thế 
giới của yêu tinh, yêu quái cũng được miêu tả 
một cách sinh động. Đó là thế giới hoang dã, 
thú tính của quần yêu mà không cách nào che 
giấu được. Khi Hồ Ly mở yến chiêu mời quần 
yêu về dự tiệc, Hồ Ly dạy chúng giả tiên nhưng 
bản chất yêu quái vẫn từ từ được bộc lộ, chúng 
thích ăn thịt sống, “uống rượu hi ha”, nôn mửa 
khắp nhà và bị lộ cái đuôi yêu quái. Khi bị truy 
sát, chúng bỏ chạy tán loạn, hiện nguyên hình 
và chui vào mả để chốn 
Tương tự như Trầm Hương các, các 
tuồng bản Sơn hậu, Hộ sinh đàn, Hoàng Phi 
Hổ quá giới bài quan, Khuê các anh hùng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 04 - THÁNG 11 NĂM 2016 49
cũng chứa đựng những không gian tâm linh 
mang đậm màu sắc Phật giáo và tín ngưỡng 
dân gian. Chính những nét văn hóa riêng biệt 
này biểu hiện rõ đặc trưng đa hợp của văn hóa 
dân tộc. Vì vậy mặc dù mượn cốt truyện nước 
ngoài nhưng các tác phẩm của ông vẫn hết sức 
gần gũi với người Việt. 
Không gian nghệ thuật biểu hiện trong 
tuồng của Đào Tấn rất phong phú và đa dạng. 
Cùng với những yếu tố khác của thi pháp nghệ 
thuật, không gian nghệ thuật là một trong 
những phương tiện quan trọng để tác giả xây 
dựng nhân vật, cốt truyện của tác phẩm. 
3. Thời gian nghệ thuật 
3.1. Sự đảo lộn trật tự tuyến tính thời 
gian trong tuồng 
Tuồng là loại hình sân khấu tự sự trữ 
tình phương Đông. Yếu tố tự sự được thể hiện 
qua lời kể của nhân vật và trật tự tuyến tính 
thời gian trong tác phẩm. Thời gian trong 
tuồng cổ là thời gian tuần tự một chiều, sự 
kiện gì xảy ra trước kể trước, sự kiện gì xảy ra 
sau kể sau và diễn tiến cho đến hết tác phẩm. 
Đối với các tuồng bản do Đào Tấn sáng 
tác, trật tự của thời gian dường như không còn 
tuân theo quy luật chung của tuồng truyền 
thống cũng như những nguyên tắc của sân 
khấu tự sự. Chúng ta thấy có dấu hiệu đảo lộn 
trật tự thời gian trong lời kể của nhân vật và sự 
đồng hiện thời gian - không gian trong cùng 
một cảnh. 
Không giống nhân vật mô thức trong 
tuồng cổ, nhân vật của Đào Tấn đã “thoát thai” 
khỏi dạng “nhân vật mặt nạ” quen thuộc của 
tuồng để hóa thân thành những con người thực 
có tính cách, tâm hồn và cảm xúc trong tác 
phẩm. Chính vì vậy, những suy nghĩ, tình cảm 
của nhân vật không tuân theo mô thức mà tuân 
theo những quy luật của tư duy, tâm lý. Và 
dường như nhân vật của Đào Tấn “nghĩ” nhiều 
hơn là nhân vật “hành động”. Chính trong 
dòng suy nghĩ ấy, thời gian đã không tuân theo 
những trật tự thông thường. Trong Diễn võ 
đình, Triệu Khánh Sanh trên đường trốn chạy 
khỏi sự truy sát của Bàng Hồng, chàng miên 
man suy nghĩ về thân phận long đong hiện tại, 
lại nhớ về những ngày tháng hạnh phúc bên 
Kiều Quang và hy vọng tương lai có thể “châu 
về hiệp phố” rồi lại giật mình với thực tại bị 
truy sát đến nơi: 
Khánh sanh: (Tán) Phong cấp viên 
thanh sầu 
Đồ cùng cổ nhân khấp 
Có chữ “Tái ông thất mã tri phi phúc” 
Còn sự tình của tôi bây giờ, biết khi 
nào... 
Hiệp phố hoàn châu khả dĩ giải ưu 
(Nam) Xăn tay lần gỡ sợi sầu 
Tóc lo đã trổ trên đầu hùng anh 
Khôn lau nước mắt thường tình 
Em ơi! Nỗi ai ngơ ngác nỗi mình bâng 
khuâng 
Tiếng ba quân nghe chừng rộn đến 
Hò họ... Giục vó lừa tách dặm sơn khê 
Rõ ràng có sự pha trộn giữa hiện tại, quá 
khứ và tương lai trong suy nghĩ của Khánh 
Sanh. Thủ pháp đảo ngược thời gian trong suy 
nghĩ và đồng hiện thời gian để làm nổi bật tâm 
trạng bế tắc, bi thương của con người được 
Đào Tấn sử dụng trong hầu hết các phân đoạn 
độc thoại nội tâm của nhân vật hay tâm sự trên 
đường cô chinh như Tiết Cương, Hoàng Phi 
Hổ, Lan Anh, Giả Thị, Đát Kỷ... 
Một biểu hiện khác của thời gian đồng 
hiện là việc tái hiện song hành các hành động, 
tâm trạng của nhân vật trong cùng một khoảng 
thời gian. Phương pháp tái hiện này khiến 
chúng ta liên tưởng tới cách phản ánh đặc 
trưng của ngôn ngữ điện ảnh. Trong cùng một 
cảnh thể hiện nhiều không gian và thời gian 
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE 
 No.04_November 2016 50 
khác nhau với các nhân vật có những hành 
động, cảm xúc khác nhau, từ đó bao quát được 
toàn bộ bối cảnh tác phẩm trong một phạm vi 
rộng. Trong Cổ thành, ngay màn giáo tuồng, ta 
thấy xuất hiện ba nhân vật ở ba không gian 
khác nhau cùng bày tỏ suy nghĩ và tâm trạng 
của mình. Đó là Trương Liêu với khí thế bừng 
bừng đuổi theo Quan Công: 
Mạc nại phong sương phi sất mã 
Bất phân trú dạ đáo quan thành 
Tiết phong mộc võ thiên sơn lộ 
Đới nguyệt phi tinh vạn lý trình 
(Chẳng nài gió bụi lao thân ngựa 
Không quản ngày đêm tới ải quan 
Dầm dãi gió mưa ngàn đỉnh núi 
Mang sao đội nguyệt vượt muôn trùng) 
Còn Quan Vũ lúc đó cũng với khí thế 
hùng dũng ngút trời chém tướng băng ải với 
mong muốn sớm nhất đưa hai chị về Cổ thành 
hội ngộ với đại ca và tam ca: 
Cái thế anh hùng mạc dữ kinh 
Phong sương vạn lý triển bằng trình 
Ngũ quan trực quá phò xa trượng 
Sơn hải gian nguy nhược lý bình 
(Dưới thế anh hùng dễ mấy ai 
Gió sương muôn dặm cánh chim trời 
Xông pha năm ải phò hai chị 
Đạp núi san bằng mọi hiểu nguy) 
Cũng trong thời gian ấy, Hạ Hầu Đôn 
cũng đang trấn ải chờ Quan Vũ bằng một khí 
thế oai phong, hùng dũng: 
Ngang ngang khí khái dục lăng tiêu 
Khả hiệp thái sơn bắc hải siêu 
Thế thượng vô song, chiến địa thùy năng 
tài lực địch? 
Nhân gian đệ nhật, họa đài ưng cộng 
tánh danh bêu 
(Khí khái hiên ngang muốn vượt lên 
trời thẳm 
Cắp nách hòn núi Thái vượt qua bể bắc 
Trên đời không có hai, trên chiến trường 
ai là kẻ đủ sức đối chọi 
Trong nhân gian ta là bậc nhất, tên tuổi 
đáng nêu chung với các tướng giỏi đời xưa) 
Cách kết cấu ba hồi ngắn liên tiếp chỉ 
bao gồm lời tự bạch của ba nhân vật trong ba 
khung cảnh khác nhau là sự đồng hiện thời 
gian trên bề mặt văn bản. Do giới hạn tuyến 
tính của ngôn ngữ, Đào Tấn dùng các hồi ngắn 
để chuyển không gian liên tục như những tia 
cắt chớp nhoáng để diễn tả ba không gian cùng 
xảy ra trong một thời gian. Thông thường 
trong tuồng, các nhân vật chỉ đối thoại trực 
tiếp trong cùng một không gian, thời gian chứ 
hiếm khi diễn tả ba không gian khác nhau 
trong một thời gian. Đây là một trong những 
cách tân đáng kể về mặt sân khấu của Đào 
Tấn. Việc miêu tả ba nhân vật với tài năng 
tuyệt đỉnh khí thế hùng cường đồng hiện trong 
một thời gian khiến chúng ta dự đoán được sự 
gặp gỡ của ba nhân vật này sẽ có những biến 
cố không ngờ. Điều đó tạo sự lôi cuốn, hấp 
dẫn đối với người xem tuồng và cũng làm cho 
sân khấu tuồng chân thực và sinh động hơn. 
Việc đồng hiện thời gian còn được Đào 
Tấn sử dụng khi miêu tả tâm trạng của những 
nhân vật cặp đôi như: Lan Anh - Tiết Cương, 
Khánh Sanh - Kiều Quang, Hoàng Phi Hổ - 
Giả Thị. Các cặp đôi này đều phải chịu cảnh 
ân ái chia ly, tâm trạng buồn, nhớ thương khắc 
khoải đều được thể hiện qua suy nghĩ và độc 
thoại nội tâm. Việc đồng hiện thời gian giúp 
người đọc đối chiếu tâm trạng của hai nhân vật 
khiến nỗi đau như được nhân hai, sức mạnh 
truyền cảm mạnh mẽ hơn rất nhiều lần. 
3.2. Thời gian tâm tưởng và thời gian 
tâm linh 
Thời gian tâm tưởng và thời gian tâm 
linh trong tuồng đều bị chi phối bởi quan niệm 
cá nhân và mang tính ước lệ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 04 - THÁNG 11 NĂM 2016 51
Trong văn học trung đại nói chung và 
trong tuồng nói riêng, con người thường có xu 
hướng muốn làm chủ thời gian hay nói cách 
khác thời gian thường được phản ánh qua lăng 
kính chủ quan của con người. Do vậy thời gian 
tâm tưởng thường có sự khác biệt khá lớn so 
với thời gian thực tế. Quy luật “ngày vui ngắn 
chẳng tày gang” chi phối cảm quan về thời 
gian của hầu hết các nhân vật trong tuồng. 
Trong hoàn cảnh chia ly, các nhân vật đều có 
xu hướng hoài niệm về những tháng ngày hạnh 
phúc và cảm nhận khoảng thời gian đó thật 
ngắn ngủi, kèm theo đó là những tiếc nuối 
khôn nguôi. Đó là tâm trạng Hoàng Phi Hổ - 
Giả Thị trong phút hàn huyên ngắn ngủi tại 
miếu thần, tâm trạng của Khánh Sanh - Kiều 
Quang lúc chia tay tiễn Khánh Sanh lên đường 
trốn chạy sự truy đuổi của Bàng Hồng, tâm 
trạng Tiết Cương - Lan Anh sau lần hội ngộ 
thứ nhất tại Long Sơn trại. Sự đối lập giữa 
“ngày vui thì ngắn ngủi” còn những ngày chia 
xa thì dài dằng dặc bị chi phối bởi tình cảm và 
cảm xúc của con người. Đứng trước đau buồn, 
đứng trước nỗi cô đơn, con người thường có 
xu hướng chìm đắm vào trong đó và tự huyễn 
hoặc mình. Vì thế thời gian tâm tưởng đôi khi 
được biểu hiện bằng thời gian huyền ảo với 
cặp đối lập “xưa sao nay sao..” hoặc “bao 
giờ như xưa”: 
“Ngày ngày lặn suối trèo non 
Bao giờ cho đặng vuông tròn như xưa” 
Thời gian tâm tưởng thường xuất hiện 
vào lúc “vầng ô khuất núi”, “bóng tà” hay 
“trăng tàn”, “bóng ác hầu chênh” là những thời 
điểm gợi buồn trong thơ văn cổ. 
Thời gian tâm linh là thời gian gắn với 
sự xuất hiện của các yếu tố tâm linh trong tác 
phẩm. Thời điểm được chọn để xuất hiện các 
yếu tố tâm linh thường là đêm tối, chạng vạng 
hoặc rạng sáng. Đó là những thời điểm vượng 
âm khí hoặc thời khắc giao nhau giữa ngày và 
đêm. Đát Kỷ bị đoạt hồn khi “đã khuya khoắt 
ỷ khôn làm tỉnh”, Linh Tá xuất hiện soi đường 
giữa đêm tối mịt mùng, Giả Thị hiện hồn khi 
Hoàng Phi Hổ đang ngủ bỗng thấy “Gió phút 
động bên màn/ Kìa tay ai cầm đuốc?” 
Thời gian tâm linh có thể làm ta quên đi 
sự khác biệt trong hiện thực vì nó tiếp nối hiện 
thực, nhập làm một với thời gian trong hiện 
thực hoặc là một phần của hiện thực. Do đặc 
trưng của sân khấu truyền thống Việt Nam là 
tự sự - trữ tình, diễn tiến các sự kiện diễn ra 
theo một chiều, các sự kiện tiếp nối nhau xuất 
hiện theo thời gian một cách tuần tự nên thời 
gian thực và thời gian tâm linh xen kẽ nối tiếp 
nhau. Sự chuyển biến thời gian trong tuồng rất 
nhanh, chỉ qua lời thuật của nhân vật mà ta có 
thể đi từ không gian này sang không gian 
khác, từ thời gian thực đến thời gian tâm linh 
trong nháy mắt. 
Thời gian tâm linh trong tuồng có những 
nhịp điệu, sắc độ riêng để phản ánh hiện thực. 
Yếu tố tâm linh xuất hiện trong tuồng thường 
mang một ý nghĩa nhất định nên chứa đựng 
trong đó khoảng sâu văn hóa cần diễn giải. Vì 
vậy thời gian tâm linh cũng có thể được rút 
ngắn trong một câu trần thuật hay kéo dài bằng 
cách miêu tả rất tỉ mỉ mọi diễn biến tâm trạng, 
mọi diễn biến hành động của nhân vật, các sự 
kiện hoặc nhấn nhá trong câu ca, lời hát. 
Khương Linh Tá hiện hồn soi đèn cho Kim 
Lân cả đêm nhưng thời gian hiện hồn được 
nén đọng trong một câu trần thuật. Giả Thị 
hiện hồn than khóc với chồng trong chốc lát 
nhưng tâm tư tình cảm dãi bày đến cả lớp 
tuồng. Thời gian tâm linh là biểu hiện sinh 
động của thời gian nghệ thuật trong tuồng. 
Như vậy có thể thấy, không gian và thời 
gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào Tấn 
cũng chịu sự chi phối của cảm thức không gian 
thời gian trong văn học cổ trung đại như không 
gian khuê phòng, không gian quan ải, thời gian 
TAN TRAO UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE 
 No.04_November 2016 52 
tâm tưởng Bên cạnh đó, ông có những cách 
tân đáng kể khi sử dụng đa dạng các kiểu 
không gian, thời gian tâm linh để biểu hiện đời 
sống tinh thần phong phú của con người. Đặc 
biệt là sự đảo lộn trật tự tuyến tính của thời 
gian, sử dụng linh hoạt không gian hành trình 
và sự đồng hiện nhiều không gian thời gian 
trong cùng một cảnh đã đem lại những hiệu 
quả nghệ thuật độc đáo cho kịch bản tuồng của 
ông. Với những cách tân mạnh mẽ về nội dung 
cũng như nghệ thuật, Đào Tấn xứng đáng là 
bậc thầy của văn chương tuồng, là nhà biên 
kịch tuồng xuất sắc nhất mọi thời đại, là “Hậu 
tổ nghề tuồng” của Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hoàng Chương (Chủ biên - 2008), Đào Tấn - trăm năm nhìn lại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội; 
2. Dương Quảng Hàm (1941), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Đông Pháp, Hà Nội; 
3. Hoàng Châu Ký (1978), Tuồng cổ (tập 1), Nxb Văn hóa, Hà Nội; 
4. Vũ Ngọc Liễn (2005), Đào Tấn tuồng hát bội, Nxb Sân khấu, Hà Nội; 
5. Mịch Quang (1963), “Bàn về một vài đặc điểm của văn học tuồng”, Văn học, (6), tr. 51 - 63 
6. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí 
Minh, TPHCM; 
7. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà 
Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfkhong_gian_thoi_gian_nghe_thuat_trong_kich_ban_tuong_dao_tan.pdf