Lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin trong việc hình thành đường lối kinh tế của Đảng, nhà nước ta hiện nay

Hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung

sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ

kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Những thành tựu to lớn

về kinh tế đã khẳng định đường lối, chính sách về kinh tế của Đảng và Nhà

nước ta hoàn toàn đúng đắn. Qua đó cho thấy sự vận dụng sáng tạo của Đảng

về lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin trong thời kỳ đổi mới phát triển kinh tế - xã

hội đất nước.

pdf 8 trang yennguyen 9160
Bạn đang xem tài liệu "Lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin trong việc hình thành đường lối kinh tế của Đảng, nhà nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin trong việc hình thành đường lối kinh tế của Đảng, nhà nước ta hiện nay

Lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin trong việc hình thành đường lối kinh tế của Đảng, nhà nước ta hiện nay
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 
14 
LÝ LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN TRONG 
VIỆC HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI KINH TẾ 
CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY 
 NGUYỄN VĂN ĐIỂN* 
PHẠM THỊ THÙY LINH** 
Hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung 
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ 
kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Những thành tựu to lớn 
về kinh tế đã khẳng định đường lối, chính sách về kinh tế của Đảng và Nhà 
nước ta hoàn toàn đúng đắn. Qua đó cho thấy sự vận dụng sáng tạo của Đảng 
về lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin trong thời kỳ đổi mới phát triển kinh tế - xã 
hội đất nước. 
Từ khóa: kinh tế chính trị Mác - Lênin, đường lối kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam 
Nhận bài ngày: 12/4/2019; đưa vào biên tập: 14/4/2019; phản biện: 26/4/2019; 
duyệt đăng: 27/5/2019 
1. KHÁI LƯỢC VỀ LÝ LUẬN KINH 
TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN 
Kinh tế chính trị Mác - Lênin do C. Mác 
(1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 - 
1895) sáng lập và sau này được V.I. 
Lênin (1870 - 1924) kế thừa và phát 
triển trong điều kiện chủ nghĩa tư bản 
tự do cạnh tranh chuyển sang chủ 
nghĩa tư bản độc quyền. Kinh tế chính 
trị Mác - Lênin có đối tượng nghiên 
cứu là quan hệ sản xuất trong sự tác 
động qua lại với lực lượng sản xuất 
và kiến trúc thượng tầng nhằm tìm ra 
bản chất của các hiện tượng và quá 
trình kinh tế, phát hiện ra các phạm 
trù, quy luật kinh tế của đời sống xã 
hội, tìm ra các quy luật chi phối sự 
vận động kinh tế - xã hội. Trên c s 
kế thừa và phát triển những quan 
điểm về kinh tế hàng hóa, kinh tế tư 
bản chủ nghĩa của các nhà kinh tế học 
như W. Petty, A. Smith, D. Ricardo 
C. Mác và Ph. Ăngghen đ y dựng 
l thuyết inh tế với những luận giải 
về c s hình thành, phát triển, bản 
chất của nền sản xuất tư bản chủ 
nghĩa, những quan hệ kinh tế và các 
quy luật chi phối quá trình sản xuất, 
trao đổi, phân phối, tiêu dùng của cải 
vật chất trong nền kinh tế tư bản chủ 
nghĩa. 
Nghiên cứu lý luận c bản về sản xuất 
hàng hóa giản đ n, C. Mác là người 
đầu tiên phát hiện tính chất hai mặt 
của lao động sản xuất hàng hóa (lao 
động cụ thể và lao động trừu tượng) 
* , ** 
Học viện Chính trị Khu vực II. 
NGUYỄN VĂN ĐIỂN - PHẠM THỊ THÙY LINH – LÝ LUẬN KINH TẾ 
15 
và đ chỉ ra giá trị hàng hóa là c s 
chung nhất của việc trao đổi hàng hóa 
có giá trị khác nhau. Giá trị hàng hóa 
có hai mặt: chất và lượng. Chất của 
giá trị hàng hóa là do hao phí lao động 
của người sản xuất hàng hóa kết tinh 
trong hàng hóa. Lượng giá trị hàng 
hóa do lượng lao động tiêu hao để 
làm ra hàng hóa quyết định. Lượng 
lao động tiêu hao ấy được tính theo 
thời gian. “Bản thân số lượng lao 
động thì đo bằng thời gian lao động, 
còn thời gian lao động thì lại đo bằng 
những phần nhất định của thời gian 
như giờ, ngày...” (C. Mác, 1984: 56). 
Một loại hàng hóa có nhiều người sản 
xuất, mỗi người có hao phí lao động 
cá biệt (thời gian lao động cá biệt) 
 hác nhau nên hàng hóa được sản 
xuất ra có những giá trị cá biệt khác 
nhau. Theo C. Mác (1984: 63), “[L]ao 
động phức tạp chỉ là lao động giản 
đ n được n ng lên lũy thừa, hay nói 
cho đúng h n, là lao động giản đ n 
được nhân lên, thành thử một lượng 
lao động phức tạp nhỏ h n thì tư ng 
đư ng với một lượng lao động giản 
đ n lớn h n”. Trong trao đổi hàng hóa, 
người ta lấy lao động giản đ n làm 
đ n vị tính toán và quy tất cả lao động 
phức tạp thành lao động giản đ n 
trung bình. 
Trên c s phân tích sự hình thành và 
phát triển các hình thái giá trị hàng 
hóa, C. Mác phát hiện ra tiền tệ là 
hàng hóa đặc biệt trong thế giới hàng 
hóa, từ đó phân tích quy luật lưu 
thông tiền tệ của nền sản xuất hàng 
hóa. 
Từ những phạm trù kinh tế c bản 
của sản xuất hàng hóa, Mác nghiên 
cứu quy luật kinh tế c bản của nền 
sản xuất tư bản chủ nghĩa mà cốt lõi 
là sản xuất giá trị thặng dư. Xuất phát 
từ công thức chung của tư bản T-H-T’, 
Mác (1993: 249) đ mổ xẻ mâu thuẫn 
trong công thức chung của tư bản: “tư 
bản không thể xuất hiện từ lưu thông 
và cũng hông thể xuất hiện bên 
ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện 
trong lưu thông và đồng thời không 
phải trong lưu thông”. C. Mác là người 
đầu tiên phân tích và giải quyết mâu 
thuẫn đó bằng phát hiện ra hàng hóa 
sức lao động - c s của nguồn gốc 
giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản. 
Trên c s phân tích giá trị thặng dư, 
C. Mác đ tìm ra bản chất của tiền 
công tư bản chủ nghĩa hông phải là 
giá cả của lao động mà là giá cả của 
sức lao động. Thông qua phân tích sự 
vận động của tư bản cá biệt và tái sản 
xuất tư bản xã hội, C. Mác đ em ét 
các hình thái tư bản và các hình thức 
biểu hiện của giá trị thặng dư. Với 
những đóng góp to lớn đó, C. Mác đ 
xây dựng được khoa học kinh tế chính 
trị về phư ng thức sản xuất trong thời 
kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. 
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu 
thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ 
giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ 
nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền 
nhà nước, Lênin đ y dựng lý luận 
khoa học kinh tế chính trị trong điều 
kiện mới của chủ nghĩa tư bản. Ông 
đ chỉ ra năm đặc điểm kinh tế c bản 
của chủ nghĩa tư bản độc quyền và 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 
16 
cho rằng bản chất kinh tế của chủ 
nghĩa đế quốc là ăn bám, bóc lột. Bên 
cạnh đó, việc tổng kết kinh nghiệm 
thực tiễn nước Nga sau Cách mạng 
tháng Mười, Lênin đ y dựng lý 
luận kinh tế chính trị trong thời kỳ quá 
độ lên chủ nghĩa hội (giai đoạn 
thấp của chủ nghĩa cộng sản) và chỉ 
rõ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 
là thời kỳ vô cùng hó hăn, phức tạp 
và l u dài. Để xây dựng thành công 
chủ nghĩa hội cần phải tạo ra những 
tiền đề kinh tế, xã hội trong thời kỳ 
quá độ. Đó là chế độ kinh tế - xã hội 
cao h n chủ nghĩa tư bản cả lực 
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 
Sau Lênin, kinh tế chính trị mác-xít 
được bổ sung b i những nhà lý luận 
Liên Xô với nội dung chủ yếu về sản 
xuất của chủ nghĩa hội; nâng cao 
hiệu quả của sản xuất thông qua kế 
hoạch; vai trò của nhà nước và công 
cụ quản lý của nhà nước; kế hoạch 
hóa, hạch toán kinh tế, c chế kinh tế, 
tài chính, tín dụng; chủ nghĩa tư bản 
hiện đại và sự biến đổi của chủ nghĩa 
tư bản hiện đại. 
2. VẬN DỤNG LÝ LUẬN KINH TẾ 
CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN VÀO THỰC 
TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM 
Kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp 
những luận cứ khoa học để hoạch 
định đường lối, chính sách và biện 
pháp kinh tế phù hợp quy luật khách 
quan. Đường lối, chính sách và các 
biện pháp kinh tế dựa trên những luận 
cứ khoa học đúng đắn đ được nhận 
thức sẽ đi vào cuộc sống làm cho nền 
kinh tế phát triển hiệu quả h n, bền 
vững h n. Các nhà nghiên cứu đ chỉ 
rõ vai trò của kinh tế chính trị Mác - 
Lênin là: góp phần biến chủ nghĩa 
hội hông tư ng thành chủ nghĩa 
hội khoa học; đồng thời nghiên cứu 
“thực chứng” bản chất bóc lột và chỉ 
ra tiền đề cách mạng giải phóng khỏi 
áp bức bất công như “tiếng sét nổ” 
giữa “bầu trời quang đ ng” của chủ 
nghĩa tư bản. 
Kinh tế chính trị Mác - Lênin cùng với 
triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa hội 
khoa học đ góp phần quan trọng đặc 
biệt trong những thắng lợi của cách 
mạng Việt Nam. Trên c s vận dụng 
và phát triển những nguyên lý của chủ 
nghĩa Mác - Lênin trong đó có l luận 
kinh tế chính trị vào những điều kiện 
cụ thể của Việt Nam, Đảng ta đ luôn 
 iên định xây dựng nước ta tiến lên 
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ chủ 
nghĩa tư bản, xây dựng đường lối, 
chính sách kinh tế hiệu quả cho đất 
nước. Thực tế này đ được minh 
chứng b i thành tựu phát triển inh tế - 
 hội của Việt Nam qua h n 32 năm 
đổi mới cho thấy đ có sự đóng góp 
rất lớn của lý luận kinh tế chính trị 
Mác - Lênin. 
* Vận dụng trong lựa chọn con đường 
đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ 
tư bản chủ nghĩa 
Việc lựa chọn thực hiện cách mạng 
dân tộc - dân chủ - nhân dân (Cách 
mạng tháng 8/1945) và con đường đi 
lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ tư 
bản chủ nghĩa đ thể hiện Đảng ta 
vận dụng linh hoạt, sáng tạo những 
“vũ hí l luận” của kinh tế chính trị 
NGUYỄN VĂN ĐIỂN - PHẠM THỊ THÙY LINH – LÝ LUẬN KINH TẾ 
17 
Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn Việt 
Nam. Đ y là tiền đề mang lại thành 
tựu quan trọng của cách mạng Việt 
Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng có 
những giai đoạn còn thiếu sót, sai lầm 
trong vận dụng nguyên l c bản của 
kinh tế chính trị mác-xít. 
Trước năm 1986, trên c s lý luận 
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và 
Nhà nước ta đ vận dụng máy móc 
quan điểm “ óa bỏ một cách tích cực 
chế độ tư hữu” (C. Mác và Ph. 
Ăngghen, 2000: 183) chưa nhận thức 
thấu đáo nghĩa mà Mác muốn đề 
cập, đó là: chủ nghĩa cộng sản là mặt 
đối lập của chế độ tư hữu, nhưng nó 
không phải là sự xóa bỏ chế độ tư 
hữu bằng mọi giá, mà là “ óa bỏ một 
cách tích cực chế độ tư hữu” đang 
dùng để “nô dịch” người lao động. Sự 
xóa bỏ đó diễn ra một cách có ý thức 
và luôn giữ lại những gì là hợp lý, tiến 
bộ của sự phát triển trước đó. Chính 
việc chưa hiểu thực chất tinh thần 
“ óa bỏ chế độ tư hữu một cách tích 
cực” của C. Mác và do nóng vội chủ 
quan, bất chấp quy luật “quan hệ sản 
xuất phù hợp với tính chất, trình độ 
phát triển của lực lượng sản xuất”, 
nên trong một thời gian khá dài, Việt 
Nam đ áp dụng mô hình kinh tế kế 
hoạch hóa tập trung, quan liêu bao 
cấp, mà thực chất là mô hình kinh tế 
cứng nhắc phi thị trường, quá đề cao 
vai trò của một thành phần kinh tế xã 
hội chủ nghĩa dưới hai hình thức: kinh 
tế quốc doanh và kinh tế tập thể, còn 
thành phần hác như inh tế tư nh n 
bị gọi là “phi hội chủ nghĩa” và bị 
“cải tạo”, xóa bỏ. Cách làm này chính 
là “ óa bỏ chế độ tư hữu một cách tiêu 
cực”, triệt tiêu các động lực phát triển 
kinh tế của xã hội. 
Kết quả là thành phần kinh tế xã hội 
chủ nghĩa phát triển mạnh về số 
lượng, m rộng quy mô nhưng năng 
suất, hiệu quả lao động thấp, nền kinh 
tế lâm vào tình trạng trì trệ, khủng 
hoảng kinh tế trầm trọng, lạm phát phi 
m , đời sống nhân dân hết sức khó 
 hăn. Trước tình thế đó, Đảng và Nhà 
nước ta đ đổi mới nhận thức về bản 
chất quan điểm, lý luận của Kinh tế 
chính trị Mác - Lênin và vận dụng 
sáng tạo, linh hoạt vào tình hình cụ 
thể của đất nước để đạt được kết quả 
to lớn về phát triển kinh tế - xã hội. 
* Vận dụng trong xây dựng, phát triển 
nền kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa 
Đến năm 1986, trước những hó hăn 
tư ng chừng không thể vượt qua nổi, 
Đảng ta đ tổng kết kinh nghiệm từ 
thực tiễn, vận dụng quy luật “quan hệ 
sản xuất phù hợp với tính chất và 
trình độ phát triển của lực lượng sản 
xuất”, “kinh tế thị trường là nền kinh tế 
hàng hóa phát triển cao” vào điều 
kiện cụ thể của nước ta, đưa ra 
đường lối đổi mới trong phát triển đất 
nước; chuyển nền kinh tế từ c chế 
kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao 
cấp sang c chế thị trường có sự 
quản lý của nhà nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần 
thứ VI (12/1986) của Đảng thực sự là 
đại hội của những quyết sách lớn, tạo 
ra bước ngoặt lịch sử cho sự phát 
triển của đất nước. Đại hội đ chỉ rõ: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 
18 
Nhà nước ta phải xây dựng xã hội 
mới từ lực lượng sản xuất, quan hệ 
sản xuất đến kiến trúc thượng tầng. 
Đại hội đ đặt ra vấn đề phát triển 
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần 
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, 
đồng thời hướng tới phát triển một c 
cấu kinh tế đa s hữu trong đó hẳng 
định vai trò chủ đạo của kinh tế quốc 
doanh và kinh tế tập thể. Từ đó, các 
khái niệm thị trường bắt đầu được sử 
dụng như: cung - cầu, giá cả thị 
trường, cạnh tranh đồng thời nhà 
nước thừa nhận sự tồn tại và đưa ra 
chính sách phát triển thành phần kinh 
tế tư nh n và inh tế có vốn đầu tư 
nước ngoài. Đại hội VII (1991) tiếp tục 
khẳng định: “nền kinh tế có nhiều 
thành phần với nhiều dạng s hữu và 
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh 
phù hợp với trình độ của lực lượng 
sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát 
triển có hiệu quả nền sản xuất xã hội” 
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991: 8). 
Đại hội VIII (1996) Đảng ta đ ác 
định mô hình kinh tế tổng quát của 
nước ta “phát triển nền kinh tế hàng 
hóa nhiều thành phần, vận hành theo 
c chế thị trường có sự quản lý của 
nhà nước theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 
1996: 82). Đại hội đ làm rõ định 
hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây 
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều 
thành phần vận hành theo c chế thị 
trường có sự quản lý của nhà nước. 
Đại hội IX (4/2001) đ định hình và cụ 
thể mô hình kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam: 
“thực hiện nhất quán lâu dài chính 
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa 
nhiều thành phần vận động theo c 
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà 
nước theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 
2001: 86). 
Đại hội XII (2016) đ ế thừa từ các 
đại hội trước và bổ sung quan điểm về 
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta: 
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh 
tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các 
quy luật của kinh tế thị trường, đồng 
thời bảo đảm định hướng xã hội chủ 
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát 
triển của đất nước. Đó là nền kinh tế 
thị trường hiện đại và hội nhập quốc 
tế; có sự quản lý của nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng 
sản Việt Nam l nh đạo, nhằm mục 
tiêu d n giàu, nước mạnh, dân chủ, 
công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản 
Việt Nam, 2016: 103). Trải qua các kỳ 
đại hội, đường lối, chủ trư ng, chính 
sách xây dựng nền kinh tế nước ta đ 
được xác lập bằng hiến pháp, pháp 
luật và được đưa vào thực tiễn cuộc 
sống sinh động, phát triển hiện nay. 
* Vận dụng để xây dựng thể chế sở 
hữu và các thành phần kinh tế 
Từ chỗ chúng ta chỉ thừa nhận một 
chế độ s hữu duy nhất là chế độ 
công hữu (s hữu toàn dân và s hữu 
tập thể) và một thành phần kinh tế xã 
hội chủ nghĩa ( inh tế quốc doanh và 
kinh tế tập thể), chuyển sang thừa 
nhận trên thực tế có nhiều hình thức 
s hữu (s hữu toàn dân, s hữu tập 
thể, s hữu tư nh n), nhiều thành 
NGUYỄN VĂN ĐIỂN - PHẠM THỊ THÙY LINH – LÝ LUẬN KINH TẾ 
19 
phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế 
tập thể, kinh tế tư nh n, inh tế có vốn 
đầu tư nước ngoài), trong đó, inh tế 
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế 
nhà nước cùng với kinh tế tập thể tr 
thành nền tảng của nền kinh tế quốc 
d n. Đặc biệt, vai trò của s hữu tư 
nhân hay thành phần kinh tế tư nh n 
ngày càng được coi trọng, tr thành 
“động lực quan trọng của nền kinh tế” 
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016: 107-
108). Nhận thức rõ vai trò to lớn của 
đa dạng hóa hình thức s hữu và các 
thành phần kinh tế, Nhà nước đ ban 
hành các luật nhằm tạo c s pháp lý 
cho sự ra đời các chủ thể kinh tế thị 
trường, như: Luật Doanh nghiệp tư 
nhân; Luật Công ty (1990) được sửa 
đổi, bổ sung và nhập thành Luật 
Doanh nghiệp (1999), sửa đổi bổ sung 
(2005 và 2014); Luật Đầu tư trực tiếp 
nước ngoài tại Việt Nam (1987) và 
sửa đổi (1990, 1992, 1996, 2000, 
2005 và 2014)... Phát triển nhiều 
thành phần kinh tế và các chủ thể kinh 
tế thị trường làm cho nền kinh tế phát 
triển năng động, cạnh tranh lành 
mạnh giữa các thành phần kinh tế, 
huy động được nguồn lực trong nước 
và ngoài nước tạo ra nguồn lực to lớn 
cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. 
* Vận dụng để xây dựng và phát triển 
các loại thị trường 
Trước đổi mới, Nhà nước có vai trò 
chỉ huy, điều tiết các nguồn lực trong 
nền kinh tế mà không tuân theo, 
không thừa nhận c chế thị trường – 
“bàn tay vô hình”. Chuyển sang xây 
dựng và phát triển nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, 
Đảng thừa nhận tư liệu sản xuất, tư 
liệu tiêu dùng là hàng hóa được mua 
bán tự do theo c chế thị trường. Đại 
hội VII, VIII, IX của Đảng đ hẳng 
định từng bước hình thành đồng bộ 
các loại thị trường hàng tiêu dùng, thị 
trường vốn, thị trường tiền tệ, thị 
trường ngoại hối, thị trường hàng hóa 
sức lao động, thị trường bất động sản, 
thị trường khoa học công nghệ, Đại 
hội X, Đảng nhấn mạnh: “tạo lập đồng 
bộ và vận hành thông suốt các loại thị 
trường, để các giao dịch thị trường 
diễn ra phù hợp với các nguyên tắc 
của thị trường” (Đảng Cộng sản Việt 
Nam, 2006: 240-241). 
Hiện thực hóa nhận thức của Đảng về 
xây dựng và phát triển các loại thị 
trường, Nhà nước đ ban hành các 
quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện 
thuận lợi cho các hoạt động sản xuất 
 inh doanh, như: Luật Thư ng mại 
(2005, hợp nhất với Luật Quản lý 
ngoại thư ng năm 2017); Luật Đất đai 
(1993, sửa đổi 2005, 2013); Bộ Luật 
Lao động (1994, 2012); Luật Ngân 
hàng nhà nước (2010); Luật các tổ 
chức tín dụng (2010, 2017); Luật 
Khoa học và công nghệ (2000); Luật 
S hữu trí tuệ (2005); Luật Công nghệ 
thông tin (2006) 
* Vận dụng để xác định rõ vai trò, 
chức năng của Nhà nước đối với nền 
kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa 
Trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa 
tập trung, Nhà nước có vai trò điều 
hành, quản lý toàn bộ nền kinh tế theo 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 4 (248) 2019 
20 
một c chế tập trung thống nhất. Nhà 
nước quyết định toàn bộ việc sản xuất 
cái gì, sản xuất như thế nào, số lượng 
và giá cả sản phẩm bao nhiêu mà 
không dựa vào nhu cầu của thị trường. 
Chuyển sang nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò 
Nhà nước đ thay đổi theo hướng tích 
cực. Theo đó, vai trò của Nhà nước 
được ác định rõ: Nhà nước tạo môi 
trường pháp lý, kinh tế - xã hội ổn 
định, thuận lợi cho các cá nhân, 
doanh nghiệp thuộc các thành phần 
kinh tế hoạt động; định hướng và 
hướng dẫn phát triển kinh tế - xã hội; 
nhà nước tổ chức quản l các đ n vị 
kinh tế, phân bố các nguồn lực kinh tế 
phù hợp với c chế thị trường; điều 
tiết nền kinh tế thị trường và kiểm tra, 
kiểm soát nhằm thiết lập trật tự kỷ 
cư ng trong hoạt động kinh tế. 
3. THAY LỜI KẾT 
Đường lối đổi mới đúng đắn, hợp quy 
luật phát triển tạo nên động lực to lớn 
đ vực dậy nền kinh tế đang suy yếu 
trong khủng hoảng, giải phóng các lực 
lượng sản xuất, phát huy các tiềm 
năng của đất nước và thu được nhiều 
thành tựu to lớn. Nếu như trước đổi 
mới GDP tăng chưa đầy 4% (Nguyễn 
Thiện Nhân, 2015) thì sau đổi mới, từ 
1986 đến 2016, GDP tăng trư ng liên 
tục, bình quân mức 6,7% (Phùng 
Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, 
Nguyễn Viết Thông, 2016: 186). Năm 
2018, tốc độ tăng trư ng đạt 7,08% 
(Tổng cục Thống kê, 2019), là mức 
tăng cao nhất trong 10 năm qua và 
đứng trong “top” những quốc gia tăng 
trư ng cao nhất trên thế giới. Tăng 
trư ng kinh tế liên tục đ hông chỉ 
đưa Việt Nam nhanh chóng thoát khỏi 
khủng hoảng, nước nghèo để gia nhập 
vào nhóm nước có thu nhập trung bình 
thấp (năm 2008, với GDP bình quân 
đầu người là 1.024 USD (Thời báo 
Kinh tế Việt Nam, 2009: 4)) mà còn rút 
ngắn đáng ể khoảng cách thu nhập 
so với các nước trong khu vực. Năm 
1988, quy mô GDP chưa tới 5,5 tỷ 
USD, GDP đầu người chỉ đạt 86 USD; 
đến năm 2018, quy mô GDP đ đạt 
h n 240 tỷ USD, tăng h n 43,6 lần, 
GDP đầu người đạt 2.587 USD, tăng 
30,08 lần so với năm 1988. Theo dữ 
liệu so sánh của Ngân hàng Thế giới 
(WB), năm 1990, GDP bình qu n đầu 
người của Thái Lan là 1.508 USD, con 
số tư ng ứng của Việt Nam là 98 USD, 
khoảng cách chênh lệch tới 15,3 lần. 
Đến năm 2015, GDP bình qu n đầu 
người của Thái Lan lên 5.815 USD, 
con số tư ng ứng của Việt Nam là 
2.111 USD, khoảng cách rút ngắn còn 
2,7 lần. Với Philippines năm 1990, 
GDP bình qu n đầu người cao gấp 7,3 
lần so với Việt Nam (715 USD so với 
98 USD), khoảng cách này đến năm 
2015 còn chưa tới 1,4 lần (2.904 USD 
so với 2.111 USD). Với Ấn Độ năm 
1990, GDP bình qu n đầu người cao 
gấp 3,8 lần so với Việt Nam (375 USD 
so với 98 USD), đến năm 2015 Việt 
Nam đ vượt Ấn Độ (2.111 USD so với 
1.593 USD) (Trư ng Minh Tuấn, 2017). 
Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành 
Trung ư ng Đảng khóa XI tại Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của 
NGUYỄN VĂN ĐIỂN - PHẠM THỊ THÙY LINH – LÝ LUẬN KINH TẾ 
21 
Đảng đ hẳng định: “Những thành 
tựu to lớn, có nghĩa lịch sử qua 30 
năm đổi mới khẳng định đường lối đổi 
mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng 
tạo; con đường đi lên chủ nghĩa hội 
của nước ta là phù hợp với thực tiễn 
của Việt Nam và xu thế phát triển của 
lịch sử Đại hội Đảng lần thứ X 
khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh 
mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát 
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tư ng 
Hồ Chí Minh, iên định mục tiêu độc 
lập dân tộc và chủ nghĩa hội; tăng 
cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu 
lý luận, dự báo chính xác và kịp thời 
có chủ trư ng, chính sách ử lý hiệu 
quả những vấn đề mới nảy sinh trong 
thực tiễn” (Đảng Cộng sản Việt 
Nam, 2006: 16-17). Những thành 
công đạt được đó cho thấy vai trò to 
lớn và đặc biệt quan trọng của những 
nguyên l c bản của kinh tế chính trị 
Mác - Lênin đối với tiến trình xây dựng 
đường lối, chủ trư ng, chính sách 
kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1991. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội. Hà Nội: Nxb. Sự thật. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1996. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. 
Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2001. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. 
Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2006. Văn iện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. 
Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. 
Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
6. https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu_l%E1%BA%A1m_ph%C3%A1t 
7. C. Mác và Ph. Ăngghen. 1993. Toàn tập, tập 23. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
8. C. Mác và Ph. Ăngghen. 2000. Toàn tập, tập 42. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
9. C. Mác. 1984. Tư bản, Tập thứ nhất, Phần 1. Hà Nội: Nxb. Sự thật. 
10. Nguyễn Thiện Nh n. 2015. “GDP tăng gấp 30 lần sau đổi mới”. Báo Tiền Phong 
điện tử, ngày 2/9/2015 (https://www.tienphong.vn/kinh-te/gdp-tang-gap-30-lan-sau-doi-
moi-904422.tpo). 
11. Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên). 
2016. Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
12. Thời báo Kinh tế Việt Nam. 2009. Kinh tế 2008 - 2009: Việt Nam và thế giới. Hà Nội: 
Nxb. Thông tin và Truyền thông. 
13. Tổng cục Thống kê. 2019. Niên giám thống kê. Hà Nội: Nxb. Thống kê. 
14. Trư ng Minh Tuấn. 2017. “Sức thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa”. Báo Nhân dân điện tử, ngày 5/6/2017. 

File đính kèm:

  • pdfly_luan_kinh_te_chinh_tri_mac_lenin_trong_viec_hinh_thanh_du.pdf