Một số đặc điểm của đại học nghiên cứu - Kinh nghiệm quốc tế cần áp dụng tại Việt Nam

TÓM TẮT

Trên cơ sở trình bày lịch sử ra đời và khái niệm liên quan đến đại học nghiên cứu

(ĐHNC), bài viết phân tích một số đặc điểm của ĐHNC trên thế giới, đồng thời đưa ra

những thách thức trong việc hình thành một ĐHNC theo đúng nghĩa tại Việt Nam.

pdf 7 trang yennguyen 2660
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm của đại học nghiên cứu - Kinh nghiệm quốc tế cần áp dụng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc điểm của đại học nghiên cứu - Kinh nghiệm quốc tế cần áp dụng tại Việt Nam

Một số đặc điểm của đại học nghiên cứu - Kinh nghiệm quốc tế cần áp dụng tại Việt Nam
Tư liệu tham khảo Số 4(69) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
150 
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU 
- KINH NGHIỆM QUỐC TẾ CẦN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM 
NGUYỄN CHÍ HẢI*, NGUYỄN HỒNG NGA* 
TÓM TẮT 
Trên cơ sở trình bày lịch sử ra đời và khái niệm liên quan đến đại học nghiên cứu 
(ĐHNC), bài viết phân tích một số đặc điểm của ĐHNC trên thế giới, đồng thời đưa ra 
những thách thức trong việc hình thành một ĐHNC theo đúng nghĩa tại Việt Nam. 
Từ khóa: đặc điểm, đại học nghiên cứu, Việt Nam. 
ABSTRACT 
Some features of research universities – International experience essential for Vietnam 
Through presenting the history of origin and concepts related to research 
universities, the article analyses some features of research universities around the world, 
as well as points out challenges in founding a true research university in Vietnam. 
Keywords: feature, research university, Vietnam. 
* PGS TS, Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM; Email: hainc@uel.edu.vn 
1. Dẫn nhập 
Ngày nay, tri thức và năng lực sáng 
tạo có vai trò to lớn trong việc phát triển 
kinh tế - xã hội ở bất kì một quốc gia nào. 
Với đặc thù kết nối giảng dạy với nghiên 
cứu, các trường ĐHNC có nhiều ưu thế 
hơn so với những mô hình khác cũng tạo 
ra tri thức mới như các viện nghiên cứu 
hay phòng thí nghiệm của các công ti, tập 
đoàn. Nhờ có tri thức và sự sáng tạo, con 
người đã thay đổi thế giới một cách đáng 
kinh ngạc. 
Hiện nay, theo đánh giá của các nhà 
kinh tế, khoảng 80% các phát minh, sáng 
chế được tạo ra tại các trường đại học 
(ĐH) và viện nghiên cứu thuộc các viện 
ĐH, nơi làm việc của các nhà khoa học 
hàng đầu. Các trường ĐH có hai chức 
năng chính là truyền bá tri thức và kiến 
tạo tri thức cho con người. Các trường 
ĐH ở Việt Nam hiện nay đa phần chỉ chú 
trọng vào chức năng đầu tiên là đào tạo 
với sứ mạng truyền đạt kho tàng kiến 
thức của nhân loại, còn chức năng kiến 
tạo tri thức cho hiện tại và tương lai còn 
hạn chế bởi nhiều lí do khác nhau. Tuy 
nhiên, trong dài hạn, nhiệm vụ nghiên 
cứu sẽ là trọng tâm cốt lõi của các trường 
ĐH, nhất là các trường lớn và trọng điểm. 
Trong sứ mạng và tầm nhìn của nhiều 
trường ĐH tại Việt Nam như ĐH Quốc 
gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trường 
ĐH Kinh tế - Luật đều nhấn mạnh đến 
nghiên cứu khoa học và vai trò của nó 
trong việc phát triển một trường ĐH đẳng 
cấp khu vực và quốc tế. ĐH đẳng cấp 
quốc tế phải là một ĐHNC. Và ngày nay, 
các nước, nhất là các nước đang phát 
triển cũng đang tập trung vào xây dựng 
các trường ĐH định hướng nghiên cứu để 
làm cứu cánh cho sự phát triển kinh tế - 
xã hội của các quốc gia. Vậy ĐHNC 
(Research University) là gì? Vai trò của 
nó ra sao? Những đặc điểm nào cần thiết 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Chí Hải và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
151 
để xây dựng và phát triển một trường 
ĐHNC? Đây là những vấn đề cần được 
quan tâm trong việc hình thành trường 
ĐHNC tại Việt Nam. 
2. Lịch sử ra đời các trường đại học 
nghiên cứu 
ĐH Bologna, được thành lập năm 
1088, là ĐH ra đời sớm nhất trên thế giới. 
Mục đích của việc thành lập trường ĐH 
lúc đó là hình thành một “Cộng đồng 
thầy và học trò” nhằm mục tiêu nghiên 
cứu khoa học và bảo vệ lợi ích của nhau. 
Ý tưởng tạo ra một môi trường học thuật 
này là kết tinh của các cuộc tìm kiếm 
chân lí và tạo ra tri thức từ thời Hi Lạp cổ 
đại với người tiên phong là Platon. Theo 
Platon, để có được khoa học và chân lí, 
chúng ta cần đến những cuộc “đối thoại 
tự do” để truy tìm chân lí trong bầu 
không khí của tự do. Đây chính là một ý 
tưởng thiên tài về tự do nghiên cứu và 
giảng dạy, cũng như thống nhất giữa 
nghiên cứu và giảng dạy [1, tr.36-37], 
việc kết hợp thầy và trò trong sự nghiệp 
tìm ra chân lí và giải thích chân lí dựa 
vào quan điểm của khoa học. 
Mặc dù các trường ĐH ra đời với 
tiên chỉ là nghiên cứu nhưng chỉ đến khi 
Trường ĐH Humboldt (Đức) ra đời vào 
năm 1810 thì ĐHNC mới thực sự tồn tại 
theo đúng nghĩa của hình thái hiện đại 
bây giờ với nền tảng triết học vững chắc 
và phát triển mạnh mẽ. ĐH Humbolt có 
thể được mô tả ngắn gọn như sau: “Đó là 
một thể chế, trong đó những người giảng 
dạy và người học quy tụ lại như những 
người nghiên cứu bình đẳng trong sự 
thống nhất giữa nghiên cứu và giảng dạy 
để truy tìm khoa học thuần túy trong sự 
cô đơn và tự do, và qua quá trình này đạt 
tới sự hoàn thiện về tinh thần và đạo 
đức.” [1, tr.34]. Hai trụ cột chính của các 
nguyên lí này là nghiên cứu và tự do hàn 
lâm. 
Với người sáng lập ra ĐH Berlin 
(sau này được gọi là ĐH Humboldt) 
Wilhelm von Humboldt, ĐH là nơi tạo ra 
khoa học, văn hóa, nhân cách, đạo đức và 
là nơi ươm những hạt giống trí tuệ cho 
đất nước. 
Mô hình ĐH Humboldt có một 
bước tiến hóa ngoạn mục và vượt qua eo 
biển Manche để vào nước Anh, qua Đại 
Tây Dương để thâm nhập vào nước Mĩ, 
rồi qua Nhật và nhiều nơi khác trên thế 
giới. Nhất là cuộc thâm nhập vào đất 
nước của tự do là Mĩ, đã tạo ra một cuộc 
lai giống màu mỡ nhất trong lịch sử tri 
thức. Các trường ĐH hàng đầu của Hoa 
Kì như Michigan, Harvard, Cornell, 
Johns Hopkins đều “uống cùng dòng suối 
hàn lâm” của Đức [1, tr.95]. 
3. Khái niệm về đại học nghiên cứu 
Theo Kennedy Donald (2012) thì 
“Hoạt động khoa học trong một trường 
ĐH là tổng hòa các chủ để nghiên cứu, 
phong cách làm việc, và sản phẩm của tri 
thức” [3, tr.261]. 
Trường ĐHNC là một cơ sở giáo 
dục quan trọng, tham gia một cách 
nghiêm túc không chỉ vào việc nghiên 
cứu mà còn vào mô thức thực tập và cộng 
tác một cách chính quy về mặt học thuật 
nhằm đào tạo những người có học vị tiến 
sĩ, đồng thời nó phải có đủ khả năng cạnh 
tranh về chất lượng hoạt động để thu hút 
cả sinh viên sau ĐH lẫn hỗ trợ dành cho 
nghiên cứu của chính quyền Liên bang 
Tư liệu tham khảo Số 4(69) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
152 
trong một hệ thống cạnh tranh dữ dội dựa 
trên việc xem xét thành tích khoa học 
trước đó và sự thẩm định của đồng 
nghiệp. [5, tr.79]. 
Philip Altbach cho rằng “ĐHNC là 
các định chế học thuật (hàn lâm) cam kết 
sáng tạo và phổ biến tri thức trong một 
loạt các ngành và lĩnh vực, và có các 
phòng thí nghiệm phù hợp, thư viện và 
các cơ sở hạ tầng khác cho phép thực 
hiện việc giảng dạy và nghiên cứu ở mức 
cao nhất có thể” [1, tr.784]. 
Theo Tuyên ngôn Hợp Phì: “Các 
trường ĐHNC được định nghĩa bởi 
những cam kết nghiêm túc và xuyên suốt 
của họ với hoạt động nghiên cứu khoa 
học; bởi sự ưu tú, bởi bề rộng và khối 
lượng những kết quả nghiên cứu của họ; 
và bởi cách thức văn hóa khoa học thẩm 
thấu, lan tỏa trong mọi hoạt động của họ, 
từ giảng dạy, nghiên cứu đến gắn kết với 
giới doanh nghiệp, với chính phủ, và với 
cộng đồng xã hội. Việc đào tạo bậc ĐH ở 
các trường ĐHNC được hưởng lợi to lớn 
từ những cơ hội mà nhà trường mang lại 
cho sinh viên trong những lớp học hay 
phòng thí nghiệm với các giáo sư và 
nghiên cứu sinh đang làm việc ở tuyến 
đầu của tri thức. Đào tạo sau ĐH ở các 
trường ĐHNC được làm cho phong phú 
thêm nhờ sự gắn kết trực tiếp và mạnh 
mẽ của các nghiên cứu sinh trong việc 
thực hiện nghiên cứu, còn chất lượng và 
năng suất của hoạt động nghiên cứu 
trong trường thì được lợi rất nhiều nhờ 
sự sáng tạo và năng lượng của các 
nghiên cứu sinh. Các trường ĐHNC 
thường chỉ là số ít trong hệ thống giáo 
dục ĐH của mỗi nước, nhưng bao giờ 
cũng chiếm một phần đáng kể thành quả 
nghiên cứu của quốc gia” [7]. 
Như vậy, theo chúng tôi, công việc 
của các ĐHNC hiện nay và tương lai tập 
trung chủ yếu vào các hoạt động nghiên 
cứu khoa học, sáng tạo và phổ biến tri 
thức mới trong các lĩnh vực then chốt của 
mình. Các trường ĐHNC đã, đang và sẽ 
là những định chế trung tâm của thế kỉ 
XXI. 
4. Những đặc điểm của đại học 
nghiên cứu 
4.1. Xác định những tiền đề cơ bản 
Dựa vào những khái niệm về 
ĐHNC một cách tổng quát và đơn giản, 
chúng tôi cho rằng những tiền đề để xây 
dựng một ĐHNC gồm những vấn đề sau: 
Thứ nhất, trường ĐHNC tập trung 
cao độ vào việc đào tạo các tiến sĩ như 
một phần quan trọng của sứ mạng. 
Thường thì các ĐHNC đào tạo với tương 
quan 2 sinh viên ĐH và 1 sinh viên sau 
ĐH. Tuy nhiên, ngân sách cho đào tạo 
sau ĐH gấp 2 lần đào tạo ĐH. Tại Mĩ, có 
125 trường ĐHNC, chiếm 3% số trường 
ĐH, nhưng đào tạo khoảng 75% tiến sĩ 
và 35% những người có bằng cấp chuyên 
nghiệp. [5, tr.73] 
Thứ hai, ĐHNC sở hữu những cơ 
sở hạ tầng cần thiết cho nghiên cứu như 
thư viện, công nghệ thông tin và các 
phòng thí nghiệm. Không thể có những 
nghiên cứu chất lượng và mang tính 
khám phá nếu không có các phương tiện 
hỗ trợ tối đa cho các nhà nghiên cứu như 
phòng thí nghiệm chuẩn quốc tế, hệ 
thống thư viện hiện đại và công nghệ 
thông tin cập nhật 
Thứ ba, ĐHNC cần tuyển dụng các 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Chí Hải và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
153 
học giả chất lượng cao, nếu có thể là các 
giáo sư tài năng nhất, những người bị thu 
hút bởi các định hướng nghiên cứu, cơ sở 
vật chất và thường bởi điều kiện làm việc 
tốt và được chọn lọc theo các tiêu chuẩn 
rõ ràng, chuẩn mực và duy trì các điều 
kiện cho phép thực hiện các hoạt động 
nghiên cứu. Các giáo sư, học giả và các 
nhà khoa học phải làm việc toàn thời 
gian, những người dành trọn mối quan 
tâm nghề nghiệp cho việc giảng dạy và 
nghiên cứu khoa học. Trường ĐHNC 
phải có một hệ thống lương bổng phù 
hợp để duy trì mức sống của các nhà 
khoa học ở mức trung lưu. 
Thứ tư, ĐHNC cần chọn lọc những 
sinh viên xuất sắc và sáng giá với chất 
lượng tốt nhất có thể của quốc gia và 
cũng có thể trên toàn thế giới. Nhờ uy tín 
và cơ sở vật chất của mình, các trường 
ĐHNC có khả năng thu hút những học 
sinh giỏi nhất và quy trình tuyển chọn 
cũng hết sức gắt gao và cạnh tranh. 
Thứ năm, nhà nước cần tài trợ cho 
các nghiên cứu khoa học cơ bản tại các 
trường ĐHNC. Sản phẩm của nghiên cứu 
khoa học cơ bản có tính chất của hàng 
hóa công và không mang lại thành quả 
kinh tế ngay, do vậy tư nhân hầu như ít 
tham gia tài trợ nghiên cứu cơ bản. Vì 
vậy vai trò của nhà nước là hết sức quan 
trọng trong việc tài trợ các hoạt động liên 
quan đến nghiên cứu cơ bản. Tuy nhiên, 
tài trợ của nhà nước không nên mang tính 
dàn trải và phải có định hướng rõ ràng. 
Theo số liệu tại Hoa Kì, chi tiêu cho 
nghiên cứu và phát triển ở nhóm 100 
trường ĐH hàng đầu chiếm 72% tổng 
ngân sách dành cho nghiên cứu khoa học 
và công nghệ thực hiện trong các trường 
ĐH năm 1996, và khoảng 77% vào năm 
1997. [5, tr.72] 
Thứ sáu, ĐHNC phải có một văn 
hóa nghiên cứu với tinh thần tự do học 
thuật, truy vấn và chất lượng. Lịch sử cho 
thấy tự do học thuật, tự do trong giảng 
đường, trong phòng thí nghiệm và trong 
các công bố kết quả nghiên cứu và học 
thuật đóng vai trò then chốt đối với việc 
tạo ra một văn hóa nghiên cứu, tạo ra một 
môi trường kích thích trí tưởng tượng. 
Nói như Albert Einstein: “Trí tưởng 
tượng quan trọng hơn kiến thức. Bởi vì 
kiến thức có giới hạn, còn trí tưởng tượng 
nắm cả thế giới trong tay, thúc đẩy sự 
tiến bộ, sản sinh sự tiến hóa”. 
Thứ bảy, ĐHNC phải có một hệ 
thống quản trị hữu hiệu, trong đó cần làm 
rõ vai trò của Hội đồng quản trị, Hiệu 
trưởng và tập thể giảng viên. Hội đồng 
quản trị có trách nhiệm quản trị chứ 
không phải là quản lí [5, tr.507]. Quyền 
hành của tập thể giảng viên trong ĐHNC 
là rất đáng kể và nếu sử dụng nó một 
cách hiệu quả thì hoạt động của trường 
ĐHNC càng hiệu quả hơn. Nhiệm vụ của 
Hiệu trưởng trường ĐHNC là (a) Xác 
định và phát biểu rõ ràng sứ mạng của 
trường ĐH, xây dựng những mục tiêu có 
ý nghĩa, (b) Tuyển dụng những người tài, 
xây dựng môi trường, thiết lập các nhóm 
nghiên cứu hiệu quả, tạo bầu không khí 
trong lành và cung cấp các tài nguyên để 
đạt được các mục tiêu đề ra. 
4.2. Những đặc điểm của đại học 
nghiên cứu 
Tuyên ngôn Hợp Phì đã nêu rõ 10 
đặc điểm của ĐHNC hiện đại: 
Tư liệu tham khảo Số 4(69) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
154 
i) Theo đuổi sự ưu tú trong tất cả mọi 
hoạt động của mình, tự điều chỉnh mình 
qua sự đánh giá vô tư, vô vụ lợi, độc lập, 
và có cơ sở thông tin của các tổ chức và 
cá nhân trong giới hàn lâm ngoài 
trường; cam kết duy trì một hệ thống 
dùng người minh bạch, chỉ căn cứ vào tài 
năng và phẩm chất trong việc lựa chọn 
giảng viên, sinh viên và nhân viên; tạo ra 
một môi trường nội bộ có thể nuôi dưỡng 
tinh thần học tập, sự sáng tạo và khám 
phá, và làm nảy nở, làm phát triển mọi 
tiềm năng của giảng viên, nhân viên, sinh 
viên và nghiên cứu sinh. 
ii) Có một kết quả nghiên cứu đáng kể, 
với chiều sâu và chiều rộng, tạo ra những 
kết quả nghiên cứu được quốc tế công 
nhận, và được phổ biến rộng rãi thông 
qua các ấn phẩm khoa học, qua giảng 
dạy và gắn bó với cộng đồng. 
iii) Có sự cam kết gắn bó với việc đào 
tạo những người làm nghề nghiên cứu, 
đặc biệt là thông qua các chương trình 
đào tạo tiến sĩ, là nơi sẽ đem lại dòng 
chảy liên tục không ngừng những người 
có năng lực cao và được kính trọng (theo 
đánh giá của các nhà nghiên cứu có 
cương vị quốc tế), những người có khả 
năng tạo ra bước tiến mới cho tri thức, 
cho sự hiểu biết, và đóng góp cho sự đổi 
mới quốc gia và quốc tế trên mọi lĩnh 
vực. 
iv) Có sự cam kết gắn bó với việc 
giảng dạy ở cả bậc ĐH và sau ĐH, nhằm 
tạo ra những người được giáo dục với 
nền tảng kiến thức rộng và có khả năng 
đóng góp cho sự giàu mạnh của quốc gia 
qua nhiều hoạt động phong phú. 
v) Tận tâm tận lực với những chuẩn 
mực cao nhất về sự chính trực trong hoạt 
động nghiên cứu và những nghĩa vụ đạo 
đức liên đới. Đó là điều bảo đảm cho sự 
trung thực trong khi thu thập dữ liệu, 
đánh giá và phân tích, khiến nó độc lập 
với bất cứ tính toán nào về nguồn tài trợ, 
về những lợi ích của cá nhân hay của tổ 
chức, và điều này được hỗ trợ bởi một 
quy trình rõ ràng và hiệu quả để đáp ứng 
với bất cứ luận điệu hay nhận thức nào 
về những cách xử sự hay những công 
trình nghiên cứu phi đạo đức. 
vi) Thực thi quyền tự do học thuật có 
trách nhiệm với giảng viên, để họ không 
bị kiềm chế một cách không đáng trong 
việc tạo ra và phổ biến tri thức thông qua 
nghiên cứu, giảng dạy và phục vụ; để họ 
làm việc trong một không gian văn hóa 
khoa học dựa trên con đường rộng mở 
trong tìm kiếm tri thức; để họ không 
ngừng kiểm nghiệm những hiểu biết đang 
có ở mức độ vượt ra xa hơn tính chất 
nghề nghiệp hay công cụ; để họ nhìn xa 
hơn những nhu cầu trước mắt, và tìm 
cách phát triển sự hiểu biết, kĩ năng và 
tri thức chuyên môn cần thiết cho tương 
lai và cho việc diễn giải về thế giới đang 
thay đổi của chúng ta. 
vii) Có thái độ khoan dung, công nhận 
và hoan nghênh những quan điểm, cách 
nhìn, khuôn khổ nhận thức và cương vị 
khác nhau, vì đó là điều cần thiết để hỗ 
trợ cho sự tiến bộ; cùng với nó là cam kết 
gắn bó với những tranh luận dân sự và 
những cuộc thảo luận nhằm nâng cao 
hiểu biết, tạo ra tri thức mới, công nghệ 
mới. 
viii) Có quyền tự xác định ưu tiên của 
nhà trường, trên nền tảng khoa học, về 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Chí Hải và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
155 
những gì cần làm và bằng cách nào thực 
hiện nghiên cứu và giảng dạy, dựa trên 
sứ mạng của nhà trường, dựa trên kế 
hoạch phát triển chiến lược và sự đánh 
giá của nhà trường về nhu cầu hiện tại và 
trong tương lai của xã hội; có quyền xác 
định sẽ tuyển dụng người nào và tuyển 
sinh như thế nào, trong đó có cả khả 
năng tuyển dụng trên phạm vi quốc tế 
nhằm thu hút những người tài giỏi nhất 
nhằm đạt được những ưu tiên ấy. 
ix) Cam kết hỗ trợ cộng đồng địa 
phương và quốc gia cũng như đóng góp 
cho sự thịnh vượng của thế giới bằng 
cách hành động và xây dựng một thứ văn 
hóa có thế phát huy tối đa những lợi ích 
trước mắt và lợi ích dài hạn của những 
hoạt động nghiên cứu và giảng dạy mà 
nó thực hiện. 
x) Có một cơ chế quản trị cởi mở và 
minh bạch có thể bảo vệ và hỗ trợ cho sự 
gắn bó liên tục với những đặc điểm đã 
làm nên và duy trì sự tồn tại những 
trường ĐHNC đẳng cấp quốc tế, và đồng 
thời, bảo đảm rằng nhà trường thực hiện 
được trách nhiệm của nó trước công 
chúng [6]. 
5. Những thách thức cho việc hình 
thành đại học nghiên cứu ở Việt Nam 
Hầu hết các tiêu chí nêu trên cũng 
là những thách thức cho việc hình thành 
ĐHNC ở Việt Nam. Tuy nhiên, những 
tiền đề cho việc hình thành ĐHNC ở Việt 
Nam không phải là không có, đáng kể 
nhất chính là sự cần cù hiếu học của 
người Việt Nam và đội ngũ các nhà khoa 
học tài năng, tâm huyết ở trong nước và 
nước ngoài, có nguyện vọng cống hiến 
cho Tổ quốc. Để xây dựng được ĐHNC ở 
Việt Nam, theo chúng tôi, cần có nhận 
thức và các giải pháp có tính đột phá. 
Thứ nhất, Chính phủ và lãnh đạo 
ngành giáo dục cần có quyết tâm chiến 
lược, đầu tư có trọng điểm và thỏa đáng 
cho việc xây dựng một số ĐHNC trọng 
điểm ở Việt Nam, trước hết đối với ĐH 
Quốc gia Hà Nội và ĐH Quốc gia Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
Thứ hai, cần đổi mới tư duy, cải 
cách triệt để giáo dục ĐH, trước hết là 
mô hình và cách thức quản trị ĐH, để các 
ĐH định hướng nghiên cứu có môi 
trường, điều kiện phát triển học thuật 
thuận lợi nhất. 
Thứ ba, trong điều kiện nguồn tài 
chính hạn chế của Chính phủ, bên cạnh 
sự đầu tư từ ngân sách, các ĐH định 
hướng nghiên cứu cần đa dạng hóa nguồn 
tài chính ở cả trong và ngoài nước. Điều 
không kém phần quan trọng là nguồn tài 
chính phải được nhà trường quản lí và 
đầu tư có chiều sâu, mang tính dài hạn và 
đem lại hiệu quả cao. 
Thứ tư, trên cơ sở được đầu tư về 
cơ sở vật chất, tài chính, môi trường học 
thuật thuận lợi, các ĐH định hướng 
nghiên cứu ở Việt Nam cần có cơ chế mở 
để thu hút các nhà khoa học, nhà sư phạm 
ưu tú trong và ngoài nước. 
Thứ năm, sự hình thành và phát 
triển của ĐHNC không có chỗ cho thái 
độ nguội lạnh, thiếu ý chí quyết tâm, 
song cũng không thể dung nạp tư duy chủ 
quan, nôn nóng, duy ý chí. ĐHNC sẽ 
hình thành và phát triển với một quyết 
tâm lớn, một chiến lược và lộ trình phù 
hợp, đó cũng là điều kiện để phát triển 
bền vững đối với các trường ĐH. 
Tư liệu tham khảo Số 4(69) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
156 
Thứ sáu, hình thành một số tạp chí 
độc lập nghiên cứu học thuật và không có 
sự kiển soát của các cơ quan ban ngành 
để việc tự do học thuật được phổ biến 
rộng rãi. 
Thứ bảy, các nhà khoa học cần 
được tôn trọng và trả thù lao xứng đáng. 
Cần có cơ chế tài chính đặc thù để thu 
hút các nhà khoa học nước ngoài. Cơ chế 
thanh toán tài chính cho các nghiên cứu 
cần sự minh bạch và đơn giản, nhất là cơ 
chế khoán đầu vào và quan trọng là sản 
phẩm đầu ra. 
6. Kết luận 
Để có thể tồn tại và phát triển một 
ĐHNC thì phải có sự đầu tư nghiêm túc, 
căn bản và hiệu quả từ cơ sở vật chất đến 
nguồn nhân lực chất lượng cao. Với xu 
thế hội nhập hiện nay và theo yêu cầu của 
thời đại, Việt Nam cũng rất cần có 
ĐHNC. Trong sứ mạng và tầm nhìn của 
nhiều trường ĐH tại Việt Nam đều nhấn 
mạnh đến nghiên cứu khoa học và vai trò 
của nó trong việc phát triển một trường 
ĐH đẳng cấp khu vực và quốc tế. Với 
tinh thần hiếu học, nghị lực sáng tạo và 
nguồn nhân lực trí thức hiện tại, chúng 
tôi hi vọng rằng Việt Nam sẽ xây dựng 
thành công những ĐHNC trong tương lai 
gần. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ngô Bảo Châu và cộng sự (2011), Đại học Humboldt 200 năm (1810 -2010): Kinh 
nghiệm thế giới và Việt Nam, Nxb Tri thức, Hà Nội. 
2. Phạm Ngọc Duy (2011), “Đại học nghiên cứu – cốt lõi của sáng tạo”, 
3. Kennedy Donald (2012), Nghĩa vụ học thuật, Nxb Tri thức, Hà Nội. 
4. Kerr Clark (2013), Các công dụng của đại học, Nxb Tri thức, Hà Nội. 
5. Rhodes Frank (2009), Tạo dựng tương lai, Nxb Văn hóa Sài Gòn. 
6. 
phi-ve-10-dac-diem-cua-Truong-Dai-hoc-Nghien-cuu-Hien-dai/language/vi-
VN/Default.aspx 
Ngày Tòa soạn nhận được bài: 30-12-2014; ngày phản biện đánh giá: 05-01-2015; 
ngày chấp nhận đăng: 10-4-2015) 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_diem_cua_dai_hoc_nghien_cuu_kinh_nghiem_quoc_te_c.pdf