Một số đặc điểm của đại học nghiên cứu - Kinh nghiệm quốc tế cần áp dụng tại Việt Nam
TÓM TẮT
Trên cơ sở trình bày lịch sử ra đời và khái niệm liên quan đến đại học nghiên cứu
(ĐHNC), bài viết phân tích một số đặc điểm của ĐHNC trên thế giới, đồng thời đưa ra
những thách thức trong việc hình thành một ĐHNC theo đúng nghĩa tại Việt Nam.
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm của đại học nghiên cứu - Kinh nghiệm quốc tế cần áp dụng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc điểm của đại học nghiên cứu - Kinh nghiệm quốc tế cần áp dụng tại Việt Nam
Tư liệu tham khảo Số 4(69) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ 150 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU - KINH NGHIỆM QUỐC TẾ CẦN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM NGUYỄN CHÍ HẢI*, NGUYỄN HỒNG NGA* TÓM TẮT Trên cơ sở trình bày lịch sử ra đời và khái niệm liên quan đến đại học nghiên cứu (ĐHNC), bài viết phân tích một số đặc điểm của ĐHNC trên thế giới, đồng thời đưa ra những thách thức trong việc hình thành một ĐHNC theo đúng nghĩa tại Việt Nam. Từ khóa: đặc điểm, đại học nghiên cứu, Việt Nam. ABSTRACT Some features of research universities – International experience essential for Vietnam Through presenting the history of origin and concepts related to research universities, the article analyses some features of research universities around the world, as well as points out challenges in founding a true research university in Vietnam. Keywords: feature, research university, Vietnam. * PGS TS, Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM; Email: hainc@uel.edu.vn 1. Dẫn nhập Ngày nay, tri thức và năng lực sáng tạo có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở bất kì một quốc gia nào. Với đặc thù kết nối giảng dạy với nghiên cứu, các trường ĐHNC có nhiều ưu thế hơn so với những mô hình khác cũng tạo ra tri thức mới như các viện nghiên cứu hay phòng thí nghiệm của các công ti, tập đoàn. Nhờ có tri thức và sự sáng tạo, con người đã thay đổi thế giới một cách đáng kinh ngạc. Hiện nay, theo đánh giá của các nhà kinh tế, khoảng 80% các phát minh, sáng chế được tạo ra tại các trường đại học (ĐH) và viện nghiên cứu thuộc các viện ĐH, nơi làm việc của các nhà khoa học hàng đầu. Các trường ĐH có hai chức năng chính là truyền bá tri thức và kiến tạo tri thức cho con người. Các trường ĐH ở Việt Nam hiện nay đa phần chỉ chú trọng vào chức năng đầu tiên là đào tạo với sứ mạng truyền đạt kho tàng kiến thức của nhân loại, còn chức năng kiến tạo tri thức cho hiện tại và tương lai còn hạn chế bởi nhiều lí do khác nhau. Tuy nhiên, trong dài hạn, nhiệm vụ nghiên cứu sẽ là trọng tâm cốt lõi của các trường ĐH, nhất là các trường lớn và trọng điểm. Trong sứ mạng và tầm nhìn của nhiều trường ĐH tại Việt Nam như ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trường ĐH Kinh tế - Luật đều nhấn mạnh đến nghiên cứu khoa học và vai trò của nó trong việc phát triển một trường ĐH đẳng cấp khu vực và quốc tế. ĐH đẳng cấp quốc tế phải là một ĐHNC. Và ngày nay, các nước, nhất là các nước đang phát triển cũng đang tập trung vào xây dựng các trường ĐH định hướng nghiên cứu để làm cứu cánh cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Vậy ĐHNC (Research University) là gì? Vai trò của nó ra sao? Những đặc điểm nào cần thiết TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Chí Hải và tgk _____________________________________________________________________________________________________________ 151 để xây dựng và phát triển một trường ĐHNC? Đây là những vấn đề cần được quan tâm trong việc hình thành trường ĐHNC tại Việt Nam. 2. Lịch sử ra đời các trường đại học nghiên cứu ĐH Bologna, được thành lập năm 1088, là ĐH ra đời sớm nhất trên thế giới. Mục đích của việc thành lập trường ĐH lúc đó là hình thành một “Cộng đồng thầy và học trò” nhằm mục tiêu nghiên cứu khoa học và bảo vệ lợi ích của nhau. Ý tưởng tạo ra một môi trường học thuật này là kết tinh của các cuộc tìm kiếm chân lí và tạo ra tri thức từ thời Hi Lạp cổ đại với người tiên phong là Platon. Theo Platon, để có được khoa học và chân lí, chúng ta cần đến những cuộc “đối thoại tự do” để truy tìm chân lí trong bầu không khí của tự do. Đây chính là một ý tưởng thiên tài về tự do nghiên cứu và giảng dạy, cũng như thống nhất giữa nghiên cứu và giảng dạy [1, tr.36-37], việc kết hợp thầy và trò trong sự nghiệp tìm ra chân lí và giải thích chân lí dựa vào quan điểm của khoa học. Mặc dù các trường ĐH ra đời với tiên chỉ là nghiên cứu nhưng chỉ đến khi Trường ĐH Humboldt (Đức) ra đời vào năm 1810 thì ĐHNC mới thực sự tồn tại theo đúng nghĩa của hình thái hiện đại bây giờ với nền tảng triết học vững chắc và phát triển mạnh mẽ. ĐH Humbolt có thể được mô tả ngắn gọn như sau: “Đó là một thể chế, trong đó những người giảng dạy và người học quy tụ lại như những người nghiên cứu bình đẳng trong sự thống nhất giữa nghiên cứu và giảng dạy để truy tìm khoa học thuần túy trong sự cô đơn và tự do, và qua quá trình này đạt tới sự hoàn thiện về tinh thần và đạo đức.” [1, tr.34]. Hai trụ cột chính của các nguyên lí này là nghiên cứu và tự do hàn lâm. Với người sáng lập ra ĐH Berlin (sau này được gọi là ĐH Humboldt) Wilhelm von Humboldt, ĐH là nơi tạo ra khoa học, văn hóa, nhân cách, đạo đức và là nơi ươm những hạt giống trí tuệ cho đất nước. Mô hình ĐH Humboldt có một bước tiến hóa ngoạn mục và vượt qua eo biển Manche để vào nước Anh, qua Đại Tây Dương để thâm nhập vào nước Mĩ, rồi qua Nhật và nhiều nơi khác trên thế giới. Nhất là cuộc thâm nhập vào đất nước của tự do là Mĩ, đã tạo ra một cuộc lai giống màu mỡ nhất trong lịch sử tri thức. Các trường ĐH hàng đầu của Hoa Kì như Michigan, Harvard, Cornell, Johns Hopkins đều “uống cùng dòng suối hàn lâm” của Đức [1, tr.95]. 3. Khái niệm về đại học nghiên cứu Theo Kennedy Donald (2012) thì “Hoạt động khoa học trong một trường ĐH là tổng hòa các chủ để nghiên cứu, phong cách làm việc, và sản phẩm của tri thức” [3, tr.261]. Trường ĐHNC là một cơ sở giáo dục quan trọng, tham gia một cách nghiêm túc không chỉ vào việc nghiên cứu mà còn vào mô thức thực tập và cộng tác một cách chính quy về mặt học thuật nhằm đào tạo những người có học vị tiến sĩ, đồng thời nó phải có đủ khả năng cạnh tranh về chất lượng hoạt động để thu hút cả sinh viên sau ĐH lẫn hỗ trợ dành cho nghiên cứu của chính quyền Liên bang Tư liệu tham khảo Số 4(69) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ 152 trong một hệ thống cạnh tranh dữ dội dựa trên việc xem xét thành tích khoa học trước đó và sự thẩm định của đồng nghiệp. [5, tr.79]. Philip Altbach cho rằng “ĐHNC là các định chế học thuật (hàn lâm) cam kết sáng tạo và phổ biến tri thức trong một loạt các ngành và lĩnh vực, và có các phòng thí nghiệm phù hợp, thư viện và các cơ sở hạ tầng khác cho phép thực hiện việc giảng dạy và nghiên cứu ở mức cao nhất có thể” [1, tr.784]. Theo Tuyên ngôn Hợp Phì: “Các trường ĐHNC được định nghĩa bởi những cam kết nghiêm túc và xuyên suốt của họ với hoạt động nghiên cứu khoa học; bởi sự ưu tú, bởi bề rộng và khối lượng những kết quả nghiên cứu của họ; và bởi cách thức văn hóa khoa học thẩm thấu, lan tỏa trong mọi hoạt động của họ, từ giảng dạy, nghiên cứu đến gắn kết với giới doanh nghiệp, với chính phủ, và với cộng đồng xã hội. Việc đào tạo bậc ĐH ở các trường ĐHNC được hưởng lợi to lớn từ những cơ hội mà nhà trường mang lại cho sinh viên trong những lớp học hay phòng thí nghiệm với các giáo sư và nghiên cứu sinh đang làm việc ở tuyến đầu của tri thức. Đào tạo sau ĐH ở các trường ĐHNC được làm cho phong phú thêm nhờ sự gắn kết trực tiếp và mạnh mẽ của các nghiên cứu sinh trong việc thực hiện nghiên cứu, còn chất lượng và năng suất của hoạt động nghiên cứu trong trường thì được lợi rất nhiều nhờ sự sáng tạo và năng lượng của các nghiên cứu sinh. Các trường ĐHNC thường chỉ là số ít trong hệ thống giáo dục ĐH của mỗi nước, nhưng bao giờ cũng chiếm một phần đáng kể thành quả nghiên cứu của quốc gia” [7]. Như vậy, theo chúng tôi, công việc của các ĐHNC hiện nay và tương lai tập trung chủ yếu vào các hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng tạo và phổ biến tri thức mới trong các lĩnh vực then chốt của mình. Các trường ĐHNC đã, đang và sẽ là những định chế trung tâm của thế kỉ XXI. 4. Những đặc điểm của đại học nghiên cứu 4.1. Xác định những tiền đề cơ bản Dựa vào những khái niệm về ĐHNC một cách tổng quát và đơn giản, chúng tôi cho rằng những tiền đề để xây dựng một ĐHNC gồm những vấn đề sau: Thứ nhất, trường ĐHNC tập trung cao độ vào việc đào tạo các tiến sĩ như một phần quan trọng của sứ mạng. Thường thì các ĐHNC đào tạo với tương quan 2 sinh viên ĐH và 1 sinh viên sau ĐH. Tuy nhiên, ngân sách cho đào tạo sau ĐH gấp 2 lần đào tạo ĐH. Tại Mĩ, có 125 trường ĐHNC, chiếm 3% số trường ĐH, nhưng đào tạo khoảng 75% tiến sĩ và 35% những người có bằng cấp chuyên nghiệp. [5, tr.73] Thứ hai, ĐHNC sở hữu những cơ sở hạ tầng cần thiết cho nghiên cứu như thư viện, công nghệ thông tin và các phòng thí nghiệm. Không thể có những nghiên cứu chất lượng và mang tính khám phá nếu không có các phương tiện hỗ trợ tối đa cho các nhà nghiên cứu như phòng thí nghiệm chuẩn quốc tế, hệ thống thư viện hiện đại và công nghệ thông tin cập nhật Thứ ba, ĐHNC cần tuyển dụng các TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Chí Hải và tgk _____________________________________________________________________________________________________________ 153 học giả chất lượng cao, nếu có thể là các giáo sư tài năng nhất, những người bị thu hút bởi các định hướng nghiên cứu, cơ sở vật chất và thường bởi điều kiện làm việc tốt và được chọn lọc theo các tiêu chuẩn rõ ràng, chuẩn mực và duy trì các điều kiện cho phép thực hiện các hoạt động nghiên cứu. Các giáo sư, học giả và các nhà khoa học phải làm việc toàn thời gian, những người dành trọn mối quan tâm nghề nghiệp cho việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Trường ĐHNC phải có một hệ thống lương bổng phù hợp để duy trì mức sống của các nhà khoa học ở mức trung lưu. Thứ tư, ĐHNC cần chọn lọc những sinh viên xuất sắc và sáng giá với chất lượng tốt nhất có thể của quốc gia và cũng có thể trên toàn thế giới. Nhờ uy tín và cơ sở vật chất của mình, các trường ĐHNC có khả năng thu hút những học sinh giỏi nhất và quy trình tuyển chọn cũng hết sức gắt gao và cạnh tranh. Thứ năm, nhà nước cần tài trợ cho các nghiên cứu khoa học cơ bản tại các trường ĐHNC. Sản phẩm của nghiên cứu khoa học cơ bản có tính chất của hàng hóa công và không mang lại thành quả kinh tế ngay, do vậy tư nhân hầu như ít tham gia tài trợ nghiên cứu cơ bản. Vì vậy vai trò của nhà nước là hết sức quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động liên quan đến nghiên cứu cơ bản. Tuy nhiên, tài trợ của nhà nước không nên mang tính dàn trải và phải có định hướng rõ ràng. Theo số liệu tại Hoa Kì, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển ở nhóm 100 trường ĐH hàng đầu chiếm 72% tổng ngân sách dành cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thực hiện trong các trường ĐH năm 1996, và khoảng 77% vào năm 1997. [5, tr.72] Thứ sáu, ĐHNC phải có một văn hóa nghiên cứu với tinh thần tự do học thuật, truy vấn và chất lượng. Lịch sử cho thấy tự do học thuật, tự do trong giảng đường, trong phòng thí nghiệm và trong các công bố kết quả nghiên cứu và học thuật đóng vai trò then chốt đối với việc tạo ra một văn hóa nghiên cứu, tạo ra một môi trường kích thích trí tưởng tượng. Nói như Albert Einstein: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Bởi vì kiến thức có giới hạn, còn trí tưởng tượng nắm cả thế giới trong tay, thúc đẩy sự tiến bộ, sản sinh sự tiến hóa”. Thứ bảy, ĐHNC phải có một hệ thống quản trị hữu hiệu, trong đó cần làm rõ vai trò của Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng và tập thể giảng viên. Hội đồng quản trị có trách nhiệm quản trị chứ không phải là quản lí [5, tr.507]. Quyền hành của tập thể giảng viên trong ĐHNC là rất đáng kể và nếu sử dụng nó một cách hiệu quả thì hoạt động của trường ĐHNC càng hiệu quả hơn. Nhiệm vụ của Hiệu trưởng trường ĐHNC là (a) Xác định và phát biểu rõ ràng sứ mạng của trường ĐH, xây dựng những mục tiêu có ý nghĩa, (b) Tuyển dụng những người tài, xây dựng môi trường, thiết lập các nhóm nghiên cứu hiệu quả, tạo bầu không khí trong lành và cung cấp các tài nguyên để đạt được các mục tiêu đề ra. 4.2. Những đặc điểm của đại học nghiên cứu Tuyên ngôn Hợp Phì đã nêu rõ 10 đặc điểm của ĐHNC hiện đại: Tư liệu tham khảo Số 4(69) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ 154 i) Theo đuổi sự ưu tú trong tất cả mọi hoạt động của mình, tự điều chỉnh mình qua sự đánh giá vô tư, vô vụ lợi, độc lập, và có cơ sở thông tin của các tổ chức và cá nhân trong giới hàn lâm ngoài trường; cam kết duy trì một hệ thống dùng người minh bạch, chỉ căn cứ vào tài năng và phẩm chất trong việc lựa chọn giảng viên, sinh viên và nhân viên; tạo ra một môi trường nội bộ có thể nuôi dưỡng tinh thần học tập, sự sáng tạo và khám phá, và làm nảy nở, làm phát triển mọi tiềm năng của giảng viên, nhân viên, sinh viên và nghiên cứu sinh. ii) Có một kết quả nghiên cứu đáng kể, với chiều sâu và chiều rộng, tạo ra những kết quả nghiên cứu được quốc tế công nhận, và được phổ biến rộng rãi thông qua các ấn phẩm khoa học, qua giảng dạy và gắn bó với cộng đồng. iii) Có sự cam kết gắn bó với việc đào tạo những người làm nghề nghiên cứu, đặc biệt là thông qua các chương trình đào tạo tiến sĩ, là nơi sẽ đem lại dòng chảy liên tục không ngừng những người có năng lực cao và được kính trọng (theo đánh giá của các nhà nghiên cứu có cương vị quốc tế), những người có khả năng tạo ra bước tiến mới cho tri thức, cho sự hiểu biết, và đóng góp cho sự đổi mới quốc gia và quốc tế trên mọi lĩnh vực. iv) Có sự cam kết gắn bó với việc giảng dạy ở cả bậc ĐH và sau ĐH, nhằm tạo ra những người được giáo dục với nền tảng kiến thức rộng và có khả năng đóng góp cho sự giàu mạnh của quốc gia qua nhiều hoạt động phong phú. v) Tận tâm tận lực với những chuẩn mực cao nhất về sự chính trực trong hoạt động nghiên cứu và những nghĩa vụ đạo đức liên đới. Đó là điều bảo đảm cho sự trung thực trong khi thu thập dữ liệu, đánh giá và phân tích, khiến nó độc lập với bất cứ tính toán nào về nguồn tài trợ, về những lợi ích của cá nhân hay của tổ chức, và điều này được hỗ trợ bởi một quy trình rõ ràng và hiệu quả để đáp ứng với bất cứ luận điệu hay nhận thức nào về những cách xử sự hay những công trình nghiên cứu phi đạo đức. vi) Thực thi quyền tự do học thuật có trách nhiệm với giảng viên, để họ không bị kiềm chế một cách không đáng trong việc tạo ra và phổ biến tri thức thông qua nghiên cứu, giảng dạy và phục vụ; để họ làm việc trong một không gian văn hóa khoa học dựa trên con đường rộng mở trong tìm kiếm tri thức; để họ không ngừng kiểm nghiệm những hiểu biết đang có ở mức độ vượt ra xa hơn tính chất nghề nghiệp hay công cụ; để họ nhìn xa hơn những nhu cầu trước mắt, và tìm cách phát triển sự hiểu biết, kĩ năng và tri thức chuyên môn cần thiết cho tương lai và cho việc diễn giải về thế giới đang thay đổi của chúng ta. vii) Có thái độ khoan dung, công nhận và hoan nghênh những quan điểm, cách nhìn, khuôn khổ nhận thức và cương vị khác nhau, vì đó là điều cần thiết để hỗ trợ cho sự tiến bộ; cùng với nó là cam kết gắn bó với những tranh luận dân sự và những cuộc thảo luận nhằm nâng cao hiểu biết, tạo ra tri thức mới, công nghệ mới. viii) Có quyền tự xác định ưu tiên của nhà trường, trên nền tảng khoa học, về TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Chí Hải và tgk _____________________________________________________________________________________________________________ 155 những gì cần làm và bằng cách nào thực hiện nghiên cứu và giảng dạy, dựa trên sứ mạng của nhà trường, dựa trên kế hoạch phát triển chiến lược và sự đánh giá của nhà trường về nhu cầu hiện tại và trong tương lai của xã hội; có quyền xác định sẽ tuyển dụng người nào và tuyển sinh như thế nào, trong đó có cả khả năng tuyển dụng trên phạm vi quốc tế nhằm thu hút những người tài giỏi nhất nhằm đạt được những ưu tiên ấy. ix) Cam kết hỗ trợ cộng đồng địa phương và quốc gia cũng như đóng góp cho sự thịnh vượng của thế giới bằng cách hành động và xây dựng một thứ văn hóa có thế phát huy tối đa những lợi ích trước mắt và lợi ích dài hạn của những hoạt động nghiên cứu và giảng dạy mà nó thực hiện. x) Có một cơ chế quản trị cởi mở và minh bạch có thể bảo vệ và hỗ trợ cho sự gắn bó liên tục với những đặc điểm đã làm nên và duy trì sự tồn tại những trường ĐHNC đẳng cấp quốc tế, và đồng thời, bảo đảm rằng nhà trường thực hiện được trách nhiệm của nó trước công chúng [6]. 5. Những thách thức cho việc hình thành đại học nghiên cứu ở Việt Nam Hầu hết các tiêu chí nêu trên cũng là những thách thức cho việc hình thành ĐHNC ở Việt Nam. Tuy nhiên, những tiền đề cho việc hình thành ĐHNC ở Việt Nam không phải là không có, đáng kể nhất chính là sự cần cù hiếu học của người Việt Nam và đội ngũ các nhà khoa học tài năng, tâm huyết ở trong nước và nước ngoài, có nguyện vọng cống hiến cho Tổ quốc. Để xây dựng được ĐHNC ở Việt Nam, theo chúng tôi, cần có nhận thức và các giải pháp có tính đột phá. Thứ nhất, Chính phủ và lãnh đạo ngành giáo dục cần có quyết tâm chiến lược, đầu tư có trọng điểm và thỏa đáng cho việc xây dựng một số ĐHNC trọng điểm ở Việt Nam, trước hết đối với ĐH Quốc gia Hà Nội và ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Thứ hai, cần đổi mới tư duy, cải cách triệt để giáo dục ĐH, trước hết là mô hình và cách thức quản trị ĐH, để các ĐH định hướng nghiên cứu có môi trường, điều kiện phát triển học thuật thuận lợi nhất. Thứ ba, trong điều kiện nguồn tài chính hạn chế của Chính phủ, bên cạnh sự đầu tư từ ngân sách, các ĐH định hướng nghiên cứu cần đa dạng hóa nguồn tài chính ở cả trong và ngoài nước. Điều không kém phần quan trọng là nguồn tài chính phải được nhà trường quản lí và đầu tư có chiều sâu, mang tính dài hạn và đem lại hiệu quả cao. Thứ tư, trên cơ sở được đầu tư về cơ sở vật chất, tài chính, môi trường học thuật thuận lợi, các ĐH định hướng nghiên cứu ở Việt Nam cần có cơ chế mở để thu hút các nhà khoa học, nhà sư phạm ưu tú trong và ngoài nước. Thứ năm, sự hình thành và phát triển của ĐHNC không có chỗ cho thái độ nguội lạnh, thiếu ý chí quyết tâm, song cũng không thể dung nạp tư duy chủ quan, nôn nóng, duy ý chí. ĐHNC sẽ hình thành và phát triển với một quyết tâm lớn, một chiến lược và lộ trình phù hợp, đó cũng là điều kiện để phát triển bền vững đối với các trường ĐH. Tư liệu tham khảo Số 4(69) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ 156 Thứ sáu, hình thành một số tạp chí độc lập nghiên cứu học thuật và không có sự kiển soát của các cơ quan ban ngành để việc tự do học thuật được phổ biến rộng rãi. Thứ bảy, các nhà khoa học cần được tôn trọng và trả thù lao xứng đáng. Cần có cơ chế tài chính đặc thù để thu hút các nhà khoa học nước ngoài. Cơ chế thanh toán tài chính cho các nghiên cứu cần sự minh bạch và đơn giản, nhất là cơ chế khoán đầu vào và quan trọng là sản phẩm đầu ra. 6. Kết luận Để có thể tồn tại và phát triển một ĐHNC thì phải có sự đầu tư nghiêm túc, căn bản và hiệu quả từ cơ sở vật chất đến nguồn nhân lực chất lượng cao. Với xu thế hội nhập hiện nay và theo yêu cầu của thời đại, Việt Nam cũng rất cần có ĐHNC. Trong sứ mạng và tầm nhìn của nhiều trường ĐH tại Việt Nam đều nhấn mạnh đến nghiên cứu khoa học và vai trò của nó trong việc phát triển một trường ĐH đẳng cấp khu vực và quốc tế. Với tinh thần hiếu học, nghị lực sáng tạo và nguồn nhân lực trí thức hiện tại, chúng tôi hi vọng rằng Việt Nam sẽ xây dựng thành công những ĐHNC trong tương lai gần. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Bảo Châu và cộng sự (2011), Đại học Humboldt 200 năm (1810 -2010): Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam, Nxb Tri thức, Hà Nội. 2. Phạm Ngọc Duy (2011), “Đại học nghiên cứu – cốt lõi của sáng tạo”, 3. Kennedy Donald (2012), Nghĩa vụ học thuật, Nxb Tri thức, Hà Nội. 4. Kerr Clark (2013), Các công dụng của đại học, Nxb Tri thức, Hà Nội. 5. Rhodes Frank (2009), Tạo dựng tương lai, Nxb Văn hóa Sài Gòn. 6. phi-ve-10-dac-diem-cua-Truong-Dai-hoc-Nghien-cuu-Hien-dai/language/vi- VN/Default.aspx Ngày Tòa soạn nhận được bài: 30-12-2014; ngày phản biện đánh giá: 05-01-2015; ngày chấp nhận đăng: 10-4-2015)
File đính kèm:
- mot_so_dac_diem_cua_dai_hoc_nghien_cuu_kinh_nghiem_quoc_te_c.pdf