Mộ tưởng niệm – Di sản văn hóa đặc sắc trong bình diện mộ hợp chất quý tộc thời Nguyễn ở các tỉnh phía Nam thời Trung và Cận đại
TÓM TẮT:
Bài này giới thiệu về loại hình mộ kỷ niệm
trong khung cảnh loại hình mộ hợp chất dành
cho giới quý tộc thời Nguyễn thời Trung và Cận
đại ở các tỉnh phía Nam Việt Nam. ðây là loại
di sản văn hóa vật thể - phi vật thể hiếm có
đương thời (1,5%). Chúng cũng rất quý giá vì
thường gắn kết với các “danh nhân lịch sử” –
những bậc “Khai quốc công thần” thời mở
nước “ðại Nam nhất thống” Trung và Cận đại.
Ngoài những quần thể đền thờ - lăng tẩm tiêu
biểu Nam Bộ (Nguyễn Hữu Cảnh, 1650-1700;
Lê Văn Duyệt, 1763-1832; Lê Văn Phong;
Trương Tấn Bửu, 1752-1827; Trần Văn Học,
Phan Tấn Huỳnh, “Ông Nhiêu Lộc”, Huỳnh Văn
Tú ), các tác giả chuyên khảo huyền lăng Võ
Tánh (1768-1801) ở cả thành Hoàng ðế và Gia
ðinh, cùng lăng tẩm các chiến hữu của cụ liên
quan đến trận thủy chiến lớn nhất và cuối cùng
giữa quân Tây Sơn và Chúa Nguyễn trên sa
trường Bình ðịnh (Ví như, quận công Thái bảo
Võ Di Nguy, 1745-1801; Ngô Tùng Châu;
Khâm sai Chưởng dinh Thư Ngọc Hầu và 2 em
trai Nguyễn tộc, v.v ). Theo quan điểm tác
giả, sự hiện diện loại hình mộ kỷ niệm Võ Tánh
và chiến hữu – những di tích Lịch sử văn hóa -
nghệ thuật Quốc gia và cấp tỉnh ở Nam Bộ liên
quan đến sự tôn vinh cá nhân anh hùng “phò
vua”, “hộ quốc cứu dân” trong lịch sử mở nước
“Hướng về Nam” thời Trung và Cận đại. Chúng
góp phần làm nên đặc trưng nổi trội của nhân
cách Nam Bộ đương thời. Cổ tích về cá nhân
anh hùng Nam Bộ ấy còn được con cháu các
thế hệ sau gìn giữ và tôn thờ trong tình cảm
Việt “Uống nước nhớ nguồn” và ghi ân Tiên tổ
“đã có công dựng nước”
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mộ tưởng niệm – Di sản văn hóa đặc sắc trong bình diện mộ hợp chất quý tộc thời Nguyễn ở các tỉnh phía Nam thời Trung và Cận đại
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 Trang 47 Mộ tưởng niệm – di sản văn hóa ñặc sắc trong bình diện mộ hợp chất quý tộc thời Nguyễn ở các tỉnh phía Nam thời Trung và Cận ñại • Phạm ðức Mạnh • ðỗ Ngọc Chiến Trường ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ðHQG-HCM TÓM TẮT: Bài này giới thiệu về loại hình mộ kỷ niệm trong khung cảnh loại hình mộ hợp chất dành cho giới quý tộc thời Nguyễn thời Trung và Cận ñại ở các tỉnh phía Nam Việt Nam. ðây là loại di sản văn hóa vật thể - phi vật thể hiếm có ñương thời (1,5%). Chúng cũng rất quý giá vì thường gắn kết với các “danh nhân lịch sử” – những bậc “Khai quốc công thần” thời mở nước “ðại Nam nhất thống” Trung và Cận ñại. Ngoài những quần thể ñền thờ - lăng tẩm tiêu biểu Nam Bộ (Nguyễn Hữu Cảnh, 1650-1700; Lê Văn Duyệt, 1763-1832; Lê Văn Phong; Trương Tấn Bửu, 1752-1827; Trần Văn Học, Phan Tấn Huỳnh, “Ông Nhiêu Lộc”, Huỳnh Văn Tú), các tác giả chuyên khảo huyền lăng Võ Tánh (1768-1801) ở cả thành Hoàng ðế và Gia ðinh, cùng lăng tẩm các chiến hữu của cụ liên quan ñến trận thủy chiến lớn nhất và cuối cùng giữa quân Tây Sơn và Chúa Nguyễn trên sa trường Bình ðịnh (Ví như, quận công Thái bảo Võ Di Nguy, 1745-1801; Ngô Tùng Châu; Khâm sai Chưởng dinh Thư Ngọc Hầu và 2 em trai Nguyễn tộc, v.v). Theo quan ñiểm tác giả, sự hiện diện loại hình mộ kỷ niệm Võ Tánh và chiến hữu – những di tích Lịch sử văn hóa - nghệ thuật Quốc gia và cấp tỉnh ở Nam Bộ liên quan ñến sự tôn vinh cá nhân anh hùng “phò vua”, “hộ quốc cứu dân” trong lịch sử mở nước “Hướng về Nam” thời Trung và Cận ñại. Chúng góp phần làm nên ñặc trưng nổi trội của nhân cách Nam Bộ ñương thời. Cổ tích về cá nhân anh hùng Nam Bộ ấy còn ñược con cháu các thế hệ sau gìn giữ và tôn thờ trong tình cảm Việt “Uống nước nhớ nguồn” và ghi ân Tiên tổ “ñã có công dựng nước”. T khóa: mộ hợp chất thời Nguyễn, Nam Bộ, thời kỳ Trung ñại và Cận ñại Trong bình diện “mộ hợp chất”1 dành riêng cho Quý tộc thời Nguyễn thời Trung và Cận ñại ở các 1 “Mộ hợp chất” (Mummified Burial; Mumy Burial; Mummy Tomb; Compound Burial) – thuật ngữ do cố PGS. TS. ðỗ Văn Ninh sử dụng ñầu tiên từ năm 1969 - 1970, có khi ñược hiểu cùng nghĩa với các thuật ngữ: “Mộ trong quan ngoài quách”, “Mộ tam hợp”, thậm chí với cả thuật ngữ do cố GS. ðỗ Xuân Hợp dùng ñầu tiên từ năm 1971: “Mộ xác ướp” (Tombs with Embalmed Bodies) là chỉ chung một loại hình di tích mộ táng ñặc thù “phải theo trong tục lệ triều ñình” dành riêng cho vua chúa và gia quyến, quý tộc và danh gia trong lịch sử Việt Nam thời Trung và Cận ñại từ thời Lê sơ ñến thời Nguyễn, với hàng ngàn di tích trải dài trong không gian cách nhau hàng ngàn cây số, cùng hàng trăm ngôi mộ ñã khai ñào phân bố khắp ñất nước từ Bắc và Trung ñến Nam, cung ứng dữ liệu gắn trực tiếp với nền văn minh ðại Việt và hậu duệ, làm thành một trong những ñặc trưng văn hóa - tín ngưỡng riêng cho quý tộc Việt ở thuở ñó [4-6, 16]. Từ ñiển Bách Khoa toàn thư (mục “mộ xác ướp”) ñịnh nghĩa: “mộ hợp chất: di tích mộ táng xuất hiện từ thời Lê ñến thời Nguyễn nhưng phổ biến nhất là ở thời Lê Trung Hưng, với SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X1-2015 Trang 48 tỉnh phía Nam Việt Nam ngày nay, mộ tưởng niệm là loại hình di tích lịch sử văn hóa vật thể - phi vật thể ñộc ñáo ñương thời, trước hết vì chúng hiếm có (theo thống kê của chúng tôi chỉ có khoảng 9 di tích chiếm khoảng 1,5% tổng số mộ hợp chất ở Việt Nam và chiếm khoảng 1,65% mộ hợp chất ðàng Trong – Nam Trung Bộ và Nam Bộ xưa). So với mộ hợp chất thường thấy, các di tích kiểu “mộ tưởng niệm” (dân gian gọi là “huyền lăng” hay “mộ gió”) không khác nhiều về quy hoạch tổng thể, vật liệu hay bố cục kiến trúc dương phần như uynh thành, nữ tường, bình phong tiền - hậu chẩm. Những ñặc ñiểm có thể nhận dạng rõ nhất về chúng là gắn với các nhân vật lịch sử mà thư tịch minh ñịnh rõ xây dựng ñể “tưởng niệm” kiểu: lăng song táng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh ở Cù Lao Phố - ðồng Nai (lăng thật xây ở quê hương Quảng Bình); hoặc kiểu lăng dành cho võ tướng chắc chắn “mất xác” trên chiến trường xưa, như lăng Võ Tánh ở Quận Phú Nhuận, TP. HCM và ở thành Bình ðịnh .v.v Ở một số “mộ tưởng niệm” từng ñược nhà khảo cổ học khai quật thì dưới huyệt hoàn toàn không có quan quách hay thi hài mộ chủ, một số nấm mồ dạng này thường có nấm hình bán cầu – kiến trúc nấm mồ kiểu lăng Võ Tánh trong thành Hoàng ðế (Bình ðịnh) hoặc mộ Cao Tín (Nha Trang - Khánh Hòa) hay các mộ trong khuôn viên Viện Pasteur (Quận 3, TP. HCM) hay ở Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang .v.v mà các vị cao niên Nam Bộ lý giải với chúng tôi thường dành cho mộ “kỷ niệm”, “huyền lăng”, “mộ gió” hoặc dạng mộ “cải táng” không phân ñịnh rõ phương hướng. Các dạng mộ “tưởng niệm” như vậy thời Nguyễn theo quan sát của chúng tôi hiếm khi vô danh, ví như ngôi mộ Cao Tín nằm trong nằm trong khuôn viên Trường Tiểu học Phương Sơn (TP. Nha cấu trúc cơ bản là: quách hợp chất (vôi + cát + mật) bọc lấy quan tài bằng gỗ ngọc am. Trong quan tài, thi thể ñược bọc kín bằng nhiều lớp vải vóc, quần áo và thường có lót than tro, gạo nếp rang, tấm thất tinh, minh tinh bằng vải ghi tên tuổi người chết, tiền ñồng. Thi thể ñược bảo tồn nhờ ñộ kín của quan quách và có thể cả dầu thơm (dầu thông, dầu khuynh diệp, dầu bạch ñàn)” (TG). Trang) do PGS. TS. Nguyễn Lân Cường và Bảo tàng Khánh Hòa khai quật giải tỏa năm 2008 cũng ñược thiết kế công phu bằng 9 lớp hợp chất trong lớp tường bao nhưng huyệt không có gì; hoặc ngôi mộ do Trung tâm Bảo tổn và phát huy di tích và danh thắng khai quật năm 2010 trong khuôn viên Viện Pasteur (P8, Quận 3, TP. HCM) chỉ còn phần nấm tô xi măng trên nền cốt hợp chất (vôi tôi, vôi sống, san hô và vỏ nhuyễn thể nghiền, sỏi và ñá ong cỡ 0,2-1,5cm, ñất nung, mảnh gốm, bã thực vật, giấy dó, lá cây) nhưng không có quan quách trong kim tĩnh. ða phần di tích tưởng niệm thường “hữu danh” và theo ñó, ñiều này quan trọng hơn, chúng lại kết gắn với các biến cố và sự kiện lịch sử bi tráng mà mộ chủ thường “chết mất xác” trong chiến trận hoặc chịu họa thiên tai khi xa xứ, từ những thủ lĩnh “vùng - miền” ñến các dòng họ quyền uy “danh gia vọng tộc”, các “danh nhân lịch sử” mà không ít vị ñược Triều ñình ñương ñại tôn vinh như các bậc “khai quốc công thần” và các thế hệ cháu con nối tiếp tôn thờ như “Tiên hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cơ” thời mở nước của “ðại Nam nhất thống”. Ngoài một số quần thể di tích mộ hiện còn nhưng chưa khai quật nên chưa thể khẳng ñịnh là “mộ tưởng niệm” (hoặc như tên gọi dân gian là “mộ gió”); ví như quần thể cổ mộ Huỳnh Văn Tú người thôn Tân Hội, huyện Phước Chánh, trấn Biên Hòa từng ñậu Cử nhân tháng 6 năm Kỷ Mão – năm Gia Long 18 (1819) theo “Quốc Triều Hương Khoa Lục”, làm quan Bố Chánh tại Cao Bằng bị tử nạn cả gia ñình trong một chuyến ñi biển từ Bắc về thăm quê theo ghi nhận trong gia phả; nhưng các mộ ñược người thân xây dựng ở Cù Lao Rùa giữa sông ðồng Nai dưới chân Gò Rùa mà Trịnh Hoài ðức từng miêu tả là “Núi Quy Dữ giữa dòng sông Phúc Long” trong “Gia ðịnh thành thông chí” năm 1820 [27:20]; thì không rõ có còn xác hay không ở cả mộ quan Bố Chánh (tọa ñộ: N 10058’54.1’’ - E 106046’57.1’’), hai phu nhân và mộ các con. TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 Trang 49 Nổi tiếng bậc nhất trong kiểu hình mộ tưởng niệm Quý tộc Nguyễn trên ñịa bàn Nam Bộ hiển nhiên là quần thể ðền thờ và lăng tẩm song táng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (阮有鏡) (1650- 1700) và phu nhân ở ñất thiêng Bình Kính (ấp Nhị Hòa, Cù Lao Phố) xứ Trấn Biên xưa (nay thuộc Thành phố Biên Hòa, tỉnh ðồng Nai). Theo nhiều nguồn Sử Nguyễn, cụ sinh ở Phong Lộc (Quảng Bình), từng vâng mệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu làm Thống suất, kinh lược xứ ðồng Nai tháng 2 năm Mậu Dần (1698), “lấy ñất Nông Nại ñặt làm Gia ðịnh phủ, lập xứ ðồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trần Biên, lấy ñất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh ñặt chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục ñể quản trị. Nha thuộc có hai ty là Xá sai ty (coi việc văn án, từ tụng, dưới quyền quan Ký lục) và Lại ty (coi việc tài chính, do quan Cai bộ ñứng ñầu). Quân binh thì cơ, ñội, thuyền, thủy bộ tinh binh và thuộc binh ñể hộ vệ. ðất ñai mở rộng ngàn dặm, cho chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh châu trở vô, ñến ở khắp nơi, ñặt ra phường, ấp, xã, thôn, chia cắt ñịa phận, mọi người phân chiếm ruộng ñất, chuẩn ñịnh thuế ñinh, ñiền và lập bộ tịch ñinh ñiền. Từ ñó con cháu người Hoa ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch” (ðại Nam Thực lục Tiền biên). Nhờ “Nguyễn Hữu Cảnh ñã chiêu mộ dân phiêu tán từ châu Bố Chánh (nay là Quảng Bình) trở vào Nam vào ñất ấy (tức ñất Trấn Biên và Phiên Trấn), rồi ñặt xã thôn, phường ấp, ñịnh ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ ñinh” [22:2002b] mà “ñất ñai mở rộng hơn ngàn dặm, dân số có thêm bốn vạn hộ” [27]. Khi làm Thống binh cùng danh tướng Trần Thượng Xuyên dẹp loạn Chân Lạp Nặc Thu (Ang Saur) ñóng ở Cù lao Sao Mộc (“Cù Lao Ông Chưởng” ở Chợ Mới, An Giang), cụ bị bạo bệnh về lại Trấn Biên nhưng ñến Sầm Giang (Rạch Gầm - Mỹ Tho) ngày 6/4 năm Canh Thìn (1700) thì mất. Phó tướng lo việc tẩm liệm rồi chuyển cữu về dinh Trấn Biên, ñình cữu và quyền táng tại thôn Bình Hoành (Châu ðại Phố). Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu tiếc thương truy tặng cụ “Hiệp tướng công thần ñặc Trấn Dinh Trưởng” với tước “Tráng Hoàng Hầu”, thụy là Trung Cần (gia phả ghi tước và thụy ñược truy tặng lần sau cùng là Vĩnh An hầu, thụy Cương Trực). Sau Gia Long truy phong thêm “Thượng ñẳng công thần Trấn Phủ Quốc Trưởng Cơ” với tước “Lễ Thành Hầu” (上等神) cho thờ tại Thái Miếu cùng các Tiên vương nhà Nguyễn. Khu lăng mộ chính của cụ ở quê hương (ðồi An Mã - Thác Ro, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình) [22:2002, 2005:101 - 114;29], còn khu mộ tưởng niệm cùng phu nhân nằm bên ðền thờ – Bình Kính Miếu (平鏡廟) – còn lưu một sắc Thần dời Minh Mạng thứ 3 (24/9/1822) và 2 sắc thần ñồi Thiệu Trị (2/7/1843) dành tặng “Thượng ðẳng Thần” vì các “công ñức vinh quang vệ quốc giúp dân... mở mang ñất ñai, chinh phục nơi xa xôi” (hộ quốc tí dân hiển hữu công ñức... thống nhất hải vũ khánh bị thần nhân tứ kim) (護國庇民顯有... 統一海宇慶被神人賜金), “mở mang bờ cõi giúp nước yên dân rạng rỡ linh thiêng” (hộ quốc tí dân nhẫm trước linh ứng tước mông ban cấp) (護國庇民稔著靈應爵蒙頒給). Hình 1. Tượng Nguyễn Hữu Cảnh ở Dinh Ông Kiến An, ñền và huyền mộ ở Bình Kính - Cù Lao Phố Khu mộ song táng ðức Ông Nguyễn Hữu Cảnh và phu nhân nằm trên gò ñất phía ðông cách ñền thờ khoảng 50m, với uynh thành (dày 50cm, cao 50cm) khuôn viên bề thế diện rộng 32,60m2 (7,45 x SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X1-2015 Trang 50 4,6m), có ñủ nấm mồ ñúc hình khối chữ nhật (dài 3m, cao 0,4m), gắn hương án và khung bia hướng ðông Nam, bình phong tiền (dày 0,4m, cao 1,2m) và hậu chẩm xây kiểu mái ñền (dày 4m, cao 1,6m) hai bên có trang trí dây hoa, các cặp trụ biểu gắn cặp Lân chầu bằng gốm hoặc hoa sen (Hình 1) chính là kiến trúc ñiển hình “Mộ Gió Thượng ðẳng Thần” Nguyễn ở Nam Bộ ñương thời. Ngoài Bình Kính Miếu (平鏡廟) và huyền lăng tưởng nhớ ân ñức “danh nhân lịch sử” mà theo quan ñiểm chúng tôi gợi nhớ vị thế “Hùng Vương Nam Bộ” – Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, người từng ñược dân ðàng Trong lập ñền và bài vị thờ phượng chính quê Quảng Bình và ở nhiều vùng cụ từng có kỷ niệm sâu nặng - Quảng Nam, Cù Lao Phố (Biên Hòa), ðình Lý Nhơn - Nam Tiến (Quận 4) và cả ðình Minh Hương Gia Thạnh (Quận 5, TP. HCM), ở cả miền tây Sông Hậu như Ô Môn (Cần Thơ), Nam Vang, hay Lễ Công Từ ðường (phường Châu Phú A, Châu ðốc, An Giang) do ñích thân Tổng ñốc An Hà Thoại Ngọc Hầu lệnh xây (ðại Nam nhất thống chí); ở bài này chúng tôi giới thiệu thêm các quần thể lăng tẩm quý tộc Nguyễn danh tiếng khác liên quan ñến bản thân Quận công Phò Mã Võ Tánh và các chiến hữu của cụ và ñến những trận huyết chiến Chiến lược thời Tây Sơn và Chúa Nguyễn ở ðàng Trong – Nam Trung Bộ và Nam Bộ (Việt Nam) từ trước thời Nguyễn Thế Tổ Phúc Ánh ñăng cơ (1802-1919). 1. Huyền lăng Võ Tánh quận Phú Nhuận (TP. HCM) Võ Tánh (武性, 1768-1801) sinh tại huyện Phước An (trấn Biên Hòa), sau dời ñến huyện Bình Dương (Gia ðịnh) trong gia binh ðông Sơn, sau theo Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn, ñương thời ñược dân Nam Bộ coi là danh tướng trong “Gia ðịnh tam hùng” cùng với ðỗ Thành Nhơn, Châu Văn Tiếp. Theo Sử Nguyễn, cụ vốn người sáng suốt, tinh thông võ nghệ, cùng anh Võ Nhàn giương cờ “Khổng Tước Nguyên Võ” dấy binh “Kiến Hòa ðạo” tại thôn Vườn Trầu (Hóc Môn) trấn giữ cả Gò Công. Năm Mậu Thân (1788) ñầu quân Nguyễn Ánh ở Nước Xoáy (Sa ðéc), ñược nhậm chức Tiên phong Dinh Khâm sai Chưởng cơ và ñược chúa gả cho em gái là Ngọc Du. Năm 1790, Võ Tánh ñánh hạ thành Diên Khánh của tướng Tây Sơn ðào Văn Hồ, dùng mưu ñuổi quân Tây Sơn vây thành năm Giáp Dần (1794), ñược thăng chức Khâm Sai Quán Suất Hậu Quân Dinh Bình Tây Tham Thắng Tướng Quân Hộ Giá và phong tước Quận Công kiêm lãnh chức ðại Tướng Quân. Vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XVIII, cụ phò Chúa Nguyễn chinh chiến miền Trung, từng ñánh Quảng Nam và vượt sông Mỹ Khê (Quảng Ngãi) ñánh bại ðô ñốc Tây Sơn Nguyễn Văn Giáp (1797), cùng Chưởng Hữu Quân Nguyễn Huỳnh ðức ñánh thắng quân Tây Sơn tại Thị Giả, giết ðô ñốc Tây Sơn Nguyễn Thiệt tại cầu Tân An và thâu hàng ðô ðốc Lê Chất, bắt 6.000 quân và 50 thớt voi của Thái Phó Tây Sơn Lê Văn ðang tại làng Kha ðạo, buộc các tướng Tây Sơn Lê Văn Thanh và Nguyễn ðại Phát phải mở cửa thành Qui Nhơn xin hàng và ñổi tên là Thành Bình ðịnh (1799). Khi ñại quân chúa Nguyễn rút về Gia ðịnh, thành Bình ðịnh ñược giao cho Võ Tánh và Lễ bộ tham tri Ngô Tùng Châu trấn giữ nhưng bị Thái phó Trần Quang Diệu và tướng Tây Sơn Võ Văn Dũng từ Thuận Hóa vào hãm thành 14 tháng. Chúa Nguyễn Ánh cùng Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy ñem ñại binh ứng cứu, ñại thắng Tây Sơn ở ñầm Thị Nại, Võ Tánh và Ngô Tùng Châu sai người lén ñem mật thư khuyên Chúa ñánh hạ Phú Xuân ñể ông cầm chân Trần Quang Diệu. Ngày 27/5 năm Tân Dậu (7/7/1801), thành hết lương, Võ Tánh gửi Trần Quang Diệu thư xin tha chết cho quân sĩ, còn mình chết thiêu dưới lầu Bát Giác, Ngô Tùng Châu dùng thuốc ñộc tự vẫn. Khi chiếm ñược thành, Trần Quang Diệu cảm ñộng cho lượm tinh cốt mai táng hai ông tử tế và tha bổng toàn bộ bại binh. Năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long truy tặng ông Dực Vận Công Thần, ðặc Tiến Phụ Quốc, Thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Thái Úy Quốc Công, tên thụy Trung Liệt. Gia Long TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 Trang 51 sai Cai bạ ðinh Công Khiêm, Cai ñội Tôn Thất Bính mang áo mũ gấm lụa ñến quân thứ ở Thị Nại thu lượm tàn cốt về chôn ở Gia ðịnh, năm 1804 ông ñược thờ ở ñền Hiển Trung (Gia ðịnh), cấp cho tự ñiền, mộ phu. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), ông ñược truy phong Hoài Quốc công [22:2005:101- 114; 2006:278]. Ngoài lăng Võ Tánh nằm kế mộ Ngô Tùng Châu trong nội cu ... Lăng “Ông Tả Dinh” ðô thống chế Lê Văn Phong do ñích thân anh trai Tả quân Lê Văn Duyệt ñứng ra chỉ huy việc xây dựng tại thôn Tân Sơn Nhứt, quận Bình Dương, tổng Dương Hòa Thượng, phủ Tân Bình xưa; “Lăng Ông Nhiêu Lộc” nằm ven ñường số 202 Hoàng Văn Thụ (Phường 9) do nhà khảo cổ ðỗ ðình Truật khai quật năm 1992; v.v [2; 7; 8:2001, 2006; 12:298; 14-15; 19-20; 22: 2002a, 2005; 23:2009; 24; 26-28; 29]. ðấy chính là chuỗi di sản tâm thiêng nằm bên nhiều ñình - ñền - miếu (ðình Phú Nhuận, các ñền Hùng Vương, Sòng Sơn, ðông Quan, Thần Quang, các miếu Ngũ Hành, Phú ðông, Phú Thành, Phúc Kiến, Minh Sơn tự miếu Quan Thánh, Phúc Lộc) ñược người dân Nam Bộ cả Việt lẫn “Việt gốc Hoa” và “Việt gốc Khmer” thường niên nhang khói và thế hệ nối thế hệ phúng viếng hoành phi - liễn ñối kèm nhiều “lạc Khoản” (絡款) tri ân “Tiên hiền - Hậu hiền” từng “vang bóng một thời”: “Giúp nước cứu dân” (Bảo quốc hữu dân = 保國祐民; Hộ ngã lê dân = 護我黎民); “Cứu giúp và ơn thấm cả dân Hoa kiều” (Hộ ngã quần kiều = 護我羣僑; Trạch cập kiều quần = 澤及僑羣); Uy danh vang dội cả người Kinh, người Thượng (Uy chấn hoa di = 威振華夷), làm chấn ñộng và khâm phục của cả nước Nam (Uy chấn Nam bang = 威振南帮; Nam TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 Trang 59 Bắc ñồng khâm = 南北同欽); bởi: “Vua rồng ban sắc, trận Thị Nại oai rền ñất Bắc. Tướng hổ quyền uy, lấy Quy Nhơn tên rạng trời Nam” (Sắc phụng long nhan chinh Thi Nại uy ñằng bắc hạt. Quyền ñương hổ tướng thận Quy Nhơn danh chấn Nam Kỳ = 敕奉龍顏征施耐威騰北轄. 權當虎相慎歸仁名振南圻); “Chúa thành, tôi trung, trận Thị Nại phong công chỉ có một, ðất thiêng, người tài, vùng Rạch Gầm phát tích chả có hai” (Quân thánh thần trung Thi Nại phong công thôi ñệ nhất. ðịa linh nhân kiệt Rạch Gầm phát tích ñịnh vô song = 君聖臣忠施奈封功推第一,地靈人傑澤唅發績定 無雙); “Thắng trận cửa biển Thị Nại ñược phong ñệ nhất võ công. Chiếm ñược thành Quy Nhơn là chiến tích lớn lao Chinh Thị Nại phong công ñệ nhất. Thâu Quy Nhơn vĩ tích vô song” (征施耐封功第一, 受歸仁緯績無雙); “Giúp nước ở Phan Rang thuở trước nên trang tướng giỏi. Phò vua tại Gia ðịnh về sau thành bảo thần linh Phan Rang tá quốc tiền lương tướng” (Gia ðịnh cần vương hậu hiển thần = 旛烊佐國前良將, 嘉定勤王後顯神). Thế nên không lạ khi các “Khai quốc Công thần Nguyễn” kiểu Võ Tánh và các chiến hữu cụ (Ngô Tùng Châu, Võ Di Nguy, Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Thư Ngọc Hầu, v.v...) ñã ñược cháu con “Trên mảnh ñất này” thường niên bình công: “Tên tuổi vang rền muôn thế hệ” (Vinh danh vĩnh kỷ = 榮名永紀) ñể “Ngàn năm thờ cúng” (Thiên thu sùng bái = 千秋崇拜), như chính Trương Vĩnh Ký – tác gia Nam Bộ với 118 tác phẩm nổi tiếng “Bác học, Tâm thuật, Khiêm tốn” (Nguyễn Văn Tố, 1937), “Một nhà bác học duy nhất ở ðông Dương và cả ở nước Trung Hoa hiện ñại nữa” [1] trước khi mất ngày 1/9/1898 tại Chợ Quán, Sài Gòn, có “Bài thơ tuyệt mệnh” gửi ñời sau: “Cuốn sổ bình sanh công với tội Tìm nơi thẩm phán ñể thừa sai” Bình công – ñấy không chỉ là công việc của chính Triều ñình Nguyễn ñương thời ñã làm cho các bậc Tiên hiền – Hậu hiền Nam Bộ, phong sắc Thần ñịnh kỳ ñủ cấp từ “Hạ” ñến “Trung” và “Thượng ðẳng” vì có công “Hộ Quốc - Tý Dân”, mà muôn ñời còn ñược lòng dân Nam Bộ ngưỡng vọng tôn thờ, cả Việt, lẫn “Việt gốc Hoa” và “Việt gốc Khmer”, v.v Mà cổ tích về họ cháu con cần gìn giữ, nâng niu, tri ân, tưởng nhớ như những nén nhang mà cố Giáo sư, NGND Anh Hùng Lao ðộng Trần Văn Giàu (1911-2010) và cố học giả Trần Bạch ðằng (1926-2007) thành tâm thắp mộ ông bà ðại học sĩ Trịnh Hoài ðức xứ Biên Hùng một mùa Thanh minh cuối Thế kỷ trước (Hình 7). Cũng như tâm huyết của chính cố học giả Vương Hồng Sển (1902-1996) (bút hiệu Anh Vương, ðạt Cố Trai) từng hiến tặng cho Nhà Nước cả sưu tập 849 cổ vật quý cùng “Vân ðường Phủ” (9/1 ñường Nguyễn Thiện Thuật, P14, Quận Bình Thạnh) trong tác phẩm nổi tiếng “Sài Gòn năm xưa” rằng: “Nếu chánh phủ không sớm thảo ñiều lệ bảo vệ các cổ tích, lăng cũ, mộ xưa, cấm mua bán ñất thổ mộ, liệt kê các ngôi mả bằng ô dước, vôi ñá tại Việt Nam thì chẳng bao lâu nữa chung quanh Sài Gòn, Gia ðịnh, Chợ Lớn, không còn sót lại một cái nào khỏi bị lưỡi cuốc phu phá mồ ñưa về dĩ vãng” [29:173] (Hình 6). Hình 6. Học giả Vương Hồng Sển (1902-1996) SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X1-2015 Trang 60 Hình 7. GS. NGND. Trần Văn Giàu và học giả Trần Bạch ðằng viếng lăng Trịnh Hoài ðức (tư liệu của Ban Quản lý Di tích và Danh thắng ðồng Nai) ðó cũng là tấm lòng văn hào “ðất Phương Nam” Phan Minh Tài (1926-2008), bút hiệu: “Sơn Nam” trong văn tế ñọc ở phần mộ “Hùng Vương của Nam Bộ” – Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh ở chính nơi “chôn rau cắt rốn” ðồi An Mã - Thác Ro, Trường Thủy - Lệ Thủy (Quảng Bình) (Hình 8): “Cảm khái bấy! ðức ông Thượng ñẳng thần lo bảo vệ dân, hoạch ñịnh bờ cõi, mặc chiến bào, cầm gươm ñứng trước chiến thuyền ñiều khiển ba quân, diễu hành ngược sông Cửu Long hùng vĩ, hoang vu. Kẻ hậu sinh rất ñỗi cảm thương cho quân sĩ ñã theo phò tá, dùng sức người vượt gió to sóng cả suốt hàng vạn dặm, ăn uống kham khổ, ngày ñêm không nghỉ ngơi. Lại ngậm ngùi tưởng nhớ ñến tiền nhân từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi bỏ quê xứ ñến lập nghiệp nơi ñất mới. ðất mới phì nhiêu, nhưng là nơi ác hiểm với chướng khí, rừng rậm ẩm thấp chứa ñầy bệnh tật, rắn ñộc, thú dữ. Nhưng quyết ra ñi, cậy vào sức mạnh của văn hóa Rồng Tiên, nhờ ñó mà ñồng ruộng, vườn tược, chùa miếu, thôn xóm ngày càng ñông ñúc, lập thêm nhiều phủ huyện, nhiều tỉnh mới. Rồi hợp lực với cả nước ñánh ñuổi bọn phong kiến xâm lược, bọn thực dân cũ, thực dân mới, ñể sau ñó ñổ ra bao nhiêu công sức xây dựng TP. HCM có số dân ñông ñúc, là hải cảng, là không cảng, rạng rỡ một cõi trời ðông Nam Châu Á. Dịp kỷ niệm 300 năm, cầu xin ðức Ông ban bố ân ñức vô biên vô lượng cho TP. HCM luôn phát triển, luôn phát triển Rất kính cẩn, Thượng hưởng!” [23:2014:209-210]. Hình 8. Nhà văn Sơn Nam (1926-2006) và văn tế trước mộ lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh ở Thác Ro (Quảng Bình) Những công trình kiến trúc ñền thờ và mộ cổ hiện tồn trên ñất Nam Bộ chính là chứng tích một thời về thành tựu lao ñộng và lao ñộng sáng tạo của người dân - người nghệ sĩ bản xứ; là những bằng cớ cụ thể và sinh ñộng, là tiếng nói trực tiếp của dĩ vãng, là mực họa diện mạo quá khứ lịch sử văn hóa vật chất - tinh thần - tư duy cổ nhân “Trên mảnh ñất này”, là “căn cước” (Identité) của “Những người Việt xưa rời quê hương phương Bắc ñi mở nước tạo nên những nếp sống văn hóa hòa hợp văn TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 Trang 61 hóa, giống xưa mà cũng khác xưa” [18]. Chúng là dạng di sản văn hóa - lịch sử chứa ñựng nhiều thông tin khoa học hữu ích cho sự nghiệp phục dựng cả thời ñoạn lịch sử quan trọng của ñất nước ta, của sự hình thành bản sắc và bản lĩnh lao ñộng sáng tạo văn hóa riêng của cư dân Việt – lực lượng cư trú ñông ñảo nhất là trung tâm liên kết và cuốn hút nhiều cộng ñồng tộc người khác “chung vai sát cánh” khai phá và chế ngự thiên nhiên nơi vùng “ðất mới” Biên Hòa - Gia ðịnh - ðịnh Tường và ðBSCL trong những thế kỷ sống ñộng gần ñây nhất. Và, bên cạnh các hình loại di tích Khảo cổ học Lịch sử khác (ñình, chùa, miếu, mạo, thành quách, bến cảng, chợ búa, nhà cửa, làng - phường thủ công cổ truyền, thuyền bè và thần công nơi chiến trường xưa, v.v), loại hình di tích mộ hợp chất Gia ðịnh và Nam Bộ cũng góp phần cung ứng nhiều ñiều cho công cuộc phục sử Việt trong sự nghiệp khơi dậy mọi sức mạnh văn hóa truyền thống ðại Việt ñể kiến tạo văn minh mang thêm sắc thái “Gia ðịnh” mới, diễn trình lao ñộng ñầy bản lĩnh biên hùng mà mà thông minh, “gian lao mà anh dũng” của nhiều thế hệ lưu dân tiên phong hướng về vùng mở nước sau cùng của Tổ Quốc Việt Nam ngày nay – “Hướng về Nam” [17]. Chúng vẫn là các “Di sản văn hóa”, là “Trí nhớ của Dân tộc” trong trường kỳ lịch sử mà, theo cách nói của ngài Tổng Giám ñốc UNESCO Federico Mayor là: “không thể thay thế ñược” của tiền nhân ở “Gia ðịnh - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh” ở cả “Xứ Dừa” - Hà Tiên - Châu ðốc - Nam Bộ và trên mọi miền ñất nước chúng ta.Bởi thế, các tình cảm “Uống nước nhớ nguồn”, “Tri ân Tiên hiền - Hậu hiền”, “Thờ cúng tổ tiên”, Ghi ân những thế hệ người “ñã có công dựng nước” (Bác Hồ) cũng chính là các “nén nhang” mà hậu thế “phúng viếng” các “Anh hùng văn hóa” xứ này trong quá vãng, phản ánh tâm nguyện của họ muôn ñời về “Non sông ñất nước” Việt Nam ñương thời và vĩnh cửu Memorial Tombs – special cultural heritage in the context of compound burials of Nguyen Dynasty aristocracy in Southern parts of Vietnam in Medieval and Post-Medieval Times • Pham Duc Manh • Do Ngoc Chien University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM ABSTRACT: This paper introduces Memorial Tombs in the context of memorial compound tomb types for the aristocrat of the Nguyen Dynasty (1802- 1945) in Southern Vietnam in The Medieval and Post-Medieval Time. This type was of rare tangible and intangible cultural heritage at the time (1.5%). These heritage assets are very valuable because they are associated with historical figures – “state founders, meritorious officials” in country expansion time “The Great SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X1-2015 Trang 62 South Unification (Dai Nam Nhat thong)”. In addition to the typical complex of mausoleums in Southern Vietnam (Nguyen Huu Canh, 1650-1700; Le Van Duyet, 1763-1832; Le Van Phong, Truong Tan Buu, 1752-1827 or Tran Van Hoc, Phan Tan Huynh, Huynh Van Tu, and "Sir Nhieu Loc"), the authors studied Vo Tanh mausoleum at both Hoang De (emperor) and Gia Dinh (emperor) citadels, and the mausoleum of his warmates related to the last and biggest-scaled sea fight between the Nguyen dynasty’s army and the Tay Son insurgent army on Thi Nai lagoon in 1801 (Vo Di Nguy, 1745-1801; Ngo Tung Chau; Thu Ngoc Hau, etc.). In our opinion, the presence of memorial tomb types of Vo Tanh and his warmates – historic-cultural-artistic heritage sites of national/provincial levels in Southern Vietnam relating the honoring of heroes who “wholeheartedly served the King, defended the country, saved the people” in the history of country expansion “Towards the South” in medieval and post-medieval times. They contribute to the moulding of prominent features of the comtemporary Southerners’ personality. Those historical stories of the Southern heroes are preserved and worshipped by their descendants bearing in mind the Vietnamese way of life “praising the bridge carrying one over” and pay homage to ancestors for their nation-building service. Keywords: the Compound Tombs of the Nguyen Dynasty, the Southern part of Vietnam, the Medieval & Post-Medieval Times TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bouchot, J. (1927), Pétrus Ký, un savant et un patriote Cochinchinois, Sài Gòn. [2]. Bùi Thị Ngọc Trang (1995), Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt: nghệ thuật kiến trúc, Nxb. Tp HCM. [3]. Choi, Byung Wook (2011), Vùng ñất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, Nxb. Thế Giới, Hà Nội. [4]. ðào Tử Khải (1971), “Nhân công bố mộ Phạm Thị Nguyên Chân ở Vân Cát (Nam Hà), Tạp chí Khảo cổ học, số 11-12:143- 148. [5]. ðỗ Văn Ninh (1970), “Khai quật một ngôi mộ hợp chất ở Vân Cát (Nam Hà)”, Tạp chí Khảo cổ học, số 5-6:144-151. [6]. ðỗ Văn Ninh (1971), “Ý kiến bổ sung về loại mộ hợp chất”, Tạp chí Khảo cổ học, số 11-12:139-143. [7]. ðỗ Xuân Hợp (1971), “Quanh loại mộ cổ có xác ướp; Ngôi mộ Lê Dụ Tông ở Bái Trạch (Thanh Hóa)”, Tạp chí Khảo cổ học, số 11- 12:149-156. [8]. Hoàng Lại Giang (1999), Lê Văn Duyệt, Nxb. Văn hóa Thông tin. [9]. Huỳnh Minh (1966), Bạc Liêu xưa và nay, Sài Gòn; (1966) Cần Thơ xưa và nay, Sài Gòn; (1967) Vĩnh Long xưa và nay, Sài Gòn; (1969) Gò Công xưa và Nay, Sài Gòn; (1969) ðịnh Tường xưa và nay, Sài Gòn; (1971) Sa ðéc xưa và nay, Sài Gòn; (1972) Tây Ninh xưa và nay, Sài Gòn; (1973) Gia ðịnh xưa và nay, Sài Gòn; (2001) Kiến Hòa xưa, Nxb. Thanh Niên. [10]. Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên) (2002), Sổ tay hành hương ñất Phương Nam, Nxb. TP.HCM. [11]. Nam Xuân Thọ (1957), Phan Thanh Giản, Tủ sách Tân Việt; (1957) Võ Trường Toản, Tân Việt, Sài Gòn; (1957) Văn bia ở mộ Võ TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X1-2015 Trang 63 Trường Toản, Ca Văn Thỉnh dịch, Tân Việt, Sài Gòn. [12]. Ngô Giáp ðậu (1993), Hoàng Việt long hưng chí, Nxb. Văn học, 1993. [13]. Nguyễn ðình ðầu (1994), Nghiên cứu ñịa bạ Triều Nguyễn-Hà Tiên, Nxb. TP.HCM; (1994) Nghiên cứu ñịa bạ Triều Nguyễn-Gia ðịnh (Tp. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Long An), Nxb. TP.HCM. [14]. Nguyễn Hữu Hiệp (1993), Thư Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thư, Nxb. Văn nghệ An Giang. [15]. Nguyễn Khắc Thuần (1998), Việt sử giai thoại (tập 5); Việt sử giai thoại (Tập 7); Việt sử giai thoại (Tập 8), Nxb. Giáo Dục. [16]. Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế (1991), Từ ñiển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội; [17]. Nguyễn Sĩ Lộc (1971), “Về kết quả ướp xác cổ và vôi hồ”, Tạp chí Khảo cổ học, số 11- 12:148-149. [18]. Phạm ðức Mạnh (2001), “Mộ hợp chất ở Gia ðịnh và Nam Bộ xưa”, trong: Nam Bộ, ðất & Người, Nxb. Trẻ, tập I:158-187. [19]. Phạm Huy Thông (1985), “Khảo cổ học các tỉnh phía Nam mười năm sau ngày giải phóng”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3:1-4. [20]. Phạm Hữu Mý - Nguyễn Văn ðường (2007), Di tích lịch sử - văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh (100 câu hỏi ñáp về Gia ðịnh - Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh), Nxb. Văn hóa Sài Gòn. [21]. Phạm Văn Sơn (1959-1961), Việt sử tân biên (Quyển 3 và 4), Tủ sách sử học Việt Nam, Sài Gòn. [22]. Phù Lang Trương Bá Phát (1974), “Chiến trận Tham Lương năm Nhâm Dần (1782)”, Tập san Sử ñịa, số 26, Sài Gòn. [23]. Quốc sử quán triều Nguyễn, (2002) ðại Nam thực lục, bản dịch Viện Sử học, tập 1, Nxb Giáo Dục; (2002) Quốc triều sử toát yếu (Phần Chính biên), Nxb. Văn học; (2005), ðại Nam liệt truyên, tập 2, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Thuận Hóa; (2006) ðại Nam nhất thống chí, tập 5, Nxb Thuận Hóa. [24]. Sơn Nam, (1988) Lịch sử An Giang, Nxb. Tổng hợp An Giang; (1994) Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb. Văn nghệ Tp. HCM; (2009) Lăng Ông Bà Chiểu và Lễ hội văn hóa dân gian, Nxb. Trẻ; (2014) Sài Gòn xưa - ấn tượng 300 năm & tiếp cận với ñồng bằng sông Cửu Long (biên khảo), Nxb. Trẻ. [25]. Trần Nam Tiến chủ biên (2007), Hỏi ñáp lịch sử Việt Nam (Tập 3), Nxb. Trẻ. [26]. Trần Trọng Kim, (1968) Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn; (1971) Việt Nam sử lược (quyển 2), Trung tâm Học liệu, Sài Gòn. [27]. Trần Văn Sung (2012), Tả quân Lê Văn Duyệt, Nxb. Thời ðại. [28]. Trịnh Hoài ðức (1972), Gia ðịnh thành thông chí (bản dịch Tu Trai Nguyễn Tạo), Nha Văn hóa, Phủ Quốc vụ khanh ñặc trách xuất bản, Sài Gòn. [29]. Trịnh Vân Thanh (1966), Thành ngữ ñiển tích danh nhân từ ñiển (tập 1-2), Hồn Thiêng, Sài Gòn. [30]. Vương Hồng Sển (2013), Sài Gòn năm xưa, Nxb. Tp.HCM. Websites [31]. 7iCzvQI/AAAAAAAAAY4/rlzwPLnoKic/s 640/ [32]. % E1%BB%8Dc_H% E1%BA%A7u
File đính kèm:
- mo_tuong_niem_di_san_van_hoa_dac_sac_trong_binh_dien_mo_hop.pdf