Lựa chọn bảo tồn trước sức ép từ phát triển: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà

Nằm về phía Đông Bắc thành phố Đà Nẵng, phía Tây giáp vịnh Đà Nẵng thuộc vành đai biên giới biển Việt Nam, phía Đông Bắc và Đông Nam giáp biển Đông, phía Tây Nam giáp đất liền, bán đảo Sơn Trà hội tụ

đủ ba yếu tố về kinh tế, quốc phòng an ninh và bảo tồn thiên

nhiên. Tổng diện tích tự nhiên là 4.439 ha, điểm cao nhất so với

mặt nước biển 696 mét (Thái Văn Quang, 2016).

Ngay từ những ngày đầu đất nước thống nhất, hoạt động

bảo tồn thiên nhiên đã được đặt là ưu tiên hàng đầu tại khu

vực này. Theo Quyết định số 41/TTg ngày 21/01/1977 của Thủ

tướng Chính phủ, bán đảo Sơn Trà là một trong 10 khu rừng

cấm đầu tiên, với diện tích khoảng 4.000 ha. Đây cũng là khu

bảo tồn thiên nhiên (BTTN) duy nhất nằm trong nội thành của

một thành phố lớn trực thuộc trung ương ở Việt Nam.

Điểm mấu chốt, đặc trưng của Sơn Trà là tổng hòa của hệ sinh

thái rừng và biển với những loài đặc hữu và rạn san hô. Bán đảo

Sơn Trà là một phần của Vùng sinh thái Trường Sơn - một trong

200 vùng sinh thái tiêu biểu toàn cầu (WWF, 2010), là nơi trú

ngụ của nhiều loài sinh vật độc đáo. Khu vực này có 985 loài

thực vật bậc cao có mạch thuộc 143 họ. Trong đó, 143 loài có

giá trị dược liệu, 140 loài có giá trị cây cảnh, 31 loài có giá trị

đan lát, 134 loài có giá trị cung cấp gỗ, 57 loài cho củ quả, và

có 22 loài quý hiếm. Hệ động vật gồm gần 300 loài thuộc 106

họ, trong đó có 29 loài thuộc nguồn gen quý, hiếm cần ưu tiên

bảo tồn.

pdf 24 trang yennguyen 3540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lựa chọn bảo tồn trước sức ép từ phát triển: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lựa chọn bảo tồn trước sức ép từ phát triển: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà

Lựa chọn bảo tồn trước sức ép từ phát triển: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà
LỰA CHỌN BẢO TỒN 
TRƯỚC SỨC ÉP TỪ PHÁT TRIỂN:
Trường hợp Voọc chà vá chân nâu 
trên Bán đảo Sơn Trà
Nguyễn Hoàng Phượng
Trần Hữu Vỹ
Nguyễn Thị Hà Trang 
Bùi Văn Tuấn 
Hoàng Quốc Huy 
Lê Thị Trang 
Trần Thị Kim Ly
ANNIVERSARY
th
Tháng 12-2016
Lời tựa
Là quần thể rừng, biển nằm ngay trong nội thành thành phố Đà Nẵng, một điểm đến nổi tiếng của du khách trong nước và quốc tế ở 
miền Trung Việt Nam, khu bảo tồn thiên 
nhiên Sơn Trà là nơi hội tụ của vị trí địa 
lý trọng yếu, tiềm năng lớn cho đầu tư 
và phát triển du lịch, và bảo tồn thiên 
nhiên. Bán đảo Sơn Trà là nơi cư ngụ của 
gần 300 cá thể Voọc chà vá chân nâu 
(Pygathrix nemaeus), một trong những 
loài linh trưởng quý hiếm, được tôn 
vinh là “nữ hoàng linh trưởng” và có giá 
trị bảo tồn toàn cầu. Năm 2016, UBND 
thành phố Đà Nẵng đã chính thức chọn 
Voọc chà vá chân nâu làm hình ảnh 
nhận diện thành phố nhân sự kiện APEC 2017 sẽ được tổ chức 
tại đây. Tuy nhiên, sống trên một khu vực rừng bị cô lập và 
thường bị con người tác động, quần thể linh trưởng quý hiếm 
này đang bị đe dọa biến mất do sinh cảnh sống có nguy cơ bị 
thu hẹp bởi sự hiện diện của con người và hoạt động khai thác, 
phát triển ngày càng nhiều. Diện tích rừng đặc dụng bán đảo 
Sơn Trà đã bị suy giảm, và hiện chỉ còn 2.591,1 ha, trong khi 
có đến 17 dự án đầu tư du lịch, nghỉ dưỡng đã được cấp phép 
thực hiện với diện tích hơn 1.000 ha trên bán đảo vốn là nơi 
sinh sống của quần thể voọc này. Vài năm gần đây, các tổ chức 
và chuyên gia bảo tồn linh trưởng của Việt Nam và quốc tế đã 
nỗ lực lên tiếng, đối thoại với chính quyền địa phương, triển 
khai các hoạt động nghiên cứu, giám sát với hi vọng sẽ bảo tồn 
được nơi ở và đời sống hoang dã của quần thể “nữ hoàng” linh 
trưởng này. Kế thừa kết quả nghiên cứu của Trung tâm Bảo tồn 
đa dạng sinh học Nước Việt Xanh (GreenViet), báo cáo này ghi 
nhận mối quan tâm và ủng hộ bước đầu của chính quyền địa 
phương về nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học trên bán đảo Sơn 
Trà. Tuy nhiên, báo cáo nhấn mạnh biện pháp cần thiết và cấp 
thiết hiện nay là phải xây dựng được một cơ chế hợp tác đa bên 
giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp (nhà đầu tư), hiệp 
hội với các tổ chức bảo tồn, nhà khoa học và cộng đồng dân 
cư để cùng cam kết, chung tay hành động có trách nhiệm, bảo 
tồn bền vững tính nguyên vẹn hệ sinh thái tự nhiên của bán 
đảo Sơn Trà cho thế hệ tương lai. Triển vọng này phụ thuộc rất 
lớn vào sự cân nhắc và quyết định của chính quyền thành phố 
Đà Nẵng trong việc lựa chọn mục tiêu quy hoạch và kế hoạch 
bảo tồn, phát triển bán đảo Sơn Trà lâu dài và bền vững, theo 
cách không hoặc ít phải đánh đổi nhất giữa lợi ích kinh tế của 
nhà đầu tư và di sản thiên nhiên của cộng đồng. 
LỰA CHỌN BẢO TỒN TRƯỚC SỨC ÉP TỪ PHÁT TRIỂN: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà 3
Nằm về phía Đông Bắc thành phố Đà Nẵng, phía Tây giáp vịnh Đà Nẵng thuộc vành đai biên giới biển Việt Nam, phía Đông Bắc và Đông Nam giáp biển Đông, phía Tây Nam giáp đất liền, bán đảo Sơn Trà hội tụ 
đủ ba yếu tố về kinh tế, quốc phòng an ninh và bảo tồn thiên 
nhiên. Tổng diện tích tự nhiên là 4.439 ha, điểm cao nhất so với 
mặt nước biển 696 mét (Thái Văn Quang, 2016).
Ngay từ những ngày đầu đất nước thống nhất, hoạt động 
bảo tồn thiên nhiên đã được đặt là ưu tiên hàng đầu tại khu 
vực này. Theo Quyết định số 41/TTg ngày 21/01/1977 của Thủ 
tướng Chính phủ, bán đảo Sơn Trà là một trong 10 khu rừng 
cấm đầu tiên, với diện tích khoảng 4.000 ha. Đây cũng là khu 
bảo tồn thiên nhiên (BTTN) duy nhất nằm trong nội thành của 
một thành phố lớn trực thuộc trung ương ở Việt Nam. 
Điểm mấu chốt, đặc trưng của Sơn Trà là tổng hòa của hệ sinh 
thái rừng và biển với những loài đặc hữu và rạn san hô. Bán đảo 
Sơn Trà là một phần của Vùng sinh thái Trường Sơn - một trong 
200 vùng sinh thái tiêu biểu toàn cầu (WWF, 2010), là nơi trú 
ngụ của nhiều loài sinh vật độc đáo. Khu vực này có 985 loài 
thực vật bậc cao có mạch thuộc 143 họ. Trong đó, 143 loài có 
giá trị dược liệu, 140 loài có giá trị cây cảnh, 31 loài có giá trị 
đan lát, 134 loài có giá trị cung cấp gỗ, 57 loài cho củ quả, và 
có 22 loài quý hiếm. Hệ động vật gồm gần 300 loài thuộc 106 
họ, trong đó có 29 loài thuộc nguồn gen quý, hiếm cần ưu tiên 
bảo tồn. 
Đặc trưng nhất của hệ thống rừng đặc dụng Sơn Trà chính là 
nơi sinh sống của quần thể voọc chà vá chân nâu, một loài đặc 
Hình 1: Bản đồ vị trí bán đảo Sơn Trà (STNMT Đà Nẵng, 2016)
Giới thiệu 
4 Trung tâm Con người và Thiên nhiên | Trung tâm Bảo tồn Đa dạng Sinh học Nước Việt Xanh (GreenVIET) 
hữu của khu vực Đông Dương. Ở Việt Nam chỉ còn lại khoảng 
1.500 cá thể, trong đó, bán đảo Sơn Trà có khoảng 300 cá thể. 
Đây là loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ ở Việt Nam 
và cũng thuộc nhóm nguy cấp (EN - Endangered Species) theo 
phân hạng của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên quốc tế (IUCN). 
Không chỉ có hệ động thực vật phong phú, Sơn Trà là bán đảo 
đặc biệt vốn được ví như “lá phổi xanh” điều tiết khí hậu và là 
bức bình phong chặn gió bão cho thành phố Đà Nẵng.
Với những điều kiện ưu đãi của thiên nhiên, hoạt động thương 
mại dịch vụ trên bán đảo Sơn Trà ngày càng phát triển theo 
hướng khai thác lợi thế du lịch sinh thái rừng và biển. Từ năm 
2008 đến nay, hệ sinh thái bán đảo Sơn Trà bị tác động nghiêm 
trọng bởi các hoạt động phát triển kinh tế như xây dựng nhà 
cửa, mở đường giao thông và phát triển hạ tầng du lịch. Theo 
số liệu Sở NN-PTNT thành phố Đà Nẵng, có 17 dự án, với diện 
tích 1.029,61 ha đã được phê duyệt trên bán đảo Sơn Trà; hay 
trong Quy hoạch tổng thể Sơn Trà thành khu du lịch quốc gia 
thì có tới khoảng 30 dự án phát triển được đưa vào kế hoạch 
(GreenViet, 2016). Dưới sức ép của phát triển, diện tích bảo vệ 
của KBTTN bán đảo Sơn Trà, do đó, cũng bị thu hẹp dần qua 
thời gian. Từ diện tích 4.439 ha, theo Quyết định 1976/QĐ-TTg 
ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch hệ 
thống rừng đặc dụng của cả nước đến năm 2020, tầm nhìn 
2030, diện tích KBTTN Sơn Trà chỉ còn 2.591,1 ha. Diện tích liên 
tục bị thu hẹp, sinh cảnh sống bị chia cắt bởi các khu du lịch và 
đường giao thông trên bán đảo, lượng khách du lịch ngày càng 
đông, thiếu kiểm soát và thiếu thiếu ý thức bảo vệ môi trường 
là những mối đe dọa chính đối với đa dạng sinh học, đặc biệt là 
đối với loài voọc chà vá chân nâu trên bán đảo Sơn Trà. 
LỰA CHỌN BẢO TỒN TRƯỚC SỨC ÉP TỪ PHÁT TRIỂN: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà 5
Tại sao phải bảo tồn vọoc chà vá chân 
nâu ở bán đảo Sơn Trà? 
Việt Nam được xếp là một trong 20 quốc gia sinh thái đa 
dạng nhất trên toàn cầu; và là một trong 12 quốc gia có độ 
đa dạng linh trưởng cao nhất trên thế giới. Trong số 25 loài 
linh trưởng có nguy cơ tuyệt chủng nhất trên thế giới, 03 
loài chỉ được tìm thấy ở Việt Nam. Đáng buồn là Việt Nam 
cũng đứng trong top 3 quốc gia có nhiều loài linh trưởng 
bị đe dọa tuyệt chủng nhất thế giới, chỉ sau Madagascar, và 
cùng ở vị trí thứ hai với Indonesia1. 
Nếu như nước Mỹ gắn liền với hình ảnh đại bàng đầu trắng, 
nước Nga với loài gấu nâu Siberia, nước Úc với loài chuột 
túi Kangaroo, Trung Quốc với loài gấu trúc, những loài linh 
trưởng đặc hữu của Việt Nam hoàn toàn xứng đáng trở 
thành một phần không thể thiếu của bản sắc và tiềm năng 
thiên nhiên quốc gia. Là loài nhiều màu sắc nhất trong các 
loài voọc, chà vá chân nâu được coi là loài đẹp nhất trong 
các loài linh trưởng trên thế giới. Vì được mệnh danh là 
“Nữ hoàng linh trưởng”, chính quyền thành phố Đà Nẵng 
đã chọn loài vọoc này làm hình ảnh đại diện cho Hội nghị 
Thượng đỉnh APEC 2017.
Tầm quan trọng của bảo tồn voọc chà vá 
chân nâu ở Sơn Trà
1. Theo “Bảo vệ linh trưởng Việt Nam bên bờ vực thẳm”, Jonathan Charles Eames, Nguyễn 
Văn Trường, Lê Khắc Quyết, Nhà xuất bản Thông tấn xã Việt Nam, 2016.
Bán đảo Sơn Trà là nơi dễ dàng để quan sát voọc chà vá chân nâu 
nhất trên thế giới, do đó, nếu được bảo tồn đúng cách, voọc hoàn 
toàn có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường 
lâu dài cho địa phương. Theo BQL bán đảo Sơn Trà, và các bãi biển 
du lịch Đà Nẵng lượng khách đến bán đảo Sơn Trà và bãi biển 
cận kề có xu hướng tăng nhanh từ năm 2012 và đến năm 2015 
đạt hơn 1,1 triệu lượt khách. UBND thành phố đã cấp phép cho 
05 tuyến tham quan gồm 03 tuyến trên núi, 02 tuyến dưới nước 
và 08 điểm tham quan gồm 04 điểm trên núi, 02 điểm san hô, 02 
điểm giao doanh nghiệp khai thác. Các tuyến kết nối các điểm 
dừng chân hình thành được tour đặc trưng – sinh thái rừng, biển 
của Sơn Trà được du khách đánh giá cao. Vì vậy, hoạt động tham 
quan voọc chà vá chân nâu là khả thi và tiềm năng tạo dấu ấn đặc 
trưng không đâu có được cho du lịch sinh thái ở bán đảo Sơn Trà. 
Tính cấp thiết của việc bảo tồn vọoc chà vá 
chân nâu ở bán đảo Sơn Trà
Áp lực phát triển tại Sơn Trà đang đặt loài này trên bờ vực tuyệt 
chủng do mất dần sinh cảnh và chất lượng môi trường sống. Tập 
tính của loài vọoc vá chân nâu là ăn, nghỉ, ngủ trong một thời 
điểm nhất định, ngay cả thức ăn trong ngày cũng khác nhau và 
tùy theo mùa, chúng sống và di chuyển chính trên cây. Do đó, việc 
xây dựng các khu du lịch và mở đường giao thông trên bán đảo 
đã chia cắt sinh cảnh sống của đàn voọc khiến sự tách nhập đàn 
voọc gặp khó khăn dẫn đến khả năng thoái hóa gen vì giao phối 
cận huyết. 
6 Trung tâm Con người và Thiên nhiên | Trung tâm Bảo tồn Đa dạng Sinh học Nước Việt Xanh (GreenVIET) 
Những khu vực đất lâm nghiệp đã giao khoán, người dân trồng 
cây ăn quả thay thế cho các cây lâm nghiệp bản địa cũng làm 
suy giảm nguồn thức ăn cho voọc; trong khi các cơ sở kinh 
doanh như quán nhậu, cà phê và lượng lớn khách du lịch tự do 
ra vào gây ồn ào làm gia tăng nguy cơ gây căng thẳng cho đàn 
voọc, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của chúng về lâu dài. 
Thậm chí, lợi dụng việc tự do đi lại trên Sơn Trà, các đối tượng 
săn bắn đã vào vùng lõi rừng đặc dụng lập lán trại, bẫy và bắn 
02 cá thể voọc vào ngày 30/3/2015 và một cá thể voọc vào 
ngày 2/9/2015. Nghiêm trọng hơn, vào cuối năm 2015 và đầu 
năm 2016, các hộ dân nhận giao khoán rừng tại tiểu khu 63, 
64 đã tự ý mở đường, dựng lán trại và phát hơn 10 ha rừng 
vốn là khu vực sống của 16 đàn voọc với khoảng 160 cá thể 
chà vá chân nâu, chiếm hơn 1/2 tổng số cá thể voọc hiện có 
trên bán đảo. Mặc dù vụ việc đã được cơ quan chức năng xử 
lý trong năm 2016 nhưng là hồi chuông báo động về yêu cầu 
cấp thiết phải bảo tồn loài voọc – một biểu tượng của thành 
phố Đà Nẵng.
LỰA CHỌN BẢO TỒN TRƯỚC SỨC ÉP TỪ PHÁT TRIỂN: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà 7
Áp lực từ các dự án phát triển và sự thu 
hẹp của rừng đặc dụng
Được chính thức thành lập năm 1977, trải qua 40 năm, khu 
rừng đặc dụng Sơn Trà đã trải qua 5 lần thay đổi diện tích. Với vị 
trí cô lập, xung quanh là đô thị và biển, Khu BTTN Sơn Trà hoàn 
toàn không có cơ hội để mở rộng diện tích; mà ngược lại,diện 
tích rừng ưu tiên bảo vệ liên tục bị thu hẹp qua các thời kỳ. 
Bảng dưới đây mô tả các chính sách quy hoạch và quyết định 
điều chỉnh diện tích bán đảo Sơn Trà qua các giai đoạn. Theo 
quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam tại Quyết định 
số 1976/QĐ-TTg năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ, diện tích 
quy hoạch Khu BTTN Sơn Trà đến năm 2020 sẽ là 2.591,1 ha. 
Câu hỏi đặt ra, với diện tích như hiện nay liệu có đủ đảm bảo 
sinh cảnh sống cho hơn khoảng 300 loài động vật, trong đó 
có nhiều loài thuộc nguồn gen quý, hiếm, cần ưu tiêu bảo tồn 
trong tương lai? 
Các mối đe dọa cho 
bảo tồn voọc chà vá 
chân nâu ở bán đảo 
Sơn Trà
8 Trung tâm Con người và Thiên nhiên | Trung tâm Bảo tồn Đa dạng Sinh học Nước Việt Xanh (GreenVIET) 
Bảng 1 – Các quy hoạch và quyết định điều chỉnh diện tích bán đảo Sơn Trà, 1976 – 2016
Quyết định Thay đổi diện tích và cơ quan quản lý bán đảo Sơn Trà
Quyết định 293/QĐ-UB ngày 25/6/1976 UBND 
cách mạng tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng về việc 
bảo vệ, khôi phục lại rừng ở Bán đảo Sơn Trà
Chưa rõ diện tích
Quyết định 41/TTg ngày 21/01/1977 của Thủ 
tướng chính phủ ban hành về thành lập 10 khu 
rừng cấm của Việt Nam
Diện tích khoảng 4.000 ha, gồm toàn bộ bán đảo 
Sơn Trà và vùng xung quanh chân núi kéo dài với 
bán kính 500m
Quyết định 447/LN-KL ngày 02/10/1992 của Bộ 
Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển 
nông thôn) về phê duyệt Luận chứng Kinh tế-Kỹ 
thuật xây dựng KBTTN Sơn Trà thành phố Đà 
Nẵng
Khu rừng cấm được đổi thành khu BTTN Sơn Trà 
theo với quy mô lâm phận là 4.439 ha (trong đó 
phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 2.595 ha và phân 
khu phục hồi sinh thái là 1.844 ha)
Giao cho ban quản lý khu BTTN Sơn Trà quản lý.
Quyết định 6758/QĐ-UBND ngày 20/9/2008 của 
UBND thành phố Đà Nẵng về việc phê duyệt quy 
hoạch 03 loại rừng trên địa bàn thành phố Đà 
Nẵng giai đoạn 2008 – 2020
Diện tích rừng đặc dụng và đất rừng đặc dụng 
thuộc khu BTTN Sơn Trà còn 2.591,1 ha, trong đó: 
2.320 ha diện tích rừng tự nhiên, 192,1 ha rừng 
trồng và 79 ha đất trống, đồi núi trọc. 
Khu BTTN Sơn Trà chuyển về Hạt kiểm lâm liên 
quận Sơn Trà – Ngũ Hành Sơn quản lý.
Quyết định 45/QĐ-TTg ngày 08/01/2014 của Thủ 
tướng Chính phủ về Quy hoạch tổng thể bảo tồn 
đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020, 
định hướng đến năm 2030
Khu BTTN Sơn Trà đổi tên thành Khu dự trữ thiên 
nhiên với diện tích quy hoạch là 3.871 ha.
Quyết định 1976/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của 
Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch hệ thống 
rừng đặc dụng của cả nước đến năm 2020, tầm 
nhìn đến năm 2030
Khu dự trữ thiên nhiên (KBTTN) Sơn Trà có diện 
tích 2.591,1 ha.
Quyết định 7263/QĐ-UBND ngày 14/10/2014 của 
UBND thành phố Đà Nẵng về việc giao rừng và 
đất lâm nghiệp ở khu BTTN Sơn Trà cho Hạt kiểm 
lâm Sơn Trà – Ngũ Hanh Sơn quản lý, bảo vệ và 
phát triển rừng
Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp của KBTTN 
Sơn Trà là 2.536,7 ha
Quyết định 7277/QĐ-UBND ngày 14/10/2014 của 
UBND thành phố Đà Nẵng về việc giao rừng và 
đất lâm nghiệp cho UBND phường Thọ Quang, 
quận Sơn Trà quản lý, bảo vệ và phát triển rừng
Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp là 1.072,6 
ha, trong đó phần lớn diện tích nằm ngoài khu 
bảo tồn.
Hiện nay, trên bán đảo Sơn Trà đã có 17 dự án đầu tư du lịch 
với diện tích 1.029,61 ha đã được chính quyền thành phố Đà 
Nẵng phê duyệt. Riêng trong đề án quy hoạch Sơn Trà thành 
khu du lịch sinh thái cấp quốc gia, Bộ Văn Hóa, Thể Thao và 
Du lịch còn đề xuất đề án phát triển tại bán đảo Sơn Trà với 
30 dự án với tổng diện tích hơn 1.000 ha, không kể xây thêm 
30km đường quốc phòng và dân sinh. Chủ trương chuyển 
đổi hơn 1,000ha rừng và đất lâm nghiệp sang đất khác đã 
cho thấy định hướng của Đà Nẵng đối với bán đảo Sơn Trà 
không còn ưu tiên bảo vệ rừng hay bảo tồn ĐDSH mà là ưu 
tiên cho phát triển.
Việc mở tuyến đường phía Đông Bắc bán đảo Sơn Trà phục 
vụ cho phát triển du lịch đã gây cô lập các loài động vật 
sống tại khu vực này. Nhiều vụ phá rừng đã xảy ra từ các quy 
hoạch cho dự án phát triển du lịch như khu du lịch sinh thái 
biển Tiên Sa hay Bãi Bắc mở rộng. Vì thế, khu vực Tây Bắc Sơn 
Trà, nơi tập trung sinh cảnh sống chính của quần thể voọc 
chà vá chân nâu, hoàn toàn không ... Thủy, Công 
ty Cổ phần Tập đoàn Mặt Trời, Công 
ty Cổ phần Danatol, Doanh nghiệp tư 
nhân Suối Hoa, Doanh nghiệp tư nhân 
Trường Đại Phúc, Công ty Cổ phần Sơn 
Trà, Công ty Cổ phần Khai thác và Phát 
triển du lịch Hòa Phú Thành.
Hiện nay, Sở NN&PTNT đang phối hợp với các đơn vị tư vấn xác 
định tổng mức chi trả và số lượng được thụ hưởng tiền DVM-
TR theo Quyết định 7720/QĐ-UBND ngày 19/10/2015 của Chủ 
tịch UBND thành phố Đà Nẵng về việc Quy định mức chi trả 
tiền DVMTR. Theo đó, mức chi trả áp dụng đối với các tổ chức, 
cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch có hưởng lợi từ tính bằng 
1,5% doanh thu thực hiện trong kỳ và bắt đầu áp dụng từ ngày 
01/01/2016. Dự kiến trong giai đoạn này, trung bình mỗi hộ gia 
đình nhận giao khoán bảo vệ rừng từ các ban quản lý rừng đặc 
dụng, rừng phòng hộ hoặc rừng tự nhiên (là rừng sản xuất) do 
UBND xã tạm quản lý sẽ nhận được 7-10 triệu/hộ/năm từ chi 
trả DVMTR khi chính sách này áp dụng vào thực tế.
Hình ảnh voọc chà vá chân nâu đang được các doanh nghiệp 
hỗ trợ tuyên truyền để trở thành biểu tượng của du lịch Đà 
Nẵng. Các làng thủ công mỹ nghệ, công ty du lịch sử dụng hình 
ảnh voọc chà vá chân nâu để làm các hiện vật, quà tặng cho 
du khách. Công ty cổ phần Thiên Bách Minh đã hỗ trợ công tác 
tuyên truyền khi sử dụng hình ảnh voọc chà vá chân nâu tại 17 
nhà chờ xe bus trong thành phố. Resort Intercontinental cũng 
làm 300 con voọc bông làm quà tặng giúp nâng cao nhận thức 
về nét đặc trưng ở bán đảo Sơn Trà. Công ty Cổ phần phim 
Thiên Ngân (Galaxy Studio) hỗ trợ in ấn tranh ảnh về voọc chà 
vá chân nâu tặng cho 50 khách sạn trong thành phố để giới 
thiệu với các du khách về biểu tượng “nữ hoàng linh trưởng” 
của Đà Nẵng. Furama resort, Indochia tour, Hiệp hội du lịch Đà 
Nẵng và một số doanh nghiệp khác cũng tài trợ Chương trình 
Hành trình Tôi yêu Sơn Trà do GreenViet tổ chức nằm nâng cao 
nhận thức cho người dân về giá trị và tầm quan trọng của rừng 
và voọc chà vá chân nâu tại bán đảo Sơn Trà.
LỰA CHỌN BẢO TỒN TRƯỚC SỨC ÉP TỪ PHÁT TRIỂN: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà 19
Những nỗ lực và sự quan tâm bước đầu cho bảo tồn rừng và voọc chà vá chân nâu tại bán đảo Sơn Trà
Sự kết nối của các Tổ chức Khoa học và 
Công nghệ
Sự kết nối của các tổ chức phi chính phủ với các cơ quan quản 
lý và khối doanh nghiệp tư nhân cũng tạo động lực và cơ hội 
mới cho hoạt động bảo tồn rừng và voọc chà vá chân nâu ở 
bán đảo Sơn Trà. Nếu như trước đây Chi cục Bảo vệ Môi trường 
thiếu thông tin về tài nguyên ĐDSH tại bán đảo Sơn Trà nên sự 
tham gia vào các chính sách quản lý ĐDSH của Đà Nẵng còn 
hạn chế, thì từ năm 2013 đến nay nhờ hoạt động kết nối mà 
hoạt động của Chi cục đã có những tham gia tích cực. Chi cục 
đã phối hợp với nhiều đơn vị liên quan tổ chức các hoạt động 
truyền thông và giáo dục về bảo vệ môi trường như phối hợp 
với Trung tâm GreenViet tổ chức triển lãm ảnh về loài voọc chà 
vá chân nâu; phối hợp với Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường 
Đà Nẵng để làm thủ tục công nhận cây đa di sản ở bán đảo Sơn 
Trà; tổ chức cuộc thi thiết kế về biểu tượng đa dạng sinh học 
thành phố Đà Nẵng. Đặc biệt từ năm 2015 đến nay, Chi cục Bảo vệ 
Môi trường đã tư vấn cho Sở Tài nguyên và Môi trường trong việc 
đề nghị UBND thành phố Đà Nẵng ra nhiều quyết định như Quy 
hoạch tổng thể ĐDSH thành phố Đà Nẵng đến năm 2020, tầm 
nhìn đến năm 2030; hoặc gửi công văn đề nghị UBND thành phố 
Đà Nẵng thực thi khẩn cấp các giải pháp bảo vệ động vật hoang 
dã và ĐDSH ở khu BTTN Sơn Trà trong đó có đề nghị không cấp 
phép cho các dự án đầu tư ở phía Tây Bắc của bán đảo Sơn Trà. 
Các hoạt động bảo vệ ĐDSH của Sơn Trà nói riêng và Đà Nẵng 
nói chung được Sở TN&MT cùng Chi cục Bảo vệ môi trường lồng 
ghép vào các hoạt động cụ thể trong đề án xây dựng thành phố 
Đà Nẵng trở thành thành phố Môi trường đến năm 2020.
Nếu như trước năm 2007, Sơn Trà chỉ có vài dự án nhỏ và không 
đáng kể của Nhà nước thì đến nay được quan tâm đầu tư hơn 
không chỉ từ ngân sách Nhà nước mà còn tư các tổ chức phi chính 
phủ quốc tế. Ví dụ, giai đoạn 2007 – 2010 đã có dự án bảo tồn 
Vọoc Chà vá do Tổ chức Vọoc chà vá (DLF) tài trợ; giai đoạn 2009 – 
2011 Quỹ bảo tồn rừng đặc dụng (VCF) có Dự án tăng cường năng 
lực cho Ban Quản lý Khu bảo tồn Sơn Trà; Từ năm 2010 có chương 
trình lâm nghiệp 661/QĐ-TTg và Quyết định số 4537/QĐ-UBND 
ngày 17/6/2010 phê duyệt “Bảo tồn đa dạng sinh học tại Khu 
BTTN Sơn Trà, Đà Nẵng. 
Các tổ chức phi chính phủ cũng hỗ trợ các cơ quan quản lý trong 
việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng và hỗ trợ 
thực thi. Mạng lưới hơn 100 tình nguyện viện tại Đà Nẵng của 
GreenViet với sự hỗ trợ của BigC đã huy động được mạng lưới tình 
nguyện thu nhặt rác tại bán đảo Sơn Trà. GreenViet đã phối hợp 
với Hạt kiểm lâm Sơn Trà – Ngũ Hành Sơn thu gần 2.000 dây bẫy 
chuyên dùng ở KBTTN Sơn Trà và vùng đệm chỉ tính riêng trong 
năm 2015.
20 Trung tâm Con người và Thiên nhiên | Trung tâm Bảo tồn Đa dạng Sinh học Nước Việt Xanh (GreenVIET) 
Những nỗ lực và sự quan tâm bước đầu cho bảo tồn rừng và voọc chà vá chân nâu tại bán đảo Sơn Trà
Mặc dù nỗ lực của các bên liên quan trong việc bảo vệ, bảo tồn hệ sinh thái của bán đảo Sơn Trà là đáng ghi nhận. Tuy nhiên, để hiện thức hóa quyết tâm của Thành phố về việc xây dựng và gìn giữu hình 
ảnh voọc chà vá chân nâu là biểu tượng thiên nhiên cho Đà 
Nẵng, nhóm tác giả có một số khuyến nghị cụ thể như sau: 
Thứ nhất, cần xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển bền 
vững bán đảo Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng, bao trùm các quy 
hoạch về rừng đặc dụng Sơn Trà, quy hoạch sử dụng đất cũng 
như quy hoạch ĐDSH của Đà Nẵng đến năm 2020, tầm nhìn 
đến năm 2030, quy hoạch an ninh, quốc phòng, để đảm bảo 
các yếu tố ĐDSH được xem xét đầy đủ khi phê duyệt quy hoạch 
phát triển tổng thể cả bán đảo. Hiện nay đề án quy hoạch Sơn 
Trà thành khu du lịch sinh thái cấp quốc gia đang được Bộ 
Văn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề xuất có thể sẽ gây ảnh 
hưởng nghiêm trọng đến ĐDSH của bán đảo Sơn Trà. Theo đề 
án, sẽ có tới 30 dự án và chuyển đổi hơn hơn 1.000 ha rừng và 
đất lâm nghiệp sang mục đích sử dụng khác; và chắc chắn đó 
sẽ là mối đe dọa nghiêm trọng nhất.
Thứ hai, cần xem xét mở rộng diện tích khu bảo tồn thiên nhiên 
Sơn Trà, tạo thành một quy hoạch chung tổng thể kết nối cả 
hệ sinh thái rừng và biển trong một tổng thể mối liên hệ sinh 
thái hữu cơ tự nhiên. Tổng hòa của hệ sinh thái rừng gắn liền 
biển với những loài đặc hữu và rạn san hô khiến bán đảo Sơn 
Trà thuộc quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng là nơi duy nhất ở 
Việt Nam hội tụ những giá trị sinh thái ngay tại một quận nội 
Kết luận 
và khuyến nghị
LỰA CHỌN BẢO TỒN TRƯỚC SỨC ÉP TỪ PHÁT TRIỂN: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà 21
thành thuộc thành phố lớn cấp Trung ương. Sự thuận tiện trong việc thưởng 
thức những giá trị sinh thái mà không tách biệt với cuộc sống tiện nghi hiện 
đại khiến cho Bán đảo Sơn Trà trở thành một điểm đến lý tưởng đối với khách 
du lịch. Nhìn nhận được giá trị đặc biệt này, từ năm 1977, Thủ tướng Chính phủ 
đã công nhận ranh giới bán đảo Sơn Trà là “toàn bộ Bán đảo Sơn Trà và vùng 
xung quanh chân núi kéo dài ra 500m” được khoanh để bảo vệ thắng cảnh theo 
Quyết định 41-TTg ngày 24/1/1977 về các khu rừng cấm. Việc chia tách hệ sinh 
thái rừng và biển theo quy hoạch phát triển khiến cho bán đảo Sơn Trà làm 
giảm đi giá trị thiên nhiên không nơi nào có ở Việt Nam.
Thứ ba, cần giải quyết các diện tích đất giao khoán rừng đang nằm trong ranh 
giới KBTTN Sơn Trà nhằm tránh trường hợp lợi dụng việc đi lại để thực hiện các 
hành vi vi phạm lâm luật. Đề xuất thu hồi có bồi thường đối với diện tích này 
và giao cho Hạt Kiểm lâm liên quận Sơn Trà – Ngũ Hành Sơn thống nhất quản 
lý và bảo vệ.
Thứ tư, cần xây dựng cơ chế phối hợp quản lý giữa các đơn vị liên quan, trong 
đó, xác định đơn vị đầu mối quản lý và chịu trách nhiệm chính về bán đảo Sơn 
Trà. Như đã phân tích, bán đảo Sơn Trà hiện có nhiều đơn vị cùng quản lý, bảo 
vệ và khai thác với chức năng chồng chéo và phối hợp lỏng lẻo. Đề xuất giao 
cho một đơn vị chịu trách nhiệm chính.
Thứ năm, cần tăng cường quản lý khách du lịch thông qua việc lắp đặt các 
barier và thu vé tham quan bán đảo Sơn Trà. Bởi hiện nay du khách lên Sơn Trà 
tự do, không có cơ chế kiểm soát, không thu vé tham quan nên cũng không 
thực hiện được chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với dịch vụ du 
lịch sinh thái. Ví dụ như Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, với 300.000 lượt khách, 
nguồn thu từ chi trả DVMTR trung bình đạt 12-14 tỷ mỗi năm. Với lượng du 
khách đến Đà Nẵng khoảng 8,9 triệu người/năm theo ước tính đến năm 2020, 
thì đấy sẽ là một trong những nguồn tài chính tiềm năng cho hoạt động quản 
lý, bảo vệ rừng tại bán đảo Sơn Trà trong tương lai. 
Thứ sáu, cần tăng cường điều tra cơ bản, các nghiên cứu khoa học để cập nhật 
dữ liệu về thông tin tổng thể về ĐDSH của Sơn Trà, đặc biệt là các loài quý, 
hiếm, nguy cấp ở Sơn Trà. Hiện nay các thông tin này vẫn đang sử dụng số liệu 
nghiên cứu của các tác giả từ năm 1997 nên những biến động về nguồn tài 
nguyên ĐDSH của Sơn Trà trong 20 năm qua không được đánh giá và cập nhật. 
Việc thiếu số liệu dẫn đến thiếu cơ sở cho cơ quan quản lý trong việc cân nhắc 
về giá trị ĐDSH khi phê duyệt các dự án phát triển ở Bán đảo Sơn Trà.
Thứ bảy, cần xây dựng hình ảnh vọoc chà vá chân nâu như biểu tượng thiên 
nhiên của thành phố Đà Nẵng. Với khoảng 300 cá thể, bán đảo Sơn Trà là nơi 
dễ dàng nhất trên thế giới có thể chiêm ngưỡng loài này ngoài tự nhiên. Việc 
xây dựng Vọoc chà vá chân nâu trở thành biểu tượng của Đà Nẵng sẽ góp phần 
thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào mạng lưới bảo tồn loài này, 
đồng thời đưa hoạt động du lịch sinh thái phát triển và kéo theo sự phát triển 
của các ngành khác. Điều này sẽ tạo một điểm nhấn trong lòng du khách về 
một thành phố thân thiện với thiên nhiên, môi trường và đáng sống không chỉ 
của con người mà còn cho muôn loài.
Thứ tám, cần tăng cường công tác thực thi pháp luật về bảo vệ và phát triển 
rừng, bảo vệ môi trường và bảo tồn các loài quý, hiếm. Trong đó, cần tăng 
cường công tác phối hợp với các tổ chức phí chính phủ cùng với sự tham gia 
giám sát của Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức xã hội và cộng 
đồng địa phương.
Thứ chín, cần tạo cơ chế khuyến khích sự tham gia góp ý và phản biện chính 
sách và giám sát thực hiện cho cộng đồng và các tổ chức xã hội trong các quyết 
định liên quan đến sự phát triển của Bán đảo Sơn Trà. Đặc biệt là minh bạch 
thông tin và xây dựng cơ chế tham vấn cộng đồng và các tổ chức xã hội thực 
chất khi phê duyệt báo cáo Đánh giá môi trường chiến lược đối với các quy 
hoạch, kế hoạch, chiến lược có liên quan đến bán đảo Sơn Trà và Đánh giá tác 
động môi trường của các dự án phát triển cụ thể tại bán đảo Sơn Trà.
Thứ mười, cần nâng cao nhận thức cho cộng đồng địa phương và du khách 
trong bảo tồn các giá trị hệ sinh thái của bán đảo Sơn Trà, bao gồm cả nhận 
thức đúng về vấn đề sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật hoang 
dã.
22 Trung tâm Con người và Thiên nhiên | Trung tâm Bảo tồn Đa dạng Sinh học Nước Việt Xanh (GreenVIET) 
1. Jonathan Charles Eames, Nguyễn Văn Trường, Lê Khắc Quyết, “Bảo vệ linh trưởng Việt Nam bên bờ vực thẳm”, Nhà xuất bản 
Thông tấn xã Việt Nam, 2016;
2. Võ Thị Minh Phương, Lê Thị Hoàng Huy, “Thực trạng xâm lấn của hai loài bìm bìm hoa vàng (Merremia boisiana) và bìm bìm 
hoa trắng (Merremia eberhardtii) tại Bán đảo Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng”, Trường Đại học Nông Lâm Huế. (Link: http://
moitruongvadoisong.vn/wp-content/uploads/2015/10/151006_BimBim.pdf)
3. Thái Văn Quang (2016), Báo cáo “Quản lý bảo vệ và phát triển rừng tại khu BTTN Sơn Trà giai đoạn 2011 – 2016” tại Hội 
thảo “Bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái bán đảo Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” được GreenViet tổ chức vào ngày 
19/7/2016;
4. Đinh Thị Phương Anh (1997) “Điều tra khu hệ động thực vật và nhân tố ảnh hưởng, đề xuất phương án bảo tồn sử dụng 
hợp lý KBTTN Bán đảo Sơn Trà”, Báo cáo đề tài Nghiên cứu Khoa học cấp thành phố Đà Nẵng;
5. Báo cáo kết quả công tác bảo tồn đa dạng sinh học trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, GreenViet, 2016;
6. Dương Xuân Liễu (2016), “Trả lời tham vấn thuộc dự án nghiên cứu thực trạng công tác đồng quản lý rừng tại bán đảo Sơn 
Trà”;
7. Quyết định 7277/QĐ-UBND ngày 14/10/2014 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc giao rừng và đất lâm nghiệp cho UBND 
phường Thọ Quang, quận Sơn Trà quản lý, bảo vệ và phát triển rừng);
8. Kế hoạch sử dụng đất năm 2015 quận Sơn Trà, Ủy ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng;
9. Tài liệu Sơ Kết 05 năm thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 – 2015, UBND thành phố Đà Nẵng, 
tháng 6/2016;
10. Võ Thị Thu Thảo (2015) “nghiên cứu sự phân bố loài Khỉ vàng (Macaca mulatta) tại bán đảo Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng”, 
Luận văn tốt nghiệp;
11. Lê Thị Trâm (2016), Nghiên cứu sự phân bố, số lượng và tần suất gặp loài Voọc chà vá chân nâu (pygathrix nemaeus) tại bán 
đảo Sơn Trà, Đà Nẵng”, Luận văn tốt nghiệp;
Tài liệu tham khảo
LỰA CHỌN BẢO TỒN TRƯỚC SỨC ÉP TỪ PHÁT TRIỂN: Trường hợp Voọc chà vá chân nâu trên Bán đảo Sơn Trà 23
Ngoài ra, thông tin và số liệu sử dụng trong báo cáo được thu thập trong 
quá trình thực hiện nghiên cứu “Thực trạng công tác quản lý, bảo vệ rừng 
nhằm đề xuất chính sách đồng quản lý đa dạng sinh học trên bán đảo Sơn 
Trà, Đà Nẵng giữa các bên liên quan” và tổng hợp từ hội thảo “Bảo tồn và 
phát triển bền vững hệ sinh thái bán đảo Sơn Trà” ngày 19 tháng 7 năm 2016, 
do Trung tâm Bảo tồn đa dạng sinh học Nước Việt Xanh chủ trì thực hiện. 
Tài liệu này được thực hiện trong khuôn khổ hợp tác giữa Trung tâm Con 
người và Thiên nhiên (PanNature) và Trung tâm Bảo tồn đa dạng sinh học 
Nước Việt Xanh (GreenViet), với sự hỗ trợ của Quỹ John D. and Catherine T. 
MacArthur và Quỹ đối tác các hệ sinh thái trọng yếu (CEPF). Mọi thông tin 
trong báo cáo chỉ phản ánh quan điểm của tác giả, không thể hiện quan 
điểm của tổ chức và không chịu ảnh hưởng của nhà tài trợ.
Trung tâm Con người và Thiên nhiên
Là tổ chức phi lợi nhuận hoạt động nhằm bảo vệ môi trường, bảo tồn sự đa dạng và phong 
phú của thiên nhiên, nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa phương thông qua tìm 
kiếm, quảng bá, thực hiện các giải pháp bền vững và thân thiện với môi trường. 
www.nature.org.vn 
Trung tâm Bảo tồn Đa dạng Sinh học Nước Việt Xanh 
Là một tổ chức Khoa học và Công nghệ hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học. 
GreenViet hành động giúp cộng đồng hiểu, tôn trọng và hình thành lối sống thân thiện với 
thiên nhiên thông qua nghiên cứu, bảo tồn, phổ biến giá trị của đa dạng sinh học
www.greenviet.org
 Các vấn đề liên quan đến ấn phẩm, xin vui lòng liên hệ: 
TRUNG TÂM CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN 
Phòng Nghiên cứu Chính sách 
Địa chỉ: Số 24 H2, Khu đô thị mới Yên Hòa, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội
ĐT: (04) 3556 4001 – Fax: (04) 3665-8941
Email: policy@nature.org.vn 
Website: www.nature.org.vn 
Trang tin Con người và Thiên nhiên: www.thiennhien.net
Thiết kế & Sáng tạo: Admixstudio.com
ANNIVERSARY
th

File đính kèm:

  • pdflua_chon_bao_ton_truoc_suc_ep_tu_phat_trien_truong_hop_vooc.pdf