Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM
TÓM TẮT
Những phát triển nghiên cứu gần đây cố
gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS – LM
(Investment – Saving/ Liquidity Preference -
Money Supply) trong phân tích chính sách khi
cố gắng thay thế vai trò của giá cả bằng mức
lạm phát và sử dụng lãi suất như là công cụ
đại diện cho hành động của Ngân hàng Trung
Ương (NHTW) hơn là cung tiền. Mô hình
đề xuất IS – MP – IA (Investment – Saving,
Monetary Policy, Inflation Adjustment) được
xem là có nhiều ưu điểm khi mô phỏng nền
kinh tế với chức năng của lãi suất thực, giúp
kiềm chế lạm phát nhưng đảm bảo mức tăng
sản lượng của nền kinh tế. Mặc dù đây chưa
phải là khuôn khổ thay thế hoàn hảo nhưng đã
góp phần xây dựng mô hình phân tích chính
sách trở nên thực tế và hợp lý hơn.
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM
12 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật MÔ HÌNH KEYNESIAN MỚI KHÔNG CÓ ĐƯỜNG CONG LM Nguyễn Hoàng Chung*, Trương Văn Cường**, Hồ Đăng Huy*** TÓM TẮT * ThS. GV. Trường Đại học Kinh Tế - Kỹ Thuật Bình Dương. NCS. Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh. ĐT: 0906.672.588, Email: nhchung@ktkt.edu.vn ** ThS. GV. Trường Đại học Kinh Tế - Kỹ Thuật Bình Dương, Email: tvcuong@ktkt.edu.vn *** CN. GV. Trường Đại học Kinh Tế - Kỹ Thuật Bình Dương, Email: hdhuy@ktkt.edu.vn Những phát triển nghiên cứu gần đây cố gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS – LM (Investment – Saving/ Liquidity Preference - Money Supply) trong phân tích chính sách khi cố gắng thay thế vai trò của giá cả bằng mức lạm phát và sử dụng lãi suất như là công cụ đại diện cho hành động của Ngân hàng Trung Ương (NHTW) hơn là cung tiền. Mô hình đề xuất IS – MP – IA (Investment – Saving, Monetary Policy, Inflation Adjustment) được xem là có nhiều ưu điểm khi mô phỏng nền kinh tế với chức năng của lãi suất thực, giúp kiềm chế lạm phát nhưng đảm bảo mức tăng sản lượng của nền kinh tế. Mặc dù đây chưa phải là khuôn khổ thay thế hoàn hảo nhưng đã góp phần xây dựng mô hình phân tích chính sách trở nên thực tế và hợp lý hơn. Từ khóa: mô hình IS – LM, mô hình Keynesian mới, mô hình IS – MP – IA. A NEW KEYNESIAN MODEL WITHOUT THE LM CURVE ABSTRACTS Recently researches try to reduce the role of the model IS-LM in the analyzing economic policy. These studies try to replace the role of the price by the inflation and the interest rate which are considered as the policy tools for Central Banks. The model IS - MP - IA has advantages with the real interest rate that controlling inflation but increasing an output of the economy. This model is an incomplete one but this contributes to building the rational macroeconomic model. Keywords: IS – LM model, New Keyensian model, IS – MP – IA model. 1. TỔNG QUAN VỀ CÁCH TIẾP CẬN MỚI Mô hình IS-LM là lý thuyết tổng quát về tổng cầu. Các biến ngoại sinh trong mô hình này là chính sách tiền tệ, chính sách tài chính và mức giá. Mô hình giải thích hai biến nội sinh là lãi suất và thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, giống với tất cả mô hình đã nghiên cứu, IS – LM cũng không phải là mô hình tổng quát. Mô hình này thiếu nền tảng kinh tế vi mô do đơn giản hóa sự phức tạp của nền kinh tế đối với một số mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế, giả định về giá cả cứng nhắc, không cho thấy ảnh hưởng đối với yếu tố kỳ vọng. Một thay đổi lớn là các cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học về hiệu quả tương đối của chính sách tiền tệ và tài khóa là trọng 13 tâm của kinh tế vĩ mô trong những năm 1960 - 1970 thì hiện nay có ít ý nghĩa trong việc phân tích các biến động ngắn hạn. Thực tế, một thay đổi quan trọng là hầu hết các NHTW, bao gồm cả Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), giờ đây ít quan tâm đến việc tổng khối lượng cung tiền trong việc thực thi chính sách (được xem là giả định cơ bản của mô hình IS – LM). Tóm lại, những phát triển gần đây đang cố gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS - LM trong phân tích chính sách. Điều này dẫn đến câu hỏi liệu mô hình IS-LM có còn là sự lựa chọn tốt nhất như là mô hình cơ bản đại diện cho các dao động trong ngắn hạn và sử dụng như là cơ sở cho phân tích chính sách. Một số nghiên cứu gần đây cố gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS – LM trong phân tích chính sách và chỉ ra các hạn chế này là trọng yếu trong phân tích chính sách hiện nay. Thứ nhất, nghiên cứu của Romer (2012) đã thay thế đường cong LM (giả định rằng NHTW đặt mục tiêu cung tiền) với giả định rằng NHTW thực hiện theo một quy tắc lãi suất thực. Cách tiếp cận mới này có lợi thế rõ ràng trong việc giải quyết vấn đề mà mô hình IS-LM giả định thông qua mục tiêu cung tiền. Thứ hai, một nguyên nhân khác có thể thấy rằng vai trò của NHTW ngày càng trở nên quan trọng, nếu như trước đây để tìm hướng đi và công cụ thích hợp để điều hành CSTT hiệu quả bằng cách kiểm soát khối lượng tiền tệ với công cụ là tổng phương tiện thanh toán M1 sau đó chuyển sang M2. Tuy nhiên với sự phát triển của thị trường tài chính đi cùng với các tài sản tài chính phái sinh cao cấp ra đời (MBS, CDO, CDS,)1 việc xác định tổng phương tiện thanh toán là rất khó khăn. Vì vậy các NHTW đặc biệt là FED đã chuyển dần cách thức điều hành CSTT từ công cụ mục tiêu M2 sang công cụ lãi suất. Một phần nguyên nhân là tính phức tạp của việc sử dụng khối lượng tiền, sự không bền vững của cầu tiền có nguyên nhân từ sự bất ổn trong ngắn hạn, trong đó phải kể đến sự tăng lên không được dự tính trong nhu cầu về tiền làm dịch chuyển đường LM, dẫn đến điểm cân bằng khác so với cân bằng mà NHTW dự tính khi quyết định mục tiêu về cung ứng tiền tệ tạo điều kiện để các NHTW của các nền kinh tế hiện đại chuyển sang điều hành lãi suất thay cho mục tiêu về cung tiền với tư cách là cơ sở cho quy tắc về CSTT dần được loại (Orphanides, 2007). Hình 1: Sự tăng lên không được dự tính trong nhu cầu về tiền Theo hình 1, đường LM 1 tương ứng với nhu cầu tiền ở mức “thấp” (vì có sự gia tăng đầy đủ về cung ứng tiền tệ) và LM 2 tương ứng với nhu cầu tiền ở mức “cao”. Giả định nhu cầu về tiền tăng lên nhưng NHTW chưa biết, chưa xác định hay chưa lượng hóa được việc này. Khi lựa chọn mục tiêu về cung tiền, NHTW kỳ vọng nền kinh tế tại E 1 nhưng thực tế những dịch chuyển không thấy trước trong nhu cầu về tiền khiến nền kinh tế tại E 2 . Đây không phải là điều mà CSTT theo đuổi khi đặt mục tiêu về cung tiền. 1 MBS: Mortgage Backed Securities; CDO: Collateralized Debt Obligation; CDS: Credit Default Swap Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM 14 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 2. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH IS – LM Mô hình giản lược IS - LM mô tả kinh tế vĩ mô sử dụng hai mối quan hệ liên quan đến sản lượng và lãi suất. Mối quan hệ đầu tiên liên quan đến thị trường hàng hóa. Lãi suất cao hơn làm giảm nhu cầu hàng hoá ở một mức thu nhập nhất định. Trong hầu hết các công thức của mô hình, nó làm giảm nhu cầu đầu tư; mô hình cũng làm giảm nhu cầu về tiêu dùng nói chung. Trong các phiên bản nền kinh tế mở với tỷ giá hối đoái thả nổi, tăng giá đồng nội tệ làm giảm xuất khẩu ròng. Lãi suất cao làm giảm nhu cầu, nó làm giảm mức sản lượng thấp hơn mức sản lượng cân bằng của nền kinh tế. Do đó, có một mối quan hệ nghịch biến giữa sản lượng và lãi suất, mối quan hệ này được gọi là đường cong IS. Mối quan hệ thứ hai liên quan đến thị trường tiền tệ, biểu thị mối quan hệ giữa lãi suất và thu nhập hình thành trên thị trường về số dư tiền tệ thực tế dựa trên lý thuyết ưa thích thanh khoản1. Khi thu nhập càng cao, nhu cầu về số dư thực tế càng cao và lãi suất cân bằng cũng càng cao, điều này làm đường LM dốc lên. Đường LM được vẽ cho mức cung nhất định về số dư tiền tệ thực tế, thể hiện mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa sản lượng và lãi suất. Hình 2: Biểu đồ IS - LM Giao điểm của IS - LM chỉ ra sự kết hợp sản lượng và lãi suất mà cả thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ đều cân bằng; giao điểm này cho thấy sản lượng và lãi suất cân bằng trong nền kinh tế. Việc tăng chi tiêu của chính phủ hoặc giảm thuế sẽ làm dịch chuyển đường cong IS sang bên phải, do đó tăng sản lượng và lãi suất khi nền kinh tế dịch chuyển lên theo đường cong LM. Mức độ ảnh hưởng đến sản lượng phụ thuộc vào độ dốc của hai đường cong và mức độ dịch chuyển của đường cong IS. Tương tự như vậy, sự gia tăng của cung về số dư tiền tệ thực tế làm đường LM dịch chuyển xuống dưới và sự giảm sút của cung về số dư tiền tệ thực tế làm đường LM dịch chuyển lên trên, do đó làm giảm (tăng) lãi suất và sản lượng. Mức độ ảnh hưởng của sản lượng phụ thuộc vào độ dốc và mức độ mà đường cong LM di chuyển. Mô hình giả định là phiên bản với mức giá cố định; do đó nó không thể được sử dụng để phân tích lạm phát. Bởi vì lạm phát ít được quan tâm (hay mức lạm phát thấp) trong những năm 1950 - 1960, vì vậy mô hình IS- LM cơ bản rất có giá trị. Nhưng khi lạm phát trở nên quan trọng (hay lạm phát tăng mạnh) vào cuối những năm 1960 - 1970, mô hình cần phải thay đổi. Sự gia tăng của lạm phát dẫn tới việc mở rộng mô hình IS - LM kết hợp tổng cung (AS), dẫn đến mô hình IS-LM-AS được sử dụng ngày nay. Các lý do chủ yếu của việc sử dụng mô hình mở rộng mô hình IS-LM là do sản lượng cao hơn dẫn đến mức giá cao hơn. Tác động của sản lượng đối với mức giá có thể là trực tiếp thông qua quyết định giá của các doanh nghiệp, hoặc gián tiếp thông qua tiền lương. Việc thiếu tính linh hoạt danh nghĩa hoàn toàn (đường cong AS ở trong không gian y – r thường dốc hay không phải 1 Lý thuyết ưa thích thanh khoản là một mô hình đơn giản về xác định lãi suất. Lý thuyết này coi cung ứng tiền tệ và mức giá là yếu tố ngoại sinh và giả định rằng lãi suất điều chỉnh để cân bằng cung và cầu về số dư tiền tệ thực tế. Nó hàm ý rằng sự gia tăng cung tiền làm giảm lãi suất (Nguyễn Văn Ngọc, 2009). 15 là đường thẳng đứng) là do tính chất của thị trường không hoàn hảo. Kết quả là, sự dịch chuyển của đường tổng cầu làm cho sản lượng tạm thời lệch khỏi mức sản lượng tự nhiên. Hay từ phương trình tổng cung (Nguyễn Văn Ngọc, 2009): ( ) eY Y P Pα− = − với α > 0 Trong đó Y là sản lượng, Y là sản lượng tự nhiên, P là mức giá và Pe là mức giá dự kiến (hay kỳ vọng về giá cả). Tham số α cho biết sản lượng phản ứng như thế nào đối với những thay đổi bất ngờ của mức giá, với độ dốc của đường tổng cung bằng 1/α. Phương trình này nói rằng độ lệch sản lượng khi mức giá lệch khỏi mức giá dự kiến (xác định thông qua kỳ vọng hợp lý hay dựa trên mức lạm phát trong quá khứ, hoặc là sự kết hợp cả hai yếu tố này). Và 4 mô hình tổng cung dưới đây nhấn mạnh một nguyên nhân nhất định làm cho sản lượng biến đổi cùng với những thay đổi về mức giá1 . Do đó, mô hình IS- LM-AS (Investment/ Saving - Liquidity Preference/Money Supply – Aggregate Supply) bao gồm ba phương trình: sản lượng, lãi suất, và mức giá. Tuy nhiên, việc mô tả một mô hình ba phương trình bằng đồ thị tương đối là khó khăn. Sự kết hợp giữa đường cong IS và LM có được mối quan hệ giữa sản lượng và mức giá. Với chức năng cung tiền (giả định nền tảng là đường cong LM) một mức giá cao hơn làm giảm cân bằng tiền thực. Do đó, đối với một mức thu nhập nhất định, mức lãi suất tại điểm cân bằng tăng lên. Đường cong LM thay đổi, đường cong IS và LM giao cắt nhau ở mức sản lượng thấp hơn trước. Mối quan hệ nghịch đảo giữa mức giá và sản lượng được gọi là đường tổng cầu. Đường tổng cầu và tổng cung sau đó sẽ xác định sản lượng và mức giá. Hình 3: Biểu đồ tổng cung cầu - tổng cầu Mô hình IS - LM - AS có thể được xem là khá đơn giản để phân tích các biến động kinh tế ngắn hạn hiện nay. Hai mô hình được biết đến nhiều nhất hiện nay phải kể đến mô hình cho rằng mức giá cứng nhắc và việc không đưa vào nền tảng vi mô cho mô hình kinh tế vĩ mô. Đầu tiên, tính cứng nhắc cho thấy việc thiếu điều chỉnh danh nghĩa hoàn hảo này làm cho thay đổi tiền tệ ảnh hưởng đến sản lượng thực trong ngắn hạn. Nó cũng tạo ra một kênh, thông qua đó, những thay đổi khác trong tổng cầu, chẳng hạn như những thay đổi trong chi tiêu của chính phủ, có tác động thực sự. Đây được xem như là một cơ sở hợp lý để hiểu được sự biến động thực tế nhất. Thứ hai là việc mô hình loại bỏ các nền tảng kinh tế vi mô như nhu cầu tiêu dùng, đầu tư, chủ yếu dựa trên các lập luận trực quan. Lợi ích của việc thiếu cơ sở này là đơn giản hoá rất lớn. Ngay cả những mô hình đơn giản nhất với nền tảng kinh tế vi mô là khó hơn 1 Theo Nguyễn Văn Ngọc (2009), bốn mô hình tổng cung đó là: mô hình tiền lương cứng nhắc, mô hình nhận thức sai lầm của công nhân, mô hình thông tin không hoàn hảo và mô hình giá cả cứng nhắc. Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM 16 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nhiều so với các thành phần tương ứng của IS-LM-AS1. Khi chuyển từ các tính năng cơ bản của mô hình IS-LM-AS sang các phiên bản của nó nhưng các phiên bản này được xem là khó, không nhất quán hoặc không thực tế. Một là, mặc dù nghiên cứu đã đề cập đến biến số lãi suất, nhưng thực tế lãi suất khác nhau có liên quan đến các bộ phận khác nhau của mô hình: lãi suất thực có liên quan đến nhu cầu hàng hóa (đường cong IS) trong khi lãi suất danh nghĩa có liên quan đến cầu tiền (đường cong LM). Hai là, tổng cầu và tổng cung đại diện cho mối quan hệ giữa sản lượng và mức giá, trong khi biến động của sản lượng và lạm phát mới là mối quan tâm hiện tại. Ví dụ, ở Hoa Kỳ sau chiến tranh, các cú sốc bất lợi đối với tổng cầu đã dẫn tới sự sụt giảm của lạm phát, chứ không phải là giảm trong mức giá, biểu hiện thông qua số dư tiền tệ thực tế (M/P) tại Hình 3. CSTT chỉ dẫn đến sự dịch chuyển có tính chất thu hẹp của đường cầu khi số dư tiền tệ thực tế giảm. Nhưng bằng chứng thực nghiệm đã chỉ ra từ năm 1929 – 1931 tại Mỹ, số dư tiền tệ thực tế lại tăng nhẹ (M/P); nguyên nhân là sự sụt giảm cung ứng tiền tệ (M) đi kèm sự sụt giảm của mức giá (P) nhưng lớn hơn (Nguyễn Văn Ngọc, 2009). Hình 4: Số dư tiền tệ thực tế tại Mỹ giai đoạn 1929 – 1940 Nguồn: Nguyễn Văn Ngọc (2009) 1 Giả thuyết về thu nhập vĩnh viễn cho thấy những thay đổi trong thu nhập khả dụng (disposable income) hiện nay chỉ ảnh hưởng đến tiêu dùng trong phạm vi ảnh hưởng đến thu nhập vĩnh viễn, trong khi hàm tiêu dùng trong mô hình IS-LM-AS truyền thống hàm ý rằng chúng có ảnh hưởng lớn đến tiêu dùng khả dụng. Sự thật dường như nằm ở giữa (ví dụ Campbell và Mankiw, 1989). Do đó chuyển từ giả thiết ngẫu nhiên (ad hoc) trong IS-LM-AS sang một công thức tương đối đơn giản dựa trên tối ưu hóa thời gian dường như không có lợi ích thực tế, nhưng dễ dàng phát sinh một chi phí lớn. Sự đánh đổi tương tự cho việc phân tích nhu cầu đầu tư, cầu tiền, tính cứng nhắc về giá cả và chắc chắn rằng trong các nền tảng kinh tế vi mô thì các mô hình đơn giản nhất cũng phức tạp và không thực tế so với các mô hình IS-LM-AS. Thứ ba, mô hình giả định rằng NHTW sẽ ấn định cung tiền nhưng hầu hết các NHTW ít quan tâm đến việc cung tiền trong việc thực thi chính sách. Tuy nhiên, khi bàn về tổng cung, có thể kết luận rằng tổng cung biểu hiện rất khác nhau trong ngắn hạn và dài hạn. Trong dài hạn, giá cả linh hoạt và đường tổng cung là đường thẳng đứng. Ngược lại trong ngắn hạn, giá cả cứng nhắc và đường tổng cung không thẳng đứng. Trong trường hợp này thì sự dịch 17 chuyển của đường tổng cầu là nguyên nhân gây ra sự biến động của tổng sản lượng1. Phần tiếp theo mô tả một sự thay thế cụ thể cho mô hình IS-LM-AS. Giống như IS- LM-AS, phương án thay thế giả định sự điều chỉnh danh nghĩa không hoàn hảo và thiếu nền tảng vi mô. Sự thay đổi là nó thay thế giả định rằng NHTW đặt mục tiêu cun ... y tiếp tục cho đến khi sản lượng đạt đến mức sản lượng tự nhiên (điểm ELR trong hình). Vào thời điểm đó, lạm phát là ổn định, và ở đó không có thêm thay đổi cho đến khi nền kinh tế bị tác động bởi các cú sốc. Một sự thay đổi về sản lượng do tác động của lạm phát buộc các NHTW điều chỉnh lãi suất thực để cho sản lượng trở lại mức cân bằng. Cơ chế hoạt động này cho phép mô tả diễn biến của các biến số vĩ mô chủ yếu từ thời điểm xảy ra cú sốc cho đến khi nền kinh tế quay trở lại trạng thái cân bằng dài hạn. Cơ chế giải thích như vậy phù hợp với các bằng chứng về thời kỳ giảm phát liên quan đến việc sản lượng dưới mức cân bằng nhưng lãi suất thực cao. 4.6. Động lực của mô hình rất đơn giản và hợp lý Ngược lại trong mô hình IS-LM-AS bất cứ khi nào tăng cung tiền và lạm phát khác nhau, khi thay đổi cung tiền thật, đường LM sẽ thay đổi. Kết quả là nền kinh tế sau cú sốc thường có sản lượng vượt quá mức sản lượng tự nhiên và xoắn ốc trong không gian y - π. Những diễn biến này tương đối phức tạp. Một ví dụ có thể làm cho mô hình rõ ràng hơn. Nền kinh tế bắt đầu trong trạng thái cân bằng dài hạn: sản lượng ở mức tự nhiên và lạm phát ổn định. Sau đó, niềm tin tiêu dùng giảm. Cụ thể, hàm tiêu dùng giảm xuống, do đó mức tiêu thụ tương ứng với mức thu nhập thấp hơn trước. Chúng ta có thể sử dụng sơ đồ IS-MP để tìm ra hiệu ứng ngắn hạn cho sản lượng. Sự sụt giảm trong niềm tin của người tiêu dùng làm dịch chuyển đường cong IS sang trái. Khi lạm phát không phản ứng ngay lập tức, đường cong MP không di chuyển. Do đó phân tích của IS-MP hàm ý rằng trong ngắn hạn, sản lượng giảm và lãi suất thực không thay đổi. Phân tích tương tự cũng hàm ý rằng ở bất kỳ mức lạm phát nào, sản lượng thấp hơn nó đã có trước đó. Tức là, sự sụt giảm niềm tin của người tiêu dùng làm thay đổi đường tổng cầu sang trái. Sự thay đổi được thể hiện trong hình 10. 22 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Hình 10: Ảnh hưởng của sự sụt giảm về hành vi tiêu dùng Ảnh hưởng trực tiếp của sự thay đổi này là chuyển nền kinh tế từ E 0 sang E 1 . Lạm phát không thay đổi và (như phân tích của IS-MP cho thấy) sản lượng giảm. Với sản lượng thấp hơn mức tự nhiên, lạm phát bắt đầu giảm. Khi nó giảm, NHTW hạ thấp lãi suất thực, tăng sản lượng (nền kinh tế đi xuống dọc theo đường cong tổng cầu AD 1 , như mũi tên trong hình). Quá trình này tiếp tục cho đến khi sản lượng được khôi phục theo tỷ lệ tự nhiên (điểm ELR trong hình). Kết quả cuối cùng là lạm phát thấp hơn và lãi suất thực thấp hơn. Hướng tiếp cận này dường như mô tả được các vấn đề quan trọng của nền kinh tế Hoa Kỳ trong Chiến tranh vùng Vịnh (năm 1990) và kết quả của nó là giảm sản lượng, giảm lạm phát và giảm lãi suất dẫn đến sự trở lại dần sản lượng ở mức bình thường. 4.7. Khái niệm đúng về tiền thì được xem là rõ ràng trong cách tiếp cận mới Một hệ quả của quan sát này là phương pháp tiếp cận mới cho phép phân loại với sự phân tích khó hiểu về cách hệ thống ngân hàng tạo tiền. Vấn đề chính ở đây là liệu việc tăng cung tiền có làm giảm lãi suất thực. Nếu có, NHTW có thể điều chỉnh khối lượng cung tiền để kiểm soát lãi suất thực và do đó có thể thực hiện theo một quy tắc lãi suất thực. Nhưng nếu tăng cung tiền mà không làm giảm lãi suất thực thì quy tắc này không có ý nghĩa. Để phân tích vấn đề này, bước đầu tiên là phân tích lãi suất danh nghĩa thành lãi suất thực và lạm phát kỳ vọng. Như vậy, điều kiện cân bằng trên thị trường tiền tệ trở thành M/P = L(i, Y). Lãi suất thực hiện xuất hiện rõ ràng trong điều kiện cân bằng. Cách dễ nhất để tiến hành là bắt đầu bằng việc đảm bảo tính chắc chắn về giá cả, ngay cả bây giờ và trong tương lai. Tức là, mức giá bằng một số giá trị bên ngoài và lạm phát kỳ vọng luôn luôn là không. Phân tích trường hợp này cho thấy NHTW có thể ảnh hưởng như thế nào đến lãi suất thực theo những giả định đơn giản và là nền tảng để phân tích những gì xảy ra khi có sự điều chỉnh giá. Để phân tích khả năng của NHTW trong việc tác động đến lãi suất thực dưới giả định về giá cả hoàn hảo, cần phải xem xét giả định tiêu chuẩn khi thị trường tiền tệ bước đầu cân bằng thì NHTW tăng cung tiền. Vì mức giá là cố định, số dư tiền thực M/P tăng. Với lạm phát kỳ vọng cố định ở mức 0, nhu cầu về số dư tiền thực là L(r, Y). Việc cung cấp số dư thực sự hiện nay vượt quá nhu cầu ở giá trị ban đầu của r và Y. Khôi phục cân bằng trên thị trường tiền tệ đòi hỏi r giảm, Y tăng hoặc là sự kết hợp của cả r và Y. Vì nền kinh tế phải nằm trên đường cong IS, việc tăng cung tiền không thể chỉ làm giảm lãi suất thực hay chỉ tăng sản lượng. Thay vào đó, nền kinh tế di chuyển xuống đường cong IS, với r giảm và Y tăng lên, cho đến khi sản lượng cân bằng thực yêu cầu tăng lên để phù hợp với sự gia tăng cung. Như vậy, trong trường hợp đơn giản này, NHTW có thể thay đổi lãi suất thực bằng cách thay đổi cung tiền lớn. Và khi giá cả không hoàn toàn cứng nhắc thì có hai cách để giá có thể điều chỉnh tăng lượng tiền. 23 Thứ nhất, giá cả có thể hoàn toàn linh hoạt, và do đó có thể thay đổi khi tiền tăng. Thứ hai, có thể có sự gia tăng dần của mức giá đến khi cân bằng dài hạn cao hơn hiện tại. Việc điều chỉnh ngay lập tức một số mức giá làm giảm tác động của việc tăng khối lượng tiền về số dư thực. Do đó, một động thái nhỏ hơn xuống đường cong IS là cần thiết để khôi phục lại trạng thái cân bằng trên thị trường tiền tệ hơn là khi giá cả được cố định hoàn toàn. Tương đương, NHTW phải tăng cơ số tiền mặt nhiều hơn trước để đạt được mức giảm thực tế. Nhưng miễn là phản ứng tức thời của mức giá nhỏ hơn sự gia tăng của mức cung tiền, NHTW có thể làm giảm lãi suất thực. Ngược lại, điều chỉnh dần mức giá sau khi tăng cơ số tiền tăng cường trong cung tiền. Nếu mức giá tăng dần sau khi cung tiền tăng sẽ làm tăng lạm phát kỳ vọng. Lãi suất danh nghĩa cao hơn trước so với mức lãi suất thực, và do đó số dư thực đòi hỏi một r và Y nào đó thấp hơn trước. Sự mất cân bằng giữa cung và cầu của cân bằng thực với r cũ và Y do đó lớn hơn so với trường hợp giá cố định bền vững, và vì vậy cần phải di chuyển lớn hơn xuống đường cong IS để khôi phục lại trạng thái cân bằng. Tương đương một sự gia tăng nhỏ hơn trong cơ số tiền là cần thiết để đạt được mức lãi suất thực giảm. Điểm quan trọng của phân tích này chỉ đơn giản là sự tăng lên của cơ số tiền làm giảm lãi suất thực; ngoại lệ duy nhất là trường hợp không thực tế khi giá cả linh hoạt, để mức giá thay đổi ngay lập tức bằng tỷ lệ tương tự như cơ số tiền. Như vậy, ngoại trừ trường hợp này, NHTW có thể thực hiện theo một quy tắc tỷ lệ lãi suất thực như giả định trong mô hình. Mô tả chính xác cách nó phải điều chỉnh số lượng cung tiền cao để đối phó với những rối loạn khác nhau để làm theo một quy tắc cụ thể là không có sự quan tâm lớn. Phân tích này cho thấy một lợi thế hơn nữa của cách tiếp cận mới: 4.8. Một sự kết hợp đầy đủ các thay đổi trong lạm phát kỳ vọng vào phân tích tổng cầu của mô hình Những thay đổi về lạm phát kỳ vọng ảnh hưởng đến việc NHTW phải điều chỉnh lượng tiền để thực hiện theo quy tắc lãi suất thực của nó nhưng không có tác động đến tổng cầu. Nghiên cứu đề cập đến cách tiếp cận một nền kinh tế mở, mô hình hóa tỷ giá hối đoái thả nổi trong nền kinh tế với dòng vốn tự do luân chuyển ra vào, giả định kỳ vọng tỷ giá là cố định. Với những giả định này, lãi suất thực tế trong nước phải bằng với lãi suất thực thế giới. Do đó, các giả định này đòi hỏi một cách tiếp cận khác với IS - LM, sao cho ở đó lãi suất giúp cân bằng thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ (mô hình IS - MP). Tương tự như vậy, cách tiếp cận thông thường đối với trường hợp tỷ giá hối đoái cố định bắt đầu bằng việc cho biết rằng kể từ khi ấn định tỷ giá hối đoái đòi hỏi NHTW phải mua bán ngoại tệ trong nước theo tỷ giá cố định, hệ thống này sẽ làm cho chính sách tiền tệ trở nên thụ động hay ít có ảnh hưởng. Do đó NHTW không thể cung tiền (như trong mô hình IS - LM), cũng không điều chỉnh nó theo quy tắc lãi suất (như trong IS - MP). Ở đây, cũng giống như việc thực thi chính sách tiền tệ, tính thực tế và đơn giản của mô hình được thực hiện bằng cách tách rời các giả định thông thường. Ý kiến cho rằng các NHTW không thể ảnh hưởng đến lãi suất thực của nền kinh tế và cung tiền rõ ràng là không chính xác. Hầu hết các NHTW trên thế giới theo cả hai chính sách tỷ giá hối đoái cố định điều chỉnh lãi suất thực tế trong nước và nguồn cung tiền để kiềm chế lạm phát, kích thích sản lượng và duy trì chế độ tỷ giá. Do đó tốt hơn hết là mô hình nền kinh tế mở theo cách cho phép lãi suất trong nước khác với lãi suất thế giới, và cho phép NHTW thực hiện theo quy tắc về lãi suất hay chủ động về việc thực thi Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM 24 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật chính sách tiền tệ. Cụ thể, nghiên cứu sử dụng các giả định thay đổi rằng đầu tư nước ngoài ròng của một quốc gia - tức là sức mua hàng hóa nội địa của nước ngoài trừ mua hàng nước ngoài của tài sản nội địa - là một chức năng của lãi suất thực trong nước. Với giả định này, lãi suất trong nước có thể khác với lãi suất thế giới. Bên cạnh đó nghiên cứu của Romer (2000) chỉ ra cụ thể cách người ta có thể sử dụng cách tiếp cận này để phân tích tỷ giá hối đoái thả nổi và cố định. Trong cả hai trường hợp, mô hình IS - MP vẫn có thể được sử dụng để phân tích tổng cầu. Sau đó cần thiết để bổ sung mô hình IS - MP để xem các giao dịch quốc tế của nền kinh tế được xác định như thế nào. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái thả nổi, phân tích bổ sung cho thấy việc xác định xuất khẩu ròng và tỷ giá hối đoái. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái cố định, nó cho thấy sự thay đổi trong dự trữ ngoại tệ của NHTW và những chính sách tiền tệ nào khả thi hay không khả thi. Với một tỷ giá hối đoái cố định, thiết lập mức lãi suất hàm ý quy tắc lãi suất có thể dẫn đến sự mất cân bằng giữa cung và cầu ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái cố định. Nếu cung vượt quá cầu, NHTW đang dự trữ ngoại tệ. Nếu cầu ngoại tệ vượt quá cung, nó đang mất dần dự trữ. Trong trường hợp thứ hai, nếu NHTW không có đủ dự trữ thì phải từ bỏ tỷ giá hối đoái cố định hoặc chính sách lãi suất hay nói cách khác là phủ nhận vai trò của NHTW. Do đó, mặc dù mong muốn kiểm soát tỷ giá hối đoái nhưng không hoàn toàn phụ thuộc chính sách tiền tệ, sẽ gây ra những hạn chế nhất định. Các giả định cơ bản thường thấy rằng lãi suất thực trong nước phải bằng với lãi suất thực thế giới là một trường hợp đặc biệt của mô hình. Khi sự gia tăng về vốn tăng lên, đầu tư nước ngoài ròng sẽ trở nên nhạy cảm hơn với lãi suất thực. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái thả nổi, sự phản ứng nhanh này làm cho đường cong IS phẳng hơn. Nếu sự dịch chuyển gần như hoàn hảo, đường cong IS gần như bằng phẳng với lãi suất thế giới. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái cố định, khả năng luân chuyển vốn cao hơn có nghĩa là một sự thay đổi nhất định về lãi suất trong nước có ảnh hưởng lớn hơn đến dự trữ ngoại tệ của NHTW. Nếu sự luân chuyển vốn xảy ra trong điều kiện thị trường hoàn hảo, ngay cả một sự thay đổi rất nhỏ của lãi suất trong nước so với lãi suất thế giới cũng có thể gây ra tổn thất lớn. Do đó mô hình này có thể được sử dụng để phân tích sự luân chuyển vốn cao dưới cả chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi và cố định. Romer (2000) cũng cho rằng có thể sử dụng khuôn khổ tương tự được sử dụng để phân tích nền kinh tế đóng, tỷ giá hối đoái thả nổi, và tỷ giá cố định. Tuy nhiên quan điểm mới này cũng cho thấy chính sách tiền tệ trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định có những hạn chế vì tính bất cân xứng thông tin (hay thị trường không hoàn hảo) trong một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định; NHTW được tự do theo đuổi các chính sách tạo ra lợi ích tích lũy nhưng nếu vượt quá một mức nào đó có thể sẽ gây ra những tổn thất. 5. KẾT LUẬN Nghiên cứu kế thừa từ nghiên cứu của Romer (2002); tất cả các mô hình được mô tả trong nghiên cứu này được vận dụng từ nền tảng của Keynes, Hicks, Romer nhấn mạnh đến thị trường hàng hoá - tiền tệ và lạm phát; tất cả các yếu tố vĩ mô này đều có sự điều chỉnh danh nghĩa không hoàn hảo; các biến đều được xác định dưới dạng tổng hợp. Các mô hình kinh tế vĩ mô hiện tại kế thừa trên nền tảng của Keynes và Hicks dường như chưa phải là sự thay đổi về một mô hình cơ sở đơn giản về dao động ngắn hạn hoàn chỉnh. Việc tìm ra một khuôn khổ cơ bản thay thế IS - LM - AS nhằm cung cấp một công cụ mạnh mẽ hơn cho 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bernanke, B. S. & Mihov, I (1997). What Does the Bundesbank Target?. European Economic Review, pp. 1025–1053. [2]. Campbell, John Y. & Mankiw, N. G (1989). Consumption, Income, and Interest Rates: Reinterpreting the Time Series Evidence. NBER Macroeconomics Annual. 4, pp. 185–216. [3]. Clarida, R & Gertler, M (1997). How the Bundesbank Conducts Monetary Policy, in Reducing Inflation: Motivation and Strategy. University of Chicago Press, pp: 363 - 412 [4]. Romer, C. D. & Romer, D. H eds. Chicago: University of Chicago Press, pp. 363– 406. [5]. Goodfriend, M. S (1993). Interest Rate Policy and the Inflation Scare Problem: 1979– 1992. Federal Reserve Bank of Richmond Economic Quarterly. Winter, 79, pp. 1–24. [6]. Gordon, R. J (1990). What Is New-Keynesian Economics?. Journal of Economic Literature, pp. 1115–1171. [7]. Hall, R. E. & Taylor, J. B (1997). Macroeconomics. Fifth edition. New York: W. W. Norton. [8]. Laubach, T & Posen, A. S (1997). Disciplined Discretion: Monetary Targeting in Germany and Switzerland. Essays in International Finance, no. 206. [9]. Nguyễn Văn Ngọc (2009). Bài giảng Kinh tế vĩ mô. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Kinh tế Quốc dân. [10]. Nguyễn Văn Tiến (2010). Giáo trình Tài chính Quốc tế. NXB Thống kê. [11]. Romer, D (1999). Short-Run Fluctuations. University of California, Berkeley. [12]. Romer, D. (2000). Keynesian Macroeconomics without the LM curve. Journal of Economic Perspectives, 14(2), 149-169. [13]. Taylor, J. B (1993). Discretion versus Policy Rules in Practice. Carnegie-Rochester Conference Series on Public Policy, vol 39, pp. 195–214. [14]. Taylor, J. B (1998). Economics. Second edition. Boston: Houghton Mifflin. [15]. vonHagen, J (1995). Inflation and Monetary Targeting in Germany. American Institute for Contemporary German Studies. phân tích kinh tế vĩ mô cơ bản sẽ được thực hiện trong tương lai và các phiên bản mô hình như đường cong MP dốc lên, đường cong tổng cung hiệu chỉnh kỳ vọng hay đường cong thị trường tiền tệ cân bằng (Romer, 2000) cũng hướng đến mục tiêu như vậy. Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM
File đính kèm:
- mo_hinh_keynesian_moi_khong_co_duong_cong_lm.pdf