Luận án tóm tắt Nghiên cứu ảnh hưởng của khoáng vật Montmorillonite đến cường độ chịu nén của trụ đất xi măng
1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) và Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) ngày càng có nhiều công trình sử dụng trụ đất xi măng để gia cố nền
đất yếu và đã được đánh giá khả năng ứng dụng vào thiết kế móng của các công
trình [1]. ĐBSCL là đồng bằng lớn nhất Việt Nam, được phủ bởi trầm tích
Holocence do sự lắng đọng trầm tích của hệ thống sông Mekong. Thành phần
khoáng vật trong đất sét thông thường gồm có các thành phần khoáng vật như:
Montmorillonite (MMT), Illite, Chlorite và Kaolinite. Theo nghiên cứu của
Phan Thị San Hà và các đồng nghiệp (2007) hàm lượng khoáng vật MMT có
giá trị từ 11,3% đến 13,3% [8], theo nghiên cứu của James L. Post và Richard
L. Sloane (1971), hàm lượng MMT ở An Giang có giá trị từ 5% đến 10% [9] và
theo Nguyen Huu Chiem (1993) hàm lượng MMT từ 0% đến 8% [10]. Theo
Luận án tiến sĩ địa chất của Nguyễn Thị Nụ (2014) thì hàm lượng MMT trong
đất bùn sét ở vùng này trong khoảng từ 3% đến 8% và trong đất bùn sét pha từ
1% đến 6% [11].
Thành phần khoáng vật MMT có trong đất ảnh hưởng đến tính trương nở và co
ngót của đất nền, khi nền đất được gia cố bằng trụ đất xi măng hàm lượng
MMT sẽ ảnh hưởng đến quá trình đóng rắn và làm thay đổi cường độ chịu nén
của trụ đất xi măng. Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng
khoáng vật MMT đến cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng và nền đất yếu
gia cố trụ đất xi măng. Kết quả nghiên cứu cung cấp cho người làm công tác
xây dựng có những đánh giá sát hơn về hiệu quả khi chọn lựa áp dụng giải pháp
này đối với các trường hợp cụ thể.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án tóm tắt Nghiên cứu ảnh hưởng của khoáng vật Montmorillonite đến cường độ chịu nén của trụ đất xi măng
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA NGUYỄN NGỌC THẮNG NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA KHOÁNG VẬT MONTMORILLONITE ĐẾN CƯỜNG ĐỘ CHỊU NÉN CỦA TRỤ ĐẤT XI MĂNG Chuyên ngành: ĐỊA KỸ THUẬT XÂY DỰNG Mã số chuyên ngành: 62.58.60.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2017 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG-HCM Người hướng dẫn khoa học 1: PGS. TS. Lê Văn Nam Người hướng dẫn khoa học 2: PGS. TS. Nguyễn Minh Tâm Phản biện độc lập 1: PGS. TS. Nguyễn Phi Lân Phản biện độc lập 2: PGS. TS. Tô Văn Lận Phản biện 1: GS. TS. Trần Thị Thanh Phản biện 2: PGS. TS. Trần Tuấn Anh Phản biện 3: PGS. TS. Võ Phán Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án họp tại: Phòng chuyên đề Khoa Kỹ thuật Xây dựng – Trường Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh. vào lúc 09 giờ 00 ngày 19 tháng 01 năm 2017. Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM. - Thư viện Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG-HCM. 1 MỞ ĐẦU 1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Hiện nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ngày càng có nhiều công trình sử dụng trụ đất xi măng để gia cố nền đất yếu và đã được đánh giá khả năng ứng dụng vào thiết kế móng của các công trình [1]. ĐBSCL là đồng bằng lớn nhất Việt Nam, được phủ bởi trầm tích Holocence do sự lắng đọng trầm tích của hệ thống sông Mekong. Thành phần khoáng vật trong đất sét thông thường gồm có các thành phần khoáng vật như: Montmorillonite (MMT), Illite, Chlorite và Kaolinite. Theo nghiên cứu của Phan Thị San Hà và các đồng nghiệp (2007) hàm lượng khoáng vật MMT có giá trị từ 11,3% đến 13,3% [8], theo nghiên cứu của James L. Post và Richard L. Sloane (1971), hàm lượng MMT ở An Giang có giá trị từ 5% đến 10% [9] và theo Nguyen Huu Chiem (1993) hàm lượng MMT từ 0% đến 8% [10]. Theo Luận án tiến sĩ địa chất của Nguyễn Thị Nụ (2014) thì hàm lượng MMT trong đất bùn sét ở vùng này trong khoảng từ 3% đến 8% và trong đất bùn sét pha từ 1% đến 6% [11]. Thành phần khoáng vật MMT có trong đất ảnh hưởng đến tính trương nở và co ngót của đất nền, khi nền đất được gia cố bằng trụ đất xi măng hàm lượng MMT sẽ ảnh hưởng đến quá trình đóng rắn và làm thay đổi cường độ chịu nén của trụ đất xi măng. Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng khoáng vật MMT đến cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng và nền đất yếu gia cố trụ đất xi măng. Kết quả nghiên cứu cung cấp cho người làm công tác xây dựng có những đánh giá sát hơn về hiệu quả khi chọn lựa áp dụng giải pháp này đối với các trường hợp cụ thể. 2 Mục đích nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Các nghiên cứu về trụ đất xi măng ở ĐBSCL trước đây chưa phân tích nguyên nhân cường độ mẫu đất xi măng thay đổi khi thay đổi loại đất và không phân tích cụ thể ảnh hưởng của hàm lượng khoáng vật MMT đến cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng. Khi thực hiện giải pháp gia cố nền đất yếu bằng trụ đất xi 2 măng cần phải nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần và hàm lượng khoáng vật MMT có trong đất đến cường độ chịu nén của đất xi măng. Do đó, nghiên cứu được tiến hành với các mục đích: Phân tích mối tương quan giữa hàm lượng MMT và cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng đối với đất có các độ ẩm và thời gian bảo dưỡng khác nhau. Đánh giá nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng chịu nén của nền đất yếu gia cố trụ đất xi măng để nâng cao hiệu quả gia cố nền đất yếu bằng bằng trụ đất xi măng phù hợp với các điều kiện cụ thể. Từ đó đề xuất hàm lượng xi măng thích hợp cho các vùng đất có hàm lượng thành phần khoáng vật MMT khác nhau. 3 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu đã được dùng trong luận án là thực hiện tạo và thí nghiệm nén mẫu trong phòng thí nghiệm kết hợp với phương pháp chụp tia X. Mô hình thu nhỏ trong phòng cũng được nghiên cứu sử dụng để mô phỏng ứng xử của công trình thực tế với tỉ lệ 1/50. 4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận án nghiên cứu khả năng chịu nén của mẫu đất xi măng khi thay đổi hàm lượng MMT dưới các điều kiện khác nhau về lượng nước khi trộn, hàm lượng xi măng và thời gian bảo dưỡng mẫu. Kết quả thí nghiệm được phân tích bằng thí nghiệm nén một trục nở hông, chụp tia X để xem xét các tính chất vật lý và cơ học của mẫu đất xi măng. Đồng thời, mô hình nền đất yếu gia cố trụ đất xi măng trong phòng thí nghiệm cũng được thực hiện để xem xét ảnh hưởng của khoáng vật MMT có trong đất đến khả năng chịu nén của nền đất yếu gia cố trụ đất xi măng. 5 Cấu trúc của luận án Luận án gồm có các phần: Mở đầu, 4 chương, kết luận và kiến nghị những nghiên cứu tiếp theo. Tổng cộng có 103 trang, trong đó có 79 hình, 19 bảng biểu và các công thức tính toán, phương trình phản ứng hóa học. Phần phụ lục có 54 trang. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ GIA CỐ NỀN ĐẤT YẾU BẰNG TRỤ ĐẤT XI MĂNG, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THÍ NGHIỆM MÔ HÌNH 1.1 Một số tính chất của đất yếu ở ĐBSCL Đất yếu có thể được định nghĩa là những loại đất không có khả năng tiếp nhận tải trọng công trình nếu không có các biện pháp gia cố hoặc xử lý thích hợp. Các loại đất yếu thường gặp ở ĐBSCL như là đất sét mềm gồm các loại đất sét hoặc á sét tương đối chặt, ở trạng thái bão hòa nước, có cường độ thấp; bùn là các loại đất tạo thành trong môi trường nước, thành phần hạt rất mịn ở trạng thái luôn no nước, hệ số rỗng rất lớn, rất yếu về mặt chịu lực; than bùn là loại đất yếu có nguồn gốc hữu cơ, được hình thành do kết quả phân hủy các chất hữu cơ có ở các đầm lầy. Lê Bá Lương và các đồng nghiệp (2005) kết luận trong nghiên cứu về đất yếu ở ĐBSCL là phần lớn đất thuộc dạng đất yếu và có chiều dày từ 10 m đến 40 m [15]. 1.2 Phương pháp gia cố nền đất yếu bằng trụ đất xi măng Có nhiều phương pháp xử lý và ổn định nền đất yếu, Han-Georg Kempfert (2006) đã phân loại phương pháp xử lý và ổn định nền đất yếu theo ba nhóm chính là cố kết, thay thế đất và các phần tử dạng trụ [17]. Phương pháp gia cố nền đất yếu bằng trụ đất xi măng là một trong những phương pháp phần tử dạng trụ trong cách phân loại này. Phương pháp cơ học để thi công trụ đất gia cố bằng thiết bị trộn được gọi là phương pháp trộn sâu (DMM – Deep Mixing Method). Mặc dù có nhiều kỹ thuật trộn sâu khác nhau, nhưng kết quả chung nhất là tạo ra các cột gia cố bằng thiết bị khoan với một hoặc nhiều cần trộn để đưa chất kết dính vào đất tự nhiên nơi gia cố. Chất kết dính thường được sử dụng là hỗn hợp xi măng hoặc xi măng/vôi và nước. Kết quả của sự trộn chất kết dính và đất tạo ra một vật liệu có cường độ và độ cứng lớn hơn đất tự nhiên. 1.3 Ảnh hưởng của MMT đến cường độ chịu nén của đất xi măng Terashi, M. (1997) đã thống kê tất các các yếu tố ảnh hưởng đến cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng như đặc điểm của tác nhân gia cố, đặc điểm và điều kiện của đất, điều kiện trộn và điều kiện bảo dưỡng [23]. Trong các yếu tố này, 4 yếu tố quan trọng làm ảnh hưởng lớn đến cường độ chịu nén của đất xi măng là đặc điểm và điều kiện của môi trường nền đất cần gia cố. Thiam-Soon Tan và các đồng nghiệp (2002) đã làm thí nghiệm xác định cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng trên 3 loại đất sét ở ba vùng biển khác nhau: đất sét vùng biển Eunos, City Hall và SAC với hàm lượng xi măng 20% và độ ẩm 90% [24]. Sau thời gian bảo dưỡng 7 ngày, cường độ chịu nén của các mẫu đất xi măng khác nhau rất lớn. Nozu, M. và Nakai, N. (2010) thực hiện thí nghiệm mẫu đất xi măng với ba loại đất có khoáng vật sét khác nhau giữa đất sét miền Nam Việt Nam, đất sét Mỹ và đất sét Nhật Bản [25]. Mẫu đất xi măng được tạo bằng đất sét Việt Nam và Mỹ rất khó thực hiện do đất có tính hút nước của khoáng vật MMT có trong đất. Đồng thời, kết quả thí nghiệm nén một trục thì đất sét Việt Nam và Mỹ đều có cường độ thấp. Tiêu chuẩn TCVN 9403:2012 đặt ra yêu cầu phải xác định đặc trưng vật lý và thành phần khoáng của đất trong khâu khảo sát địa kỹ thuật trước khi thiết kế gia cố nền đất yếu bằng công nghệ trụ đất xi măng [26]. Tính chất cơ học của đất được gia cố xi măng bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố như lượng nước, hàm lượng sét, hàm lượng chất hữu cơ trong đất; loại và tỉ lệ chất kết dính và phụ gia. Viện Phát Triển công nghệ ven biển – Nhật Bản (CDIT, 2002) nhận định rằng tất cả các yếu tố trên ảnh hưởng đến cường độ của đất được gia cố bằng trụ đất xi măng, ngay cả sự khác nhau tương đối nhỏ trong đất dùng để trộn nhưng kết quả lại khác nhau rất lớn trong tính chất cơ học của đất xi măng [27]. 1.4 Phương pháp phân tích địa kỹ thuật bằng tia X Phương pháp phân tích bài toán địa kỹ thuật bằng tia X (X-ray CT: X-ray Computed Tomograph) được sử dụng nhiều trong nghiên cứu. Phương pháp này cho phép nhận biết sự thay đổi ứng suất, biến dạng bên trong vật liệu mà không gây bất kỳ sự phá hủy nào [28], [29], [30]. Một số kết quả nghiên cứu ứng dụng tia X như đặc tính của đất, sự phá huỷ của đất nén cố kết; sự phá hủy 5 của đất trộn với bùn, xi măng, xỉ xốp; nghiên cứu sự tương tác thành phần và cấu trúc của đất; nghiên cứu đặc tính thấm và thoát nước phục vụ công tác cải tạo nền đất yếu; phát triển thiết bị nén ba trục; khả năng chịu tải của nền đất dưới tải trọng của cọc; sử dụng số liệu thu được để giải các bài toán của phương pháp số [31], [32], [33], [34]. 1.5 Các nghiên cứu xác định cường độ chịu nén của nền đất yếu gia cố trụ đất xi măng bằng mô hình trong phòng thí nghiệm Phương pháp mô phỏng bằng mô hình trong phòng thí nghiệm là dùng các mô hình có kích thước nhỏ hơn so với thực tế để mô phỏng lại ứng xử của công trình thực. Với thí nghiệm trong phòng, các trạng thái ứng suất, biến dạng, quá trình phá hoại của nền đất được quan sát dễ dàng. Mô hình thí nghiệm trong phòng có ưu điểm là ít tốn kém, không bị chi phối bởi các điều kiện về thời gian, không gian, thời tiết, khí hậu và nhiệt độMột số mô hình thí nghiệm nghiên cứu xác định cường độ của nền đất yếu gia cố trụ đất xi măng: Mô hình thí nghiệm của Kitazume, M. và các đồng nghiệp (1999) [35], mô hình thí nghiệm của Larsson, S. (1999) [36], mô hình thí nghiệm của Kosche, M. (2004) [37], mô hình thí nghiệm của Sengor, M.Y. (2011) [38], mô hình thí nghiệm của Ailin Nur J.O. và các đồng nghiệp (2011) [39], mô hình thí nghiệm của K. Omine và các đồng nghiệp (1999) [40]. 1.6 Nhận xét Thành phần khoáng vật trong đất sét ở ĐBSCL được phân tích bằng thí nghiệm nhiễu xạ tia X góc hẹp - XRD gồm có các thành phần khoáng vật như MMT, Illite, Chlorite và Kaolinite. Thành phần khoáng vật MMT trong đất ảnh hưởng đến tính trương nở và co ngót của đất, khi nền đất được gia cố bằng trụ đất xi măng thành phần MMT sẽ ảnh hưởng đến quá trình đóng rắn và làm thay đổi cường độ chịu nén của trụ đất xi măng. Do đó, ảnh hưởng của hàm lượng thành phần khoáng vật MMT đến cường độ chịu nén của đất xi măng được phân tích bằng các thí nghiệm nén một trục nở hông, chụp tia X mẫu đất xi măng và mô hình thu nhỏ trong phòng thí nghiệm. 6 CHƯƠNG 2 CƠ SỞ PHÂN TÍCH SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA KHOÁNG VẬT MONTMORILLONITE ĐẾN CƯỜNG ĐỘ CHỊU NÉN CỦA ĐẤT XI MĂNG 2.1 Khoáng vật MMT [41][49] MMT là một thành phần của họ Smectite thường được gọi bằng tên Bentonite và là một khoáng vật Alumino-silicate rất mềm thông thường tạo thành các tinh thể khoáng vật sét. Tên gọi MMT lấy theo địa danh Montmorillon ở Pháp từ năm 1874. MMT là thành phần khoáng vật chính của sét Bentonite, thông thường MMT chiếm từ 60% đến 70%, với hàm lượng MMT lớn nên Bentonite được gọi tên theo khoáng vật chính là MMT. 2.1.1 Thành phần hóa học của MMT Công thức chung của MMT có dạng: Mx(Al4-x-Mgx)Si8O20(OH)4. Trong đó M là cation hóa trị, x là mức độ thế và có giá trị từ 0,5 đến 1,3. Có 2 dạng MMT thông dụng là Montmorillonite Natri và Montmorillonite Canxi, với công thức hóa học chung là: (Na,Ca)0,33(Al,Mg)2(Si4O10)(OH)2•nH2O. 2.1.2 Cấu trúc của MMT MMT là một khoáng vật được tạo bởi 2 lớp Si và 1 lớp Al. Do đó, MMT được gọi là khoáng vật có tỷ lệ 2:1. Khối bát diện (Al) nằm giữa hai khối tứ diện (Si) bởi các đỉnh tứ diện liên kết với các nguyên tử hydroxyl (OH) nằm ở đỉnh khối bát diện tạo thành một lớp hoàn chỉnh. Bề dày của lớp có tỷ lệ 2:1 này khoảng 0,96nm và phát triển không hạn chế theo 2 phương kia (Hình 2.1 và Hình 2.2). Hình 2.1 Đơn vị cơ bản của tinh thể MMT (Grim, R.E., 1959) Hình 2.2 Sơ đồ rút gọn về cấu tạo MMT (Lambe, T.W., 1953) 7 2.2 Ảnh hưởng của khoáng vật MMT đến tính trương nở của đất Trong đất sét gồm có các thành phần khoáng vật như MMT, Illite, Chlorite và Kaolinite [25]. Kích thước tương đối của bốn khoáng vật sét phổ biến với tỷ diện tích của chúng. Khoáng vật Kaolinite có kích thước lớn nhất với bề dày khoảng vài μm, trong khi khoáng vật MMT có kích thước nhỏ nhất với bề dày chỉ khoảng vài nm. Bề mặt hoạt động của khoáng vật phụ thuộc vào đường kính hạt, vì vậy khoáng vật MMT có mức độ hoạt động mạnh hơn khoáng vật Kaolinite và bề mặt hoạt động của cát hoặc bụi gần như bằng không [49], [50]. Lực hút dính Van der Waals giữa các lớp Silicate nằm phía trên yếu và có độ hút điện tích âm thực trong lớp bát diện nên nước và các ion trao đổi có thể xâm nhập vào phần và chia tách các lớp mạng. Do đó, tinh thể MMT có thể hấp thụ nhiều nước và trương nở rất mạnh. Đất có chứa khoáng vật MMT rất dễ bị trương nở khi gặp nước và co ngót lại khi mất nước. Khi nước bị hấp thụ vào giữa các lớp sẽ làm thay đổi chiều dày lớp cấu trúc. Tính chất này được gọi là tính chất trương nở. Sự trương nở phụ thuộc vào bản chất khoáng sét, cation trao đổi, sự thay thế đồng hình trong các lớp bát diện và sự có mặt của các ion trong môi trường phân tán. Lượng nước được hấp thụ vào giữa các lớp phụ thuộc vào khả năng hydrate hóa của các cation trao đổi. 2.3 Ảnh hưởng của khoáng vật MMT đến cường độ nén của đất xi măng [6], [52] Trụ đất xi măng là hỗn hợp giữa đất tự nhiên nơi gia cố và hỗn hợp xi măng được phun xuống thông qua thiết bị khoan trộn. Mũi trộn được đưa xuống đất bằng cách khoan xoay, khi tới độ sâu thiết kế, mũi trộn đảo chiều quay ngược lại và đồng thời rút dần lên trộn đất tại chỗ với chất gia cố. Trong suốt quá trình rút lên, hỗn hợp xi măng được phun vào bằng khí nén ở đầu mũi trộn. Việc hình thành cường độ xảy ra thông qua quá trình ninh kết của hỗn hợp đất xi măng qua các phản ứng chủ yếu như phản ứng thủy giải và thủy hóa của xi măng; tác dụng của các hạt đất với các chất thủy hóa của xi măng; tác dụng cacbonate hóa. Quá trình hydrate hóa xi măng và có dạng chung là: 8 Xi măng + H2O → Keo C-S-H + Ca(OH)2 (2.8) Ca(OH)2 → Ca++ + 2(OH)- (2.9) Ca++ + 2(OH)- → Keo C-S-H (2.10) Trong đó C là CaO, S là SiO2 và H là H2O Phản ứng này diễn ra nhanh và mạnh, đồng thời tỏa ra một nhiệt lượng lớn làm bốc hơi nước có trong đất. Hiện tượng này cũng làm đất được gia cố xi măng tăng độ bền hơn trước. Tuy nhiên, khi đất có hàm lượng MMT cao, MMT sẽ hút nước có trong đất làm ngăn cản quá trình Hydrate hóa này, từ đó lượng keo C-S-H sinh ra ít hơn, đồng thời khối lượng thể tích của trụ đất xi măng sau đó cũng bị giảm do phản ứng thủy ... đất trộn xi măng giảm khi hàm lượng MMT tăng (Hình 3.39 và Hình 3.40). 18 Hình 3.39 Quan hệ giữa cường độ chịu nén và hàm lượng xi măng ứng với thời gian bảo dưỡng 28 ngày Hình 3.40 Quan hệ giữa cường độ chịu nén và hàm lượng MMT ứng với thời gian bảo dưỡng 28 ngày 3.4 Kết luận chương Cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng bị ảnh hưởng bởi hàm lượng MMT và hàm lượng nước khi trộn tạo mẫu. Khi hàm lượng MMT tăng thì cường độ nén của mẫu giảm. Đồng thời khi tăng tỉ số tổng lượng nước và xi măng thì cường độ nén của mẫu giảm rất lớn do tính hút nước cao của MMT trong hỗn hợp. Hàm lượng MMT được xem là tối ưu để sử dụng công nghệ gia cố nền đất yếu bằng trụ đất xi măng là 3,3%. Khi tăng hàm lượng MMT 0% đến 3,3% thì khối lượng thể tích của mẫu đất xi măng tăng từ 3,3% đến 9,8% thì khối lượng thể tích của mẫu đất xi măng giảm. Tương ứng với sự gia tăng và giảm giá trị CT-value của các ảnh tia X chụp ngang qua mẫu. Hình dạng phá hoại của mẫu đất xi măng quan sát bằng ảnh tia X thể hiện tính giòn. Tính giòn của mẫu đất xi măng tăng theo thời gian bảo dưỡng và giảm khi tăng hàm lượng MMT, và tăng lượng nước. Độ biến dạng lớn nhất chỉ 1,0%. Căn cứ vào biểu đồ quan hệ giữa cường độ chịu nén và hàm lượng MMT ứng với thời gian bảo dưỡng 28 ngày, có thể lựa chọn hàm lượng xi măng thích hợp cho các loại đất ở ĐBSCL có chứa khoáng vật MMT với các hàm lượng khác nhau. 19 CHƯƠNG 4 THÍ NGHIỆM MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA KHOÁNG VẬT MONMORILLONITE ĐẾN CƯỜNG ĐỘ CHỊU NÉN CỦA NỀN ĐẤT YẾU GIA CỐ TRỤ ĐẤT XI MĂNG 4.1 Nội dung thí nghiệm Thí nghiệm trên mô hình kỹ thuật trong điều kiện mô hình thu nhỏ để xem xét, đánh giá sự ảnh hưởng của khoáng vật MMT đến cường độ chịu nén của nền đất yếu được gia cố bằng trụ đất xi măng. Các bước thực hiện như sau: Chế tạo mô hình thí nghiệm trong phòng; Thực hiện thí nghiệm trên mô hình: tạo trụ đất xi măng trong lớp đất yếu và thực hiện nén lớp đất gia cố, trong quá trình nén kết hợp quan sát, chụp ảnh, đo trị số áp lực nén và chuyển vị lớp đất yếu gia cố trụ đất xi măng. 4.2 Xây dựng mô hình thí nghiệm trong phòng Dùng mô hình thu nhỏ xem xét cường độ chịu nén của của nền đất yếu dày 10,0 m được gia cố bằng các trụ đất xi măng có đường kính 1,0 m, khoảng cách các trụ 2,5 m. Số lượng trụ đất xi măng bố trí theo phương ngang là 8 trụ. Hình 4.1 Mặt cắt ngang nền đất yếu được gia cố bằng trụ đất xi măng Tính toán kích thước hình học mô hình thí nghiệm trong phòng, căn cứ vào kích thước công trình ngoài thực tế và điều kiện thí nghiệm trong phòng, chọn mô hình có tỉ lệ so với thực tế là 1/50. Do đó trụ đất xi măng trong mô hình có đường kính 20 mm, chiều dài 200 mm, khoảng cách các trụ 50 mm. Mô hình thí nghiệm có cấu tạo và các kích thước như Hình 4.2: 20 Hình 4.2 Kích thước mô hình thí nghiệm Hình 4.4 Khung tạo áp lực nén lên nền đất trong hộp mô hình 4.3 Quy trình thao tác trên mô hình thí nghiệm Đất lấy về được phơi, nghiền nhỏ và cho qua rây 5 mm để loại bỏ tạp chất. Trộn Bentonite vào đất với các tỉ lệ về khối lượng 0%, 5%, 10%, 15%. Hỗn hợp được trộn đều với nước tạo độ ẩm 80% và ủ hỗn hợp 24 giờ trong thùng kín. Sau đó cho hỗn hợp vào hộp mô hình với chiều dày 300 mm; bên dưới là lớp cát dày 200 mm. Lớp đất này được gia tải cố kết dưới các cấp áp lực 0,025 kG/cm2; 0,05 kG/cm2 và 0,1 kG/cm2 bằng hệ thống đòn bẩy lực, mỗi cấp áp lực được nén cho đến khi biến dạng ổn định để đất có được các tính chất gần đúng với đất tự nhiên về độ ẩm (49 ÷ 50%) và dung trọng (17,2 ÷ 17,4 kN/m3), gạt bỏ phần đất dư phía trên để lớp đất yếu còn 200 mm. Dùng khoan điện cầm tay khoan các lỗ có đường kính 20 mm, dài 200 mm trong lớp đất yếu. Ống nhựa đường kính ngoài 20 mm được chèn vào lỗ khoan để lỗ khoan không bị biến dạng. Hỗn hợp đất xi măng được bơm vào các lỗ đã khoan này để tạo trụ đất xi măng. Trong quá trình bơm, ống nhựa được rút từ từ ra khỏi lỗ khoan. Hàm lượng xi măng được chọn để tạo trụ đất xi măng trong mô hình là 10%, tỉ số tổng lượng nước và xi măng, wT/c=5. Sau quá trình tạo trụ đất xi măng trong lớp đất yếu, lớp đất gia cố này được bảo dưỡng 28 ngày với nhiệt độ trong phòng. Trong quá trình bảo dưỡng, mực nước Đơn vị đo: mm 21 trong mô hình luôn duy trì ngang mặt trên của lớp đất gia cố để tránh co ngót do nước bốc hơi. Sau thời gian bảo dưỡng, đưa hộp mô hình vào khung nén và sử dụng hệ thống bơm thủy lực tạo áp lực nén phía trên. Đo áp lực nén thẳng đứng và chuyển vị của lớp đất gia cố trụ đất xi măng. Hình 4.8 Trụ đất xi măng trong lớp đất sét Hình 4.10 Thí nghiệm nén lớp đất gia cố trụ đất xi măng Quá trình thí nghiệm bằng cách tăng dần lực nén thẳng đứng đến khi nền đất gia cố bị phá hoại hoặc biến dạng dọc theo trục trụ đất xi măng đạt 5%. Tốc độ tăng áp lực nén được kiểm soát để tốc độ của biến dạng dọc trục khoảng 0,5% ÷ 2%/ phút. Cường độ chịu nén của lớp đất yếu được gia cố trụ đất xi măng là tải dọc trục tối đa đạt được trên một đơn vị diện tích hoặc tải trên một đơn vị diện tích khi biến dạng lún đạt 10 mm, tùy vào trường hợp nào xảy ra trước. Cường độ chịu nén của lớp đất gia cố (kPa) được tính theo công thức: q n = Pmax An (4.1) Trong đó qn là cường độ chịu nén của lớp đất gia cố [kPa], Pmax là lực nén dọc trục lớn nhất đọc và tính toán từ đồng hồ đo áp lực [kN], An là diện tích chịu nén của lớp đất gia cố [m2]. 4.4 Kết quả thí nghiệm Lớp đất tự nhiên có hàm lượng MMT 6% được gia cố bằng trụ đất xi măng với hàm lượng xi măng 10%, hệ số diện tích gia cố 13% thì cường độ chịu nén tăng 3,3 lần (từ 20 kPa lên 66 kPa) so với lớp không được gia cố, nhưng khi đất có hàm lượng MMT 15% thì cường độ chịu nén chỉ tăng 1,25 lần (từ 20 kPa lên 25 22 kPa). Cường độ chịu nén của lớp đất yếu gia cố trụ đất xi măng giảm khi hàm lượng MMT tăng (Hình 4.11): Khi hàm lượng MMT tăng 9% (từ 6% đến 15%), cường độ chịu nén của nền đất gia cố giảm 2,6 lần (từ 66 kPa xuống 25 kPa). Hình 4.11 Quan hệ giữa cường độ chịu nén của lớp đất sét gia cố trụ đất xi măng và hàm lượng MMT Hình 4.12 So sánh cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng và lớp đất gia cố trụ đất xi măng khi hàm lượng MMT thay đổi Lớp đất yếu có hàm lượng MMT 6% được gia cố trụ đất xi măng có cường độ chịu nén thấp hơn cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng 7,9 lần và 16,0 lần đất có khi hàm lượng MMT 15% (Hình 4.12). Biểu đồ cũng cho thấy khi hàm lượng MMT thay đổi từ 6% đến 9% thì độ dốc của đường biểu diễn cường độ chịu nén của mẫu và nền gia cố gần bằng nhau, nhưng khi hàm lượng MMT thay đổi từ 9% đến 15% thì độ dốc của đường biểu thị cường độ mẫu thí nghiệm trong phòng lớn hơn độ dốc của đường biểu diễn cường độ chịu nén của nền gia cố. Điều này cho thấy hàm lượng MMT trong mẫu đất xi măng ảnh hưởng đến cường độ chịu nén lớn hơn cường độ chịu nén của nền gia cố trụ đất xi măng. 4.5 Kết luận chương Khi đất có hàm lượng MMT cao thì hiệu quả gia cố nền bằng công nghệ trụ đất xi măng không cao. Vì vậy khi gia cố nền đất yếu cần chú ý hàm lượng MMT để nâng cao cường độ nền đất yếu được gia cố bằng trụ đất xi măng và hiệu quả của giải pháp gia cố nền đất yếu bằng trụ đất xi măng. 23 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO 1. Kết luận Trên cơ sở nghiên cứu thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng MMT đến cường độ chịu nén của mẫu, thí nghiệm đánh giá khả năng chịu nén của nền đất gia cố trụ đất xi măng bằng mô hình trong phòng thí nghiệm, các kết luận của luận án được rút ra như sau: 1. Cường độ chịu nén của mẫu đất xi măng bị ảnh hưởng bởi hàm lượng MMT và lượng nước khi trộn tạo mẫu. Khi hàm lượng MMT tăng 6,5% (từ 3,3% đến 9,8%) thì cường độ nén của mẫu giảm lớn nhất là 19% và nhỏ nhất là 8%. Đồng thời khi tăng tỉ số tổng lượng nước và xi măng (wT/c= 3, 4, 5) thì cường độ nén của mẫu giảm rất lớn 61% do tính hút nước cao của MMT trong hỗn hợp. Hàm lượng MMT trong đất nền được xem là tối ưu để sử dụng công nghệ gia cố nền đất yếu bằng trụ đất xi măng là 3,3%. 2. Khối lượng thể tích của mẫu đất xi măng giảm khi tăng hàm lượng MMT, tuy nhiên sự giảm này là nhỏ: khi tăng hàm lượng MMT từ 3,3% đến 9,8% thì khối lượng thể tích của mẫu đất xi măng giảm xuống từ 1,70 g/cm3 xuống 1,68 g/cm3 (1,20%) khi tỉ số tổng lượng nước và xi măng wT/c=3; từ 1,60 g/cm3 xuống 1,57 g/cm3 (1,90%) khi wT/c=4; và từ 1,53 g/cm3 xuống 1,51 g/cm3 (1,31%) ứng với wT/c=5. Sự giảm khối lượng thể tích này cũng phù hợp với sự giảm giá trị CT-value trong thí nghiệm chụp tia X ngang mẫu. 3. Hình dạng phá hoại của mẫu đất xi măng quan sát bằng ảnh tia X thể hiện tính giòn. Tính giòn của mẫu đất xi măng tăng theo thời gian bảo dưỡng và giảm khi tăng hàm lượng MMT và tăng lượng nước. Độ biến dạng lớn nhất tương ứng với trạng thái phá hoại của mẫu đất xi măng chứa 9,8% MMT ở 7 ngày bảo dưỡng chỉ 1,0%. 4. Căn cứ vào biểu đồ quan hệ giữa cường độ chịu nén và hàm lượng MMT ứng với thời gian bảo dưỡng 28 ngày, hàm lượng xi măng thích hợp cho các loại 24 đất sét có chứa khoáng vật MMT với các hàm lượng khác nhau có thể được lựa chọn. 5. Lớp đất yếu trong mô hình có hàm lượng MMT 6% được gia cố với hàm lượng xi măng 10%, hệ số gia cố 13% thì cường độ chịu nén tăng 3,3 lần (từ 20 kPa lên 66 kPa) so với lớp không được gia cố. Khi đất có hàm lượng MMT 15% thì cường độ chịu nén này chỉ tăng 1,25 lần (từ 20 kPa lên 25 kPa). Khi hàm lượng MMT tăng 9% (từ 6% đến 15%) thì cường độ chịu nén của lớp đất yếu được gia cố bằng trụ đất xi măng giảm 63% (từ 66 kPa xuống 25 kPa). Những hạn chế của nghiên cứu 1. Mô hình thu nhỏ không được thực hiện với thí nghiệm ly tâm nên kết quả nghiên cứu chỉ dừng lại ở nghiên cứu khả năng chịu nén của nền đất yếu gia cố trụ đất xi măng mà không xét đến trọng lượng bản thân của vật liệu. 2. Cường độ chịu nén của nền đất gia cố trụ đất xi măng chỉ xét trong thời điểm tức thời. 3. Vì điều kiện kinh tế và thời gian, mô hình không được thực hiện ngoài thực tế hiện trường nên kết quả có thể còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện thi công, điều kiện địa chất của công trình thực tế. 2. Kiến nghị nghiên cứu tiếp theo Thực hiện thí nghiệm mẫu đất xi măng với hàm lượng MMT cao hơn và thời gian bảo dưỡng mẫu kéo dài hơn để xem xét hiện tượng bóc vỏ bề mặt của mẫu đất xi măng. DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ A. Bài báo khoa học công bố trên tạp chí khoa học trong nước 1. Nguyễn Thành Đạt, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Minh Tâm và Nguyễn Ngọc Thắng, “Các yếu tố ảnh hưởng đến cường độ chịu uốn và tương quan giữa cường độ chịu nén và uốn của vật liệu đất trộn xi măng,” Tạp chí địa kỹ thuật-Viện địa kỹ thuật, tập 14, số 4, trang 23-28, 2010. 2. Nguyễn Ngọc Thắng, Lê Văn Nam, Nguyễn Minh Tâm và Jun Otani, “Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng Montmorillonite đến tính chất cơ học của đất trộn xi măng,” Tạp chí địa kỹ thuật-Viện địa kỹ thuật, tập 15, số 4, trang 11- 19, 2011. 3. Lê Văn Nam, Nguyễn Minh Tâm và Nguyễn Ngọc Thắng, “Nghiên cứu sử dụng mô hình trong phòng thí nghiệm để đánh giá sức chịu tải của đất yếu gia cố cột đất trộn xi măng dưới nền đường khi nền đất có hàm lượng Montmorillonite khác nhau,” Tạp chí xây dựng-Bộ Xây dựng, tập 54, số 4, trang 89-92, 2015. 4. Nguyễn Ngọc Thắng, Nguyễn Minh Tâm và Lê Văn Nam, “Nghiên cứu sự ảnh hưởng hàm lượng lượng xi măng đến cường độ chịu nén của mẫu đất trộn xi măng khi đất có hàm lượng khoáng vật Montmorillonite khác nhau,” Tạp chí xây dựng-Bộ Xây dựng, tập 54, số 9, trang 65-68, 2015. B. Bài báo khoa học công bố trong kỷ yếu hội nghị/ hội thảo trong nước 1. Nguyễn Ngọc Thắng, Lê Văn Nam, Nguyễn Minh Tâm, Jun Otani, Mukunoki, “Nghiên cứu địa kỹ thuật bằng tia X-ray CT,” Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ 12, Trường Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 2011, trang 20. 2. Nguyễn Ngọc Thắng, Lê Văn Nam, Nguyễn Minh Tâm, Jun Otani, “Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng Montmorillonite đến tính chất cơ học của đất trộn xi măng,” Hội nghị vật lý chất rắn và khoa học vật liệu toán quốc lần thứ 7 (SPMS-2011), Tp. Hồ Chí Minh, 2011, trang 269. 3. Nguyễn Ngọc Thắng, Lê Văn Nam, Nguyễn Minh Tâm, Makato Kawamura, “Thiết kế ứng dụng cột đất trộn xi măng hợp lý trong xử lý nền đường đất yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long,” Hội nghị cơ học toàn quốc lần thứ 9, Hà Nội, 2012, trang 180-186. 4. Nguyễn Ngọc Thắng, Nguyễn Minh Tâm và Lê Văn Nam, “Phân tích sự ảnh hưởng của khoáng vật Montmorillonite đến nền đường đất yếu gia cố cột đất trộn xi măng bằng mô hình trong phòng thí nghiệm,” Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ 13, Trường Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 2013, trang 525- 531. 5. Lê Văn Nam, Nguyễn Minh Tâm và Nguyễn Ngọc Thắng, “Nghiên cứu sự ảnh hưởng của hàm lượng xi măng đến cường độ chịu nén của mẫu đất trộn xi măng khi đất có hàm lượng Montmorillonite khác nhau,” Hội Nghị Cơ học Kỹ thuật Toàn quốc năm 2015, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2015, trang 80. 6. Nguyễn Ngọc Thắng, Nguyễn Minh Tâm và Lê Văn Nam , “Nghiên cứu sự ảnh hưởng của khoáng vật Montmorillonite đến cường độ chịu nén của nền đất yếu gia cố trụ đất xi măng,” Hội Thảo khoa học quốc gia – Hạ tầng giao thông với phát triển bền vững , Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2016, trang 515-521. C. Bài báo khoa học công bố trong kỷ yếu hội nghị/ hội thảo quốc tế 1. Nguyen Thang Ngoc, Makoto Kawamura, Jun Otani, “A study on stabilization of soft ground due to embankment load using Deep Cement Mixing columns,” in ICAST 2010, Conference on Advanced Science and Technology, Japan, 2010, pp. 315-316. 2. Nguyen Ngoc Thang, Nguyen Thanh Dat, Nguyen Minh Tam, Le Anh Tuan, “An analytical study on Cement column stabilized in the riverbank by Deep Mixing Method,” in ICAST 2011, Conference on Advanced Science and Technology, China, 2011, pp. 183-184. 3. Nguyen Ngoc Thang, “An Analytical Study on Cement Column Configuration in the Foundation Improved by Deep Mixing Method,” in GEOTECHANOI 2011, International Conference on Geotechnics for sustainable development, Vietnam, 2011, pp. 733-737. 4. Nguyen Minh Tam, Nguyen Ngoc Thang, Le Van Nam, “Study on using laboratory model to research for bearing capacity of soft ground improved by deep cement mixing columns due to embankment load with different Montmorillonite contents,” in ISEM 2011, 10th International Symposium on Advanced Science and Technology in Experimental Mechanics, Japan, 2015, pp. 23-28. 5. Nguyen Ngoc Thang, Le Van Nam, Nguyen Minh Tam, “Effect of Montmorillonite content on the bearing capacity of soft ground by deep mixing column using scale model,” in GEOTEC HANOI 2016, International Conference on Geotechnics for sustainable infrastructure development, Vietnam, 2016, pp. 735-740. D. Công trình NCKH đã tham gia Tham gia đề tài NCKH cấp Trường mang tên “Ảnh hưởng của hàm lượng Montmorillonite trong đất đến độ bền cơ học của cọc đất - xi măng dùng xử lý nền móng công trình xây dựng trên đất yếu,” 2011-2012. E. Tham gia trao đổi, học tập ở nước ngoài Tham gia trao đổi, học tập tại trường Đại học Kumamoto (Nhật Bản) từ tháng 10/2010 đến tháng 09/2011.
File đính kèm:
- luan_an_tom_tat_nghien_cuu_anh_huong_cua_khoang_vat_montmori.pdf