Khuyến công nghệ: Một cơ hội chính sách cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Tóm tắt:
Bài viết cung cấp lý luận về khuyến công nghệ, một chính sách hỗ trợ trực tiếp doanh
nghiệp để thúc đẩy hiện đại hóa và cải thiện về công nghệ, tập trung vào các doanh nghiệp
nhỏ và vừa (DNNVV) đã định hình; xác định rõ phạm vi, đối tượng của khuyến công nghệ
trong không gian chính sách, làm nổi bật cách tiếp cận “cầm tay chỉ việc” và “vươn tới”
doanh nghiệp của khuyến công nghệ. Phân tích các chương trình, tổ chức hiện có nội dung
hỗ trợ kỹ thuật cho DNNVV, bài viết chỉ ra rằng, việc dựa vào bộ máy cơ quan nhà nước,
cán bộ nhà nước, ngân sách nhà nước và cơ chế “xin-cho” khiến các chương trình này
khó “vươn tới” được số đông DNNVV, tác động của các chương trình do vậy chưa đủ sâu
rộng. Hạn chế này đồng thời cũng cho thấy, khuyến công nghệ là một cơ hội chính sách
đầy tiềm năng chờ được khai thác. Bài viết đề xuất ý tưởng thiết kế một chương trình
khuyến công nghệ tại Việt Nam theo nguyên lý liên kết mạng lưới, với các trung tâm
khuyến công nghệ ở địa phương là hạt nhân, sử dụng cơ chế quan hệ đối tác công-tư để có
được tính chuyên nghiệp, nhanh nhạy trong cung cấp dịch vụ, và cơ chế hợp tác công-công
để huy động được nguồn lực từ các bộ ngành, địa phương, tổ chức quốc tế, các chương
trình, dự án có cùng mục tiêu hỗ trợ DNNVV. Ý tưởng thiết kế này còn khá mới ở Việt
Nam, đương nhiên sẽ có những xung đột, vướng mắc với cơ chế, chính sách hiện hành. Bài
viết cũng gợi ý một số hướng tháo gỡ những vướng mắc này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khuyến công nghệ: Một cơ hội chính sách cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
JSTPM Tập 9, Số 1, 2020 35 KHUYẾN CÔNG NGHỆ: MỘT CƠ HỘI CHÍNH SÁCH CUNG CẤP HỖ TRỢ KỸ THUẬT CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM Nguyễn Võ Hưng1 Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ Tóm tắt: Bài viết cung cấp lý luận về khuyến công nghệ, một chính sách hỗ trợ trực tiếp doanh nghiệp để thúc đẩy hiện đại hóa và cải thiện về công nghệ, tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã định hình; xác định rõ phạm vi, đối tượng của khuyến công nghệ trong không gian chính sách, làm nổi bật cách tiếp cận “cầm tay chỉ việc” và “vươn tới” doanh nghiệp của khuyến công nghệ. Phân tích các chương trình, tổ chức hiện có nội dung hỗ trợ kỹ thuật cho DNNVV, bài viết chỉ ra rằng, việc dựa vào bộ máy cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước, ngân sách nhà nước và cơ chế “xin-cho” khiến các chương trình này khó “vươn tới” được số đông DNNVV, tác động của các chương trình do vậy chưa đủ sâu rộng. Hạn chế này đồng thời cũng cho thấy, khuyến công nghệ là một cơ hội chính sách đầy tiềm năng chờ được khai thác. Bài viết đề xuất ý tưởng thiết kế một chương trình khuyến công nghệ tại Việt Nam theo nguyên lý liên kết mạng lưới, với các trung tâm khuyến công nghệ ở địa phương là hạt nhân, sử dụng cơ chế quan hệ đối tác công-tư để có được tính chuyên nghiệp, nhanh nhạy trong cung cấp dịch vụ, và cơ chế hợp tác công-công để huy động được nguồn lực từ các bộ ngành, địa phương, tổ chức quốc tế, các chương trình, dự án có cùng mục tiêu hỗ trợ DNNVV. Ý tưởng thiết kế này còn khá mới ở Việt Nam, đương nhiên sẽ có những xung đột, vướng mắc với cơ chế, chính sách hiện hành. Bài viết cũng gợi ý một số hướng tháo gỡ những vướng mắc này. Từ khóa: Quan hệ đối tác công tư; Khuyến công nghệ; Lan truyền công nghệ. Mã số: 19060401 1. Bản chất của khuyến công nghệ Khuyến công nghệ là một hình thức hỗ trợ về công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này. Sau một số định nghĩa với cách lựa chọn câu từ khác nhau, Shapira et al. (2015) viết: “Khuyến công nghệ được định nghĩa là việc hỗ trợ trực tiếp doanh nghiệp để thúc đẩy hiện đại hóa và cải thiện về công nghệ, tập trung vào các DNNVV đã định hình”. Có 3 điểm chốt trong định nghĩa này: Thứ nhất, “hỗ trợ trực tiếp doanh nghiệp”, được hiểu là hỗ trợ theo yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp, “cầm tay chỉ việc” hướng dẫn 1 Liên hệ tác giả: nvhungism@yahoo.com 36 Khuyến công nghệ: một cơ hội chính sách cung cấp hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp; Thứ hai, nhằm “thúc đẩy hiện đại hóa và cải thiện về công nghệ”, chứ không tập trung vào phát triển những công nghệ mới mang tính đột phá; Thứ ba, nhằm vào “DNNVV đã định hình” chứ không phải là các doanh nghiệp khởi nghiệp (start-up) và thường nhằm vào các DNNVV trong lĩnh vực chế biến, chế tạo2. Khuyến công nghệ là một loại hoạt động lan truyền công nghệ nhưng có đặc thù riêng về cách thực hiện, loại công nghệ và đối tượng thụ hưởng. Về nguồn gốc, khuyến công nghệ được lấy cảm hứng từ thành công của khuyến nông trong việc giúp nông dân nâng cao năng suất bằng cách chủ động tiếp cận người nông dân để giới thiệu với họ những cách làm tốt nhất cho công việc của họ. Tương tự như khuyến nông, điểm mấu chốt của khuyến công nghệ là chủ động tìm đến DNNVV để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về các vấn đề năng suất, chất lượng, công nghệ mà trong nhiều trường hợp người chủ và/hoặc cán bộ quản lý DNNVV còn chưa nắm rõ; giúp họ xác định cơ hội cải thiện; và chỉ cho doanh nghiệp những dịch vụ hỗ trợ công nghệ mà họ có thể được hưởng lợi. Trong một số tài liệu về chính sách công nghiệp, khuyến công nghệ đôi khi được sử dụng đồng nghĩa với khuyến công, khuyến sản xuất. Tuy nhiên, nhiều tác giả đề xuất không nên sử dụng lẫn hai khái niệm này. Thực tiễn ở nhiều nước, khuyến công thường nhắm tới đối tượng là những doanh nghiệp yếu thế và tập trung vào việc hỗ trợ doanh nghiệp lập kế hoạch kinh doanh, định hướng chiến lược, kế toán tài chính, nghiên cứu làm thị trường, trong khi đó nội dung hỗ trợ về công nghệ thường hạn chế3. Để làm rõ phạm vi, đối tượng của khuyến công nghệ, Shapira (2015) phân biệt khuyến công nghệ với một số khái niệm liên quan như sau: “Khuyến công nghệ không chủ ý nhằm chuyển giao công nghệ từ phòng thí nghiệm mà là các biện pháp mang tính hệ thống để cải thiện hoạt động công nghệ của doanh nghiệp. Khuyến công nghệ không chủ ý nhằm vào công nghệ đẳng cấp mà là những cải tiến thực dụng trong hoạt động và tác nghiệp, thông thường là với những công nghệ đã được kiểm chứng về thương mại. Khuyến công nghệ không thuần túy là một chương trình (R&D4) của nhà nước mà là một quá trình được dẫn dắt bởi nhu cầu của doanh nghiệp, các cơ hội thị trường và dựa vào các nguồn lực (tri thức công nghệ) hiện có. Khuyến công nghệ không phải là “phương thuốc” để giải quyết khủng hoảng hay là những thay đổi cấp tiến, mà hoạt động trên một nền tảng công nghiệp tương đối ổn định”. 2 Hỗ trợ kỹ thuật cho DNNVV ở ngành dịch vụ không được gọi là "khuyến" và thường do các trung tâm địa phương chuyên môn hóa theo ngành nghề (bán lẻ, du lịch,...) thực hiện (Shapira et al, 2017). 3 Ở Việt Nam, khuyến công cũng có phạm vi khá hẹp, nhằm vào công nghiệp “nông thôn” và/hoặc sản xuất sạch hơn. 4 Chú thích của tác giả. JSTPM Tập 9, Số 1, 2020 37 Khuyến công nghệ tuy có yếu tố chuyển giao công nghệ (CGCN) nhưng khác với CGCN theo ngữ nghĩa phổ biến hiện nay của cụm từ này. Trong các bàn luận về chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới hiện nay, chuyển giao công nghệ thường được dùng như một thuật ngữ chuyên biệt để chỉ nỗ lực thương mại hóa các kết quả nghiên cứu (được nhà nước tài trợ) của các cơ quan KH&CN, các trường đại học. Các kết quả nghiên cứu này thường là công nghệ mới, tiên tiến nhưng có mức độ sẵn sàng thấp5, còn cần thêm các bước phát triển, thử nghiệm, kiểm tra tính khả thi ở quy mô công nghiệp, kiểm tra tính khả thi về thị trường,... trước khi ra được thị trường hoặc được ứng dụng trên thực tiễn. Về phân loại chính sách, chuyển giao công nghệ được xếp vào nhóm chính sách từ phía cung (có công nghệ, tìm cách chuyển giao - hay còn gọi là chính sách công nghệ đẩy), trong khi đó, khuyến công nghệ là một loại chính sách từ phía cầu (xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp). Khuyến công nghệ thường không nhằm vào công nghệ tiên tiến, đẳng cấp mà tập trung vào khuyến cáo, hỗ trợ áp dụng những công nghệ có sẵn, đã được kiểm chứng và được giới doanh nghiệp công nhận6. Trong bối cảnh Việt Nam, thuật ngữ chuyển giao công nghệ ngoài ý nghĩa như trên còn bao gồm cả việc chuyển giao các công nghệ đã ổn định, các công nghệ “thấp” nên có nội dung phần nào trùng với nội dung của khuyến công nghệ, tuy nhiên, đặc thù của khuyến công nghệ là chủ động “vươn tới” doanh nghiệp, thay vì xây dựng một cơ sở dữ liệu về công nghệ chuyển giao và thụ động chờ doanh nghiệp đến tiếp cận. Khuyến công nghệ cũng khác với dịch vụ kinh doanh hay dịch vụ công nghiệp. Dịch vụ công nghiệp thường gắn với các dịch vụ hỗ trợ chung bao gồm hỗ trợ về lập kế hoạch, tài chính, thuế và làm thị trường. Khuyến công nghệ cũng khác với tư vấn thương mại, mặc dù một số nội dung của khuyến công nghệ có thể trùng lặp với tư vấn thương mại. Khái quát sự khác biệt của khuyến công nghệ với các nhóm công cụ chính sách khác và nhằm chỉ rõ vị trí của khuyến công nghệ trong hệ thống các chính sách về đổi mới, Shapira et. al. (2015) đưa ra mô tả trong Hình 1 dưới đây. 5 Thường là công nghệ có mức độ sẵn sàng ở mức 2-3 theo thang 9 bậc sẵn sàng công nghệ (Technology Readiness Level - TRL) của NASA. 6 Gần đây với sự phát triển khó lường đoán của các xu hướng công nghệ 4.0, nhiều nhà nghiên cứu đề xuất hoạt động khuyến công nghệ cần và có thể đóng vai trò khuyến cáo cộng đồng doanh nghiệp nhanh chóng tiếp nhận công nghệ mới, góp tiếng nói tạo ra các chuẩn mực trong tiến trình phát triển các công nghệ này. Tuy nhiên, ngay cả khi thêm chức năng này thì khuyến công nghệ vẫn tập trung chính vào những công nghệ có độ sẵn sàng ở mức cao. 38 Khuyến công nghệ: một cơ hội chính sách cung cấp hỗ trợ kỹ thuật Nguồn: Shapira et al (2015) Hình 1. Vị trí của khuyến công nghệ Khuyến công nghệ được xem là một bộ phận của chính sách đổi mới, tuy nhiên, khuyến công nghệ không nhằm vào việc phát triển các công nghệ mới, tạo ra các tài sản trí tuệ hoặc thành lập doanh nghiệp mới mà nhằm phổ biến các công nghệ đã được kiểm chứng, các thực hành tốt đến DNNVV đã định hình nhằm nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh. Khuyến công nghệ cũng được xem là một cấu phần trong “mix” (tổ hợp) chính sách hỗ trợ DNNVV, được xếp vào nhóm dịch vụ “thật” theo nghĩa là những hoạt động trực tiếp với doanh nghiệp, chuyển giao tri thức và kích thích học hỏi bằng “cầm tay chỉ việc”, tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới và phát triển kinh tế. Một chương trình khuyến công nghệ truyền thống thường cung cấp nhiều loại dịch vụ kỹ thuật khác nhau, tập trung vào những công nghệ có mức độ sẵn sàng từ mức 5 đến mức 9 của thang phân loại độ sẵn sàng công nghệ do NASA xây dựng (Technology Readiness Level - TRL), tức là các hoạt động từ nghiên cứu ứng dụng giải quyết vấn đề cụ thể của doanh nghiệp đến hấp thu, làm chủ và sử dụng công nghệ đã hoàn thiện. Mỗi chương trình khuyến công nghệ, thậm chí mỗi trung tâm khuyến công nghệ thường có trọng tâm riêng, tùy thuộc yêu cầu, bối cảnh đặc thù của mỗi nước, mỗi địa phương. Có chương trình chỉ tập trung vào việc phổ biến các công nghệ có sẵn, áp dụng các công cụ quản lý chất lượng, công cụ cải thiện năng suất lao động, cách làm tốt đã được kiểm chứng (chỉ tập trung vào hấp thu, làm chủ, sử dụng công nghệ). Có chương trình cung cấp cả dịch vụ nghiên cứu, chế tạo vật mẫu, khai thác phòng thí nghiệm tiên tiến (GAO, 2013; Kolodny H. et al, 2001; Fukugawa N., 2008; Fukugawa N. & CÔNG NGHỆ Ươm tạo, trợ cấp nghiên cứu và đổi mới, li-xăng công nghệ, trung tâm R&D Khuyến và nâng cấp công nghệ Điều chỉnh thương mại Xây dựng phương án kinh doanh cơ bản, phương án thị trường, vay vốn Chu kỳ phát triển Khởi nghiệp Tiên tiến Ổn định Hạn chế Đang hoạt động Giảm sút JSTPM Tập 9, Số 1, 2020 39 Akira G., 2016; Intarakumnerd P. et al, 2010; Supattaraprateep S., 2010). Các dịch vụ khuyến công nghệ cụ thể theo đó cũng được hiệu chỉnh cho phù hợp với các doanh nghiệp khách hàng. Có thể liệt kê một số dịch vụ khuyến công nghệ phổ biến như sau: - Cung cấp thông tin về cơ hội cải tiến bằng các công nghệ hiện có, các điển hình thực hành tốt, xu hướng quốc tế, các quy định có liên quan, mạng lưới kinh doanh, cơ hội để trở thành nhà cung cấp của chính phủ và các dịch vụ khác; - So sánh đối chuẩn giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành công nghiệp ở cấp quốc gia và quốc tế về đo lường mức hiệu suất; - Hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn (công cụ quản lý chất lượng và công cụ cải thiện năng suất) trong khuôn khổ các dự án cải tiến được thiết kế riêng cho các doanh nghiệp quan tâm; - Đào tạo nhân viên sản xuất và nhân viên hành chính để sử dụng hiệu quả các công nghệ tiên tiến hơn so với những công nghệ trước đây được doanh nghiệp sử dụng; - Cung cấp các dịch vụ cho một nhóm hoặc một mạng lưới các doanh nghiệp có nhu cầu giải quyết vấn đề chung mà không trực tiếp liên quan đến sự cạnh tranh giữa họ; - Dự án liên kết giữa các doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu (phòng thí nghiệm công lập, trường đại học, viện nghiên cứu,...) để giải quyết các vấn đề cụ thể có liên quan đến sản phẩm hoặc quy trình của doanh nghiệp; - Tư vấn về chiến lược phát triển mới cho doanh nghiệp và hỗ trợ trong việc chẩn đoán và quản lý thay đổi sắp xảy ra trong quá trình thực hiện. Các dịch vụ như trên thực tế có thể được đáp ứng thông qua thị trường dịch vụ kỹ thuật. Tuy nhiên, đây là loại thị trường “mỏng” bởi các nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật vì lợi nhuận thường chỉ tập trung phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có khả năng thanh toán theo giá thị trường cho những dịch vụ này. Thị trường dịch vụ kỹ thuật phục vụ DNNVV trong ngành chế biến chế tạo (loại doanh nghiệp có khả năng chi trả hạn chế) là một thị trường không hoàn chỉnh, có nhiều “lỗi thị trường” hay “thất bại thị trường”, và khuyến công nghệ có vai trò góp phần khắc phục những “lỗi thị trường” này. Có thể liệt kê một số “lỗi” hay “thất bại thị trường” sau đây: - Thất bại về thông tin. DNNVV không có đủ kiến thức để hiểu đúng những vấn đề riêng của họ do thiếu nguồn tài lực và nhân lực đủ lớn để thu thập và phân tích thông tin. Kết quả là, họ “bế tắc” trong phát triển và chỉ tập trung được cho các việc sự vụ hàng ngày; 40 Khuyến công nghệ: một cơ hội chính sách cung cấp hỗ trợ kỹ thuật - Thất bại do sự không chắc chắn. DNNVV có thể biết họ cần phải cải thiện điều gì nhưng hoài nghi về việc liệu dự án cải thiện có mang lại được kết quả xứng đáng với khoản đầu tư cần phải bỏ ra hay không; - Bất đối xứng thông tin. DNNVV không biết được nhà cung cấp dịch vụ nào là phù hợp, liệu có đáng tin cậy hay không, có đáng “đồng tiền bát gạo” hay không; - Thất bại thị trường tài chính. Tín dụng cấp cho các dự án cải tiến của DNNVV thường rất hạn chế; - Thất bại về điều phối và chi phí cố định. Đối với từng DNNVV riêng biệt thì chi phí cho chương trình cải tiến thường khá cao do quy mô thị trường dịch vụ loại này thường là nhỏ. Ngoài ra, nhu cầu của DNNVV về dịch vụ khuyến công nghệ thường không được bộc lộ trên thị trường, không có tín hiệu để phía cung có thể đáp ứng một cách phù hợp. Ngoài việc khắc phục những “lỗi thị trường” như trên, khuyến công nghệ còn nhằm khắc phục các “lỗi hệ thống” của hệ thống đổi mới như: (i) Trình độ, kiến thức chuyên môn của doanh nghiệp chưa đủ để họ có thể học hỏi, hấp thu hay tạo ra công nghệ mới; (ii) Tri thức, kỹ năng của các cấu phần của hệ thống không bổ sung, bù đắp được cho nhau. Trong nhiều trường hợp DNNVV không tự nhìn ra những vấn đề của họ hoặc có nhìn ra cũng không đủ năng lực, không đủ kết nối và hỗ trợ từ bên ngoài để giải quyết. Khuyến công nghệ, do vậy, còn đóng vai trò trung gian công nghệ kết nối các bên liên quan và thúc đẩy tương tác trong hệ thống đổi mới (Nguyễn Võ Hưng, 2003). Theo Sapira et al (2015), thực tiễn ở nhiều nước cho thấy, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thường tập trung vào hai thái cực. Ở một cực, chính phủ có chính sách nhằm vào những doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khởi nghiệp có triển vọng tăng trưởng nhanh, tập trung hỗ trợ thúc đẩy loại doanh nghiệp này để chúng có thể vươn lên, trở thành đầu tầu kinh tế. Ở một cực khác, chính sách lại nhằm vào các doanh nghiệp yếu thế, như doanh nghiệp nông thôn, doanh nghiệp ở các khu vực kém phát triển,... Số đông doanh nghiệp sản xuất, mà chủ yếu là DNNVV, nằm ở giữa hai cực này, tuy luôn được đánh giá là lực lượng có đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế, có lý do chính đáng về những “lỗi thị trường” cũng như “lỗi hệ thống” để nhà nước cần can thiệp vào việc cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và cũng có nhiều chương t ... hệ mới; thiết kế - chế tạo vật mẫu, in 3D; các dịch vụ về sở hữu trí tuệ; - So sánh đối chuẩn giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành ở trong nước và nước ngoài (nếu phù hợp) về hiệu suất; Chẩn đoán vướng mắc công nghệ, lãng phí, nguy cơ, xác định các cơ hội cải thiện phù hợp; - Hỗ trợ tiếp cận tư vấn dự án áp dụng công cụ quản lý (ISO, TQM,...), công cụ tiết giảm tránh lãnh phí, nâng cao NSLĐ (5S, Lean,...) được chuyên biệt hóa phù hợp với đặc thù doanh nghiệp; - Xây dựng và vận hành một nền tảng với cơ chế cho phép DNNVV nhận ra và phát tín hiệu về nhu cầu tìm giải pháp cho những vướng mắc kỹ thuật - công nghệ cụ thể để qua đó tìm kiếm, kết nối với nhà cung cấp giải pháp phù hợp; - Hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm, liên kết với đối tác phù hợp (viện nghiên cứu, viện thiết kế kỹ thuật, phòng thí nghiệm, đại học, nhà nghiên cứu độc lập, doanh nghiệp,) để xây dựng dự án nghiên cứu tìm giải pháp, đồng thời tìm nguồn kinh phí phù hợp cho dự án; Do phần lớn DNNVV trong công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam đang và sẽ còn tập trung chủ yếu vào công đoạn sản xuất trên nền tảng hệ thống thiết bị - công nghệ du nhập từ nước ngoài, với các sản phẩm làm theo thiết kế - yêu cầu - chỉ dẫn của khách hàng và/hoặc theo mẫu sao chép, điều chỉnh từ các sản phẩm của doanh nghiệp đi trước hoặc sản phẩm đã có ở nước ngoài nhưng là mới đối với trong nước (Nguyễn Võ Hưng, 2006; 2014; 2019),... nên những dịch vụ như trên được xem là phù hợp và có nhu cầu lớn. Với cơ chế hiện hành (và dự đoán là chưa thể thay đổi trong 5 năm tới), Chương trình khuyến công nghệ này cần được thể chế hóa, có thể dưới hình thức là một quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình. Bằng cách này, Chương trình mới có nguồn ngân sách và quan trọng hơn là tính chính danh để hoạt động. 50 Khuyến công nghệ: một cơ hội chính sách cung cấp hỗ trợ kỹ thuật Tuy nhiên, do hiện nay đã và sẽ còn có các chương trình của các bộ, ngành, địa phương, tổ chức quốc tế,... có mục tiêu, nội dung hỗ trợ kỹ thuật chồng lấn với các dịch vụ khuyến công nghệ, nên để bù trừ điểm mạnh - điểm yếu của các chương trình hiện có, Chương trình sẽ phải tập trung vào: (i) vai trò trung gian kết nối nhu cầu của DNNVV với các nhà cung cấp giải pháp, công nghệ, dịch vụ tư vấn kỹ thuật chuyên nghiệp,..., và với các chương trình hỗ trợ DNNVV đang vận hành; (ii) tạo dựng “luật chơi” với các khuyến khích phù hợp cho các loại đối tượng khác nhau. Chương trình không cần và không nên thành lập bộ máy riêng từ trung ương tới địa phương và không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước cấp riêng cho Chương trình để triển khai tất cả các hoạt động. Để hiện thực hóa mục tiêu vươn tới 20.000 DNNVV trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với những nhu cầu vừa đa dạng, vừa cụ thể và thực hiện hỗ trợ theo hình thức “cầm tay chỉ việc” thì Chương trình sẽ phải hoạt động theo cơ chế mạng lưới với các “hub” đặt ngay tại các trung tâm công nghiệp, gần với doanh nghiệp “khách hàng”. Các “hub” này chính là các trung tâm khuyến công nghệ địa phương (sau đây gọi tắt là Trung tâm) và là hạt nhân của Chương trình. Trung tâm có năng lực “trong nhà” để đáp ứng một phần các dịch vụ khuyến công nghệ là điểm tích cực, tuy nhiên, mấu chốt lại là năng lực, kỹ năng, hiểu biết, mối quan hệ tin cậy để kết nối thành công các doanh nghiệp khách hàng với mạng lưới chuyên gia, kỹ thuật viên, tình nguyện viên trong nước và quốc tế, các nhà cung cấp dịch vụ theo cơ chế thị trường (những người thực sự biết việc, đủ năng lực “cầm tay chỉ việc” cho DNNVV), và các cơ sở nghiên cứu, trường đại học, phòng thí nghiệm, doanh nghiệp,... có hạ tầng kỹ thuật và đội ngũ nhân lực phù hợp. Để DNNVV bộc lộ đúng nhu cầu thật về dịch vụ kỹ thuật và việc hỗ trợ là trúng đích, Trung tâm phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, tất nhiên có trợ giá ở các mức độ khác nhau. Các bên cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp khách hàng thông qua Trung tâm, hay chính Trung tâm trong trường hợp trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách hàng sẽ phải nhận được thù lao theo mức giá cạnh tranh, ở mức chấp nhận được (như vậy mới huy động được dân chuyên nghiệp, trừ khi họ là các tình nguyện viên). Doanh nghiệp thụ hưởng dịch vụ sẽ phải trả phí, ở mức 50%, 70%, 90% hoặc 100% chi phí Trung tâm phải trả cho nhà cung cấp dịch vụ. Phần còn lại (nếu cần) sẽ được trợ giá thông qua dàn xếp của Chương trình dựa trên những thỏa thuận về trần hỗ trợ, hạn ngạnh,... Với ý tưởng thiết kế như trên, Chương trình không nhất thiết phải “sở hữu”, hoặc thành lập mới các Trung tâm, thay vào đó là đưa ra các yêu cầu, tiêu chí, nguyên tắc lựa chọn, phương thức đánh giá kết quả,... để có thể tìm JSTPM Tập 9, Số 1, 2020 51 chọn được những ứng viên tiềm năng thực hiện sứ mệnh của Trung tâm (cũng để xác định và loại bỏ những Trung tâm không đạt yêu cầu). Quan hệ giữa Chương trình và Trung tâm thực chất sẽ là quan hệ đối tác công - tư (PPP), trong đó, Chương trình đóng vai đối tác công, đặt ra yêu cầu đối với dịch vụ khuyến công nghệ, Trung tâm đóng vai đối tác tư, tổ chức việc cung cấp các dịch vụ tương ứng. Quan hệ này có thể được thiết lập thông qua Hợp đồng PPP theo pháp luật hiện hành về PPP hay Luật PPP sắp ban hành (Nguyễn Võ Hưng, 2017). Ngoài ra, sẽ cần xây dựng các định mức kinh tế-kỹ thuật ứng với các loại dịch vụ khuyến công nghệ khác nhau để làm căn cứ đàm phán ký kết hợp đồng PPP, cũng như căn cứ để sử dụng nguồn ngân sách trợ giá cho hoạt động này. Vấn đề tiếp theo là đảm bảo nguồn kinh phí thông qua Chương trình để trợ giá cho DNNVV thụ hưởng dịch vụ của các Trung tâm. Kinh nghiệm các chương trình khuyến công nghệ trên thế giới cho thấy, ngân sách gộp của một chương trình như vậy là rất lớn18 và với thực tế hiện nay, Nhà nước sẽ không thể dành riêng một khoản ngân sách lớn cho riêng Chương trình. Do vậy, Chương trình sẽ phải thiết lập được quan hệ đối tác công-công (P2P) giữa các bộ ngành, địa phương, tổ chức quốc tế, cơ quan tài trợ phát triển quốc tế,..., kết nối các chương trình, dự án hiện đã có những nội dung chồng lấn với dịch vụ khuyến công nghệ, và đã được bố trí ngân sách tương ứng để hợp lực thực hiện mục tiêu Chương trình. Bản chất của cơ chế hợp tác “công-công” trong trường hợp này là các bên “công” đạt được sự đồng thuận về cách thức hợp tác, phối hợp để cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho DNNVV. Loại dịch vụ khuyến công nghệ nào phù hợp với sứ mệnh, nội dung, nguồn ngân sách đã được bố trí của chương trình nào thì chương trình đó có nghĩa vụ hỗ trợ kinh phí. Tuy nhiên, có một số vấn đề nan giải cần xử lý. Hiện các chương trình của Nhà nước chủ yếu chạy theo cơ chế quản lý nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước, tức là qua các khâu xác định, phê duyệt, tuyển chọn/giao đơn vị thực hiện nhiệm vụ, đánh giá, nghiệm thu,...; Cơ chế này sẽ rất khó phù hợp với cơ chế hoạt động của Trung tâm như đề cập ở trên. Để giải quyết vấn đề khó này, về dài hạn, Chính phủ cần thông qua cơ chế cho phép các chương trình hỗ trợ DNNVV thực hiện cơ chế chi khoán theo định mức kinh tế - kỹ thuật đã được xây dựng và phê duyệt cho các loại dịch vụ khuyến công nghệ, giảm tối đa các thủ tục để giải ngân. Như vậy, khi Trung tâm thực hiện xong hợp đồng cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp thuộc diện thụ hưởng thì chỉ cần chứng minh dịch vụ được hoàn thành, đúng quy định,... 18 Theo Nguyễn Võ Hưng et al (2019) thì ngân sách công một năm dành cho Chương trình MEP của Hoa Kỳ là khoảng 300 triệu USD, của Chương trình IRAP Canada là 137 triệu CAD, của mạng lưới Kosetsushi Nhật Bản là 1 tỷ USD. 52 Khuyến công nghệ: một cơ hội chính sách cung cấp hỗ trợ kỹ thuật có xác nhận của các bên thì sẽ được “hoàn ứng” từ nguồn ngân sách bố trí cho chương trình tương ứng. Giải pháp căn cơ trên cần nhiều thời gian mới giải quyết được. Trước mắt, Chương trình có lẽ sẽ cần tuyển dụng một đội ngũ chuyên viên có kiến thức, kinh nghiệm về các thủ tục xây dựng, vận hành, quản lý, thanh quyết toán,... liên quan đến nhiệm vụ/dự án đi theo các chương trình hỗ trợ DNNVV liên quan. Đội ngũ này sẽ là trung gian, hay vùng đệm để hài hòa giữa cơ chế hoạt động theo nguyên tắc thị trường của các Trung tâm với cơ chế quản lý chi tiêu ngân sách của các chương trình hỗ trợ DNNVV. Đây cũng là việc khó, tuy nhiên, vẫn có hy vọng làm được. 4. Kết luận Khuyến công nghệ là một vấn đề không mới, tuy nhiên, lại chưa được chú ý khai thác ở Việt Nam. Bài viết chỉ ra hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, là sự bỏ sót của chính sách khi quá chú trọng đến việc hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp hoặc DNNVV yếu thế, trong khi đó, chưa chú ý đủ đến DNNVV đã định hình, cần được hỗ trợ kỹ thuật để cải thiện NSLĐ, áp dụng công nghệ đã ổn định, những giải pháp đơn giản cho những vướng mắc công nghệ “bình thường”. Thứ hai, là những hạn chế của những chương trình có nội dung hỗ trợ DNNVV hiện nay khi phần lớn các chương trình, dự án này hiện đang tổ chức theo kiểu “cát cứ”, manh mún, theo cơ chế “xin-cho”, không cho phép “vươn tới” doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp cụ thể theo cách “cầm tay chỉ việc”. Bài viết đưa ra khuyến nghị ý tưởng thiết kế một Chương trình khuyến công nghệ tại Việt Nam để “hỗ trợ trực tiếp doanh nghiệp thúc đẩy hiện đại hóa và cải thiện về công nghệ, tập trung vào các DNNVV đã định hình trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo”. Mục tiêu là vươn tới khoảng 20.000 DNNVV trong 5 năm. Bài viết cũng đề xuất những loại dịch vụ khuyến công nghệ cơ bản cần tập trung đáp ứng cho DNNVV trong 5-10 năm tới và cơ chế hoạt động của Chương trình dựa trên quan hệ đối tác công-tư giữa Chương trình và các Trung tâm, đơn vị trực tiếp tổ chức dịch vụ khuyến công nghệ cho doanh nghiệp theo cơ chế thị trường có trợ giá, và cơ chế hợp tác công-công giữa các bộ ngành, địa phương, tổ chức quốc tế để huy động nguồn lực thực hiện mục tiêu của Chương trình. Do chưa có tiền lệ, để thực hiện được cơ chế này sẽ đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách mới, những giải pháp tháo gỡ nút thắt, có như vậy Chương trình mới có thể vận hành đúng như thiết kế./. JSTPM Tập 9, Số 1, 2020 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2019. NXB Thống Kê. Hà Nội. 2. Tổng cục Thống kê (2019). Niên giám thống kê 2018. NXB Thống Kê. Hà Nội. 3. Nguyễn Võ Hưng và các cộng sự (2003). Nghiên cứu cơ chế và chính sách phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam, Báo cáo Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, NISTPASS. 4. Nguyễn Võ Hưng và các cộng sự (2006). Nghiên cứu cơ chế và chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) có vốn nhà nước, Báo cáo Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, NISTPASS. 5. Nguyễn Võ Hưng và các cộng sự (2014). Vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt nam, Báo cáo Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, NISTPASS. 6. Nguyễn Võ Hưng và các cộng sự (2017). Nghiên cứu xây dựng cơ chế hợp tác công tư, đồng tài trợ thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, Báo cáo Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, NISTPASS. 7. Nguyễn Võ Hưng và các cộng sự (2019). Nghiên cứu cơ chế quan hệ đối tác công tư và các chính sách, giải pháp thúc đẩy hoạt động khuyến công nghệ tại Việt Nam, Báo cáo Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, NISTPASS. Tiếng Anh 8. United States Government Accountability Office - GAO (2013). Global manufacturing: foreign government programs differ in some key respects from those in united states. Report to the Chairman, Committee on Commerce, Science, and Transportation, U.S. Senate. GAO-13-365. 2013. 9. World Bank (2017). Vietnam: enhancing enterprise competitiveness and SME linkages. DC. 10. Ca T.N. and Hung N.V. (2011). “Vietnam: current debates on the transformation of academic institutions” in bo goransson and claes brundenius (ed), Universities in transition: the changing role and challenges for academic institutions, IDRC - Springer. 11. Ezell S., Atkinson R. (2011). International benchmarking of countries’s policies and programs supporting smes manufacturers. National Institute of Standard and Technology. 12. Fukugawa N. (2008). “Evaluating the strategy of local public technology centers in regional innovation systems: evidence from Japan”, Science and Public Policy, 35(3), 159-170p DOI: 10.3152/030234208X299062; < content/beech/spp> 13. Fukugawa N., Akira G. (2016). Problem Solving and Intermediation by Local Public Technology Centers in Regional Innovation Systems: The first report on a branch- level survey on technical consultation. RIETI Discussion Paper Series 16-E-062. The Research Institute of Economy, Trade and Industry; 54 Khuyến công nghệ: một cơ hội chính sách cung cấp hỗ trợ kỹ thuật 14. Intarakumnerd P., Chatratana S., Jirathumkitkul P., Smitinont Th. (2010). Success and failures of an Intermediary in Triple Helix Relationships in developing countries. 8th Triple Helix International conference VIII on University, Industry and Government Linkages. Mandrid. Spain. 15. Kolodny H., Stymne B., Shani R., Figuera J.R., Lillrank P. (2001). “Design and policy choices for technology extension organizations”. Research Policy. 30 (2001) 201 - 225. 16. Lundvanll BA, Joseph K.J., Cristina Chaminade & Jan Vang (eds) (2009). Handbook of innovation system in developing countries: building domestic capabilities in a global setting. Edward Elgar. 17. Ngo Minh Tuan (2017). Overview of existing models of supporting SMEs in Vietnam. CIEM. Hanoi. 18. Shapira P., Rosenfeld S. (1997). An overview of technology diffustion policies and programs to enhance the technological absorptive capabilities of small and medium enterprises. <https://www.scheller.gatech.edu/centers-initiatives/ciber/projects/ workingpaper/1997/shapira2.pdf> 19. Shapira P., Wessner (2013). 21st Century manufacturing: the role of the menufacturing extension partnership program. National Academy of Sciences. 20. Shapira P., Youtie J. (2014). Building capabilities for innnovation in SMEs: a cross- country comparison of technology extension policies and programmes. International Journal of Innovation and Regional Development. Doi: 10.1504/IJRD.2011.040526. 21. Shapira, P. et al. (2015). Institutuions for Technology Diffusion, Inter-American Development Bank, Washington, DC. 22. Shapira P. (2017). “The next production revolution and institutions for technology diffusion”, in OECD, The next production revolution: implication for governments and business. Paris. 23. Shapira P., Youtie J. (2017). Impact of technology and innovation advisory services. Nesta Working Paper No. 13/19. 2014. 41p. 24. Supattaraprateep S. (2010). Thailand self-assessment report & best practice. Daegu Innitiative First - Cycle Assessment Workshop. Hongkong. China. 25. Yuwawutto S., Smitinont Th., Charoenanong N., Yokakul N., Chatratana S. (2010). Increase in effectiveness of technology development in Thai SMEs with group approach. 8th Triple Helix International conference on University, Industry and Government Linkages. Mandrid. Spain.
File đính kèm:
- khuyen_cong_nghe_mot_co_hoi_chinh_sach_cung_cap_ho_tro_ky_th.pdf