Một số giải pháp giúp dệt may Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu

Tóm tắt

Ngành dệt may luôn là một trong những ngành đi đầu, có vai trò quan trọng trong chiến lược xuất khẩu

hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế giới. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao, ngành dệt may

đã có những đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa nói riêng và tăng trưởng kinh tế

nói chung ở Việt Nam. Những thành tựu này là nhờ doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm, gây dựng và

củng cố quan hệ bạn hàng với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới, đồng thời tận dụng hiệu quả nguồn

lao động dồi dào, khéo tay, có chi phí thấp. Triển vọng của ngành dệt may đang sáng dần, nhất là khi

nền kinh tế thế giới đang có dấu hiệu khởi sắc sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn

cầu. Tuy nhiên giá trị gia tăng của các sản phẩm dệt may nước ta còn thấp, nguyên nhân là do ngành dệt

may nước ta mới chỉ dừng công đoạn may gia công là chủ yếu chứ chưa tham gia sâu được vào chuỗi

giá trị toàn cầu. Bài viết góp phần làm rõ chuỗi giá trị dệt may toàn cầu đồng thời đánh giá việc tham

gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may nước ta, trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số giải pháp giúp

ngành dệt may nước ta tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu từ đó nâng cao được giá trị gia tăng

của ngành

pdf 12 trang yennguyen 2340
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp giúp dệt may Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp giúp dệt may Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu

Một số giải pháp giúp dệt may Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 27 (52) - Thaùng 4/2017 
68 
Một số giải pháp giúp dệt may Việt Nam 
tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu 
Some solutions to boost intense involvement of Vietnam’s Textile - Clothing 
industry into the global value-chain 
ThS. Nguyễn Văn Luân, Trường Đại học Luật Hà Nội 
Nguyen Van Luan, M.A., Hanoi Law University 
ThS. Lương Thị Thoa, Trường Đại học Luật Hà Nội 
Luong Thi Thoa, M.A., Hanoi Law University 
Tóm tắt 
Ngành dệt may luôn là một trong những ngành đi đầu, có vai trò quan trọng trong chiến lược xuất khẩu 
hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế giới. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao, ngành dệt may 
đã có những đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa nói riêng và tăng trưởng kinh tế 
nói chung ở Việt Nam. Những thành tựu này là nhờ doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm, gây dựng và 
củng cố quan hệ bạn hàng với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới, đồng thời tận dụng hiệu quả nguồn 
lao động dồi dào, khéo tay, có chi phí thấp. Triển vọng của ngành dệt may đang sáng dần, nhất là khi 
nền kinh tế thế giới đang có dấu hiệu khởi sắc sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn 
cầu. Tuy nhiên giá trị gia tăng của các sản phẩm dệt may nước ta còn thấp, nguyên nhân là do ngành dệt 
may nước ta mới chỉ dừng công đoạn may gia công là chủ yếu chứ chưa tham gia sâu được vào chuỗi 
giá trị toàn cầu. Bài viết góp phần làm rõ chuỗi giá trị dệt may toàn cầu đồng thời đánh giá việc tham 
gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may nước ta, trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số giải pháp giúp 
ngành dệt may nước ta tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu từ đó nâng cao được giá trị gia tăng 
của ngành. 
Từ khóa: dệt may, chuỗi giá trị. 
Abstract 
The textile and garment industry is one of the leading industries, playing an important role in the export 
strategy of Vietnam's goods to the world market. With a high export growth rate, the textile and garment 
industry has contributed significantly to the growth of merchandise exports in particular and economic 
growth in general in Vietnam. These achievements are due to the fact that the enterprise actively seeks, 
builds and strengthens its relations with many big importers in the world and at the same time makes 
full use of abundant, skillful and low cost labor resources. The outlook for the textile and garment 
industry is getting brighter, especially as the world economy is showing signs of recovery after the 
global financial crisis and economic recession. However, the added value of Vietnam's textile and 
garment products is low, due to the fact that our textile and garment industry has just stopped processing 
the garment, mainly but not deeply involved in the global value chain. This article contributes to the 
global apparel value chain and assesses the global value chain participation of our textile and garment 
industry, on which the author provides some solutions to help our textile and garment industry. Engage 
more deeply in the global value chain thereby enhancing the added value of the industry. 
Keywords: textile-clothing, value-chain. 
NGUYỄN VĂN LUÂN - LƯƠNG THỊ THOA 
69 
1. Đặt vấn đề 
Trong những năm qua ngành dệt may 
là ngành tiên phong trong chiến lược xuất 
khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị trường 
thế giới, thu về cho đất nước một lượng 
ngoại tệ khổng lồ. Khoảng 10 năm trở lại 
đây tốc độ tăng trưởng bình quân của 
ngành khoảng 30%/năm, trong đó lĩnh vực 
xuất khẩu tốc độ tăng trưởng bình quân 
24,8%/năm đưa Việt Nam trở thành một 
trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng 
xuất khẩu dệt may nhanh nhất thế giới.Tuy 
nhiên hiệu quả của việc tăng trưởng còn 
thấp, giá trị gia tăng của các sản phẩm dệt 
may chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng kim 
ngạch xuất khẩu của ngành, trong khi đó 
các chi phí đầu vào liên tục tăng trong thời 
gian qua cộng với việc các doanh nghiệp 
dệt may nước ta đang bị cạnh tranh quyết 
liệt khi một số quốc gia trong khu vực đã 
có hàng loạt thay đổi về chính sách hỗ trợ 
cho dệt may phát triển đã gây ảnh hưởng 
lớn đến khả năng cạnh trạnh của các sản 
phẩm dệt may Việt Nam. Bên cạnh đó việc 
đã và đang gia nhập một loạt hiệp định 
thương mai tự do - FTA thế hệ mới trong 
đó có Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình 
Dương TTP, Hiệp định FTA Việt Nam – 
EU (EVFTA) sẽ tạo ra những sức ép cạnh 
tranh không hề nhỏ cho các doanh nghiệp 
trong ngành. Do vậy để nâng cao giá trị gia 
tăng trong các sản phẩm và khả năng cạnh 
tranh khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu 
rộng với thế giới đòi hỏi ngành dệt may 
Việt Nam phải thâm nhập sâu hơn nữa vào 
chuỗi giá trị chứ không chỉ dừng lại ở khâu 
gia công - khâu có giá trị gia tăng thấp nhất 
trong chuỗi giá trị. 
2. Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu 
Theo Kaplinsky & Morri thì chuỗi 
giá trị bao gồm chuỗi giá trị giản đơn và 
chuỗi giá trị mở rộng. Chuỗi giá trị đơn 
giản bao gồm bốn hoạt động cơ bản trong 
một vòng đời sản phẩm là thiết kế và phát 
triển sản phẩm, sản xuất, marketing và cuối 
cùng là tiêu thụ và sử dụng. 
Nguồn: Hand book for vaule chain 
Các mối quan hệ trong một chuỗi giá trị đơn giản 
Thiết kế 
và phát 
triển sản 
phẩm 
Sản xuất: 
Đề cập đến quá trình 
chuyển đổi từ đầu vào 
thành đầu ra cuối cùng 
Marketing 
Tiêu thụ và 
tái sử dụng 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP DỆT MAY VIỆT NAM THAM GIA SÂU VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU 
70 
Chuỗi giá trị mở rộng đưa ra một mô 
hình phức tạp hơn mô hình giản đơn rất 
nhiều bởi vì nó tính đến cả liên kết thượng 
nguồn và liên kết hạ nguồn của doanh 
nghiệp, nghĩa là nó tính đến liên kết ngành 
dọc trong quá trình từ khi các yếu tố đầu 
vào vừa được tạo thành cho đến khi sản 
phẩm đến tay người tiêu dùng 
Do vậy có thể hiểu chuỗi giá trị toàn 
cầu là một chuỗi các hoạt động trong đó 
công nghệ được kết hợp với các nguồn 
nguyên liệu và lao động. Các nguồn đầu 
vào này được lắp ráp tạo thành sản phẩm 
sau đó được marketing và phân phối ra thị 
trường. Một doanh nghiệp đơn lẻ có thể 
chỉ là một mắt xích trong dây chuyền này, 
hoặc cũng có thể được hợp nhất trên phạm 
vi rộng. Cùng với quá trình toàn cầu hóa, 
rất ít doanh nghiệp có thể thống lĩnh toàn 
bộ chuỗi giá trị nhất là chuỗi giá trị mở 
rộng. Hiện nay các doanh nghiệp dựa vào 
thế mạnh của mình để tham gia vào chuỗi 
giá trị bằng cách chuyên môn hóa từng 
giai đoạn. 
Đối với ngành dệt may, chuỗi giá trị 
toàn cầu có đặc điểm do người mua chi phối: 
Nguồn: Gereffi và Memodovic, 2003 
Chuỗi cung ứng theo định hướng của người mua hàng dệt may 
Mạng lưới ti thị Mạng lưới xuất khẩu ạng lưới sản xuất Mạng lưới nguyên phụ liệu 
Mạng lưới ng n liệ th 
Các nhà máy 
may mặc 
(thiết kế, cắt, 
may, đơm nút, ủi 
Tất cả 
các nhà 
bán lẻ 
Các nhà bán lẻ 
Châu Á 
Các nhà sản xuất h ng ma mặ 
Bắc M 
Các công ty dệt 
Sợi 
tổng hợp 
Dệt 
len, 
dệt 
kim 
Hoá 
dầu 
Sợi 
(dệt 
đan, 
hoàn 
thiện 
Sợi 
tổng 
hợp 
Các nhà thầu phụ 
trong nước, 
 exico và v ng 
vịnh aribe 
Các nhà thầu 
phụ may mặc 
châu Á 
Các nhà thầu 
phụ nội địa và 
nước ngoài 
Các công ty 
may mặc có 
thương hiệu 
 ác văn 
phòng mua 
hàng hải 
ngoại 
Các công ty 
thương mại 
 ác đại lý 
Các cửa 
hàng 
chuyên 
môn 
Hệ thống 
đại lý tổng 
hợp 
Các chuỗi 
chiết khấu 
Bông, len, 
lụa v.v.. 
Dầu, khí, 
thiên 
nhiên 
Sợi 
thiên 
nhiên 
NGUYỄN VĂN LUÂN - LƯƠNG THỊ THOA 
71 
Theo cách tiếp cận này chuỗi giá trị 
toàn cầu của doanh nghiệp dệt may được 
chia thành 5 khâu cơ bản: 
- Khâu cung cấp sản phẩm thô:cung 
cấp các nguyên liệu tự nhiên như bông, 
len, tơ sợi, ... Khâu này thường là lợi thế 
của các nước có điều kiện tự nhiên thích 
hợp với sự phát triển của cây bông, đay 
và những ngành trồng dâu nuôi tằm 
- Khâu sản xuất sản phẩm đầu vào: 
đây là khâu cung cấp các sản phẩm đầu vào 
cho quá trình tạo ra các sản phẩm dệt may. 
Các sản phẩm này bao gồm: nguyên phụ 
liệu, máy móc chuyên dụng, công nghệ, 
- Khâu nghiên cứu và phát triển sản 
phẩm: đây là khâu nghiên cứu thị hiếu 
của khách hàng, xu hướng thời trang của 
người tiêu dùng trong từng thời kỳ để từ 
đó tạo ra hình dáng cho sản phẩm 
- Khâu sản xuất sản phẩm: đây là 
khâu hoàn tất sản phẩm và do các công ty 
may đảm nhiệm. Công việc chủ yếu của 
khâu bao gồm cắt may và hoàn thiện sản 
phẩm do vậy rào cản gia nhập khâu này 
rất thấp 
- Khâu marketing và phân phối: đây 
là khâu tìm kiếm thị trường, quảng bá sản 
phẩm đến với khách hàng. Khâu này giúp 
doanh nghiệp xây dựng được các thương 
hiệu, định vị hình ảnh của doanh nghiệp 
trong tâm trí người tiêu d ng và đưa sản 
phẩm tới tay người tiêu dùng 
Ứng dụng lý thuyết đường cong nụ 
cười, các nhà nghiên cứu đã biểu diễn 
chuỗi giá trị dệt may thế giới hiện nay 
gồm 5 khâu chính: 
Đồ thị biể diễn giá trị gia tăng ủa h ỗi giá trị dệt ma 
Nguồn: Nguyễn Thị Hường (2009), Tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu 
Giá trị gia tăng 
đóng góp vào 
sản phẩm 
Nguyên 
liệu thô 
Nguyên phụ 
liệu 
May uất 
khẩu 
Marketing & 
phân phối S 
 huổi giá trị 
M T SỐ GIẢI PHÁP GIÚP D T MAY VI T NAM THAM GIA SÂU VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU 
72 
3. Thực trạng tham gia vào chuỗi 
giá trị toàn cầu của dệt may Việt Nam 
Hiện ngành dệt may Việt Nam là một 
trong những ngành kinh tế lớn nhất với hơn 
6000 doanh nghiệp chủ yếu là doanh 
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI với 
trên khoảng 2,5 triệu lạo động1. Cùng với 
điện thoại và linh kiện, dệt may là ngành 
xuất khẩu chủ lực của nước ta trong những 
năm qua. Năm 2016 sản phẩm dệt may của 
Việt Nam đã xuất khẩu đến hơn 180 quốc 
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với kim 
ngạch xuất khẩu đạt 28,05 tỷ đô la chiếm 
15,9% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. 
Nguồn: Tổng cục thống kê 
Tuy nhiên giá trị gia tăng trong các sản 
phẩm dệt may của chúng ta còn thấp nguyên 
nhân là do việc tham gia vào chuỗi giá trị 
của các doanh nghiệp dệt may nước ta chủ 
yếu mới chỉ dừng lại ở khâu sản xuất - khâu 
có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi. 
 Khâu cung cấp sản phẩm thô: 
Ngành trồng bông và kéo sợi là những 
ngành quan trọng nhất trong khâu cung cấp 
sản phẩm thô và giữ vai trò quyết định đến 
khâu sản xuất các sản phẩm đầu vào cho 
ngành. Thứ nh t về ngành trồng bông, hiện 
nay diện tích gieo trồng bông của nước ta 
khoảng 2,7 nghìn héc ta với sản lượng 
bông khoảng 1,36 nghìn tấn chỉ đáp ứng 
được khoảng 2% nhu cầu sản xuất của toàn 
ngành. Nguyên nhân là do Việt Nam không 
có lợi thế cạnh tranh tự nhiên và không chú 
trọng việc trồng bông và sản xuất sơ sợi 
dẫn đến năng suất bông thấp không thể 
cạnh tranh về giá cả với các nước có điều 
kiện tự nhiên thuận lợi. 
NGUYỄN VĂN LUÂN - LƯƠNG THỊ THOA 
73 
Sản lượng b ng Việt Nam (từ ni n vụ 2013/2014 đ n ni n vụ 2014/2015) 
 2013/2014 2014/2015 
% tha đổi 
ni n vụ 2014/2015 so 
với ni n vụ 2013/2014 
Diện tích gieo trồng (nghìn héc ta 2,5 2,7 8% 
Năng suất (tấn/héc ta) 1,39 1,38 -0,3% 
Sản lượng hạt bông (nghìn tấn 3,47 3,74 7,7% 
Tốc độ tăng trưởng (% 36,5 36,5 
Sản lượng bông sợi (nghìn tấn 1,27 1,36 7,7% 
Sản lượng (nghìn kiện, 218kg/kiện 5,82 6,25 7,7% 
Nguồ : ộ Nô g g iệp v P riể ô g ô , ổ g ụ ố g kê Việ Nam v guồ k 
 ứ ai về g kéo sợi, trong 
khoảng 15 năm trở lại đây Việt Nam là một 
trong rất ít các nước đã mở rộng hoạt động 
sản xuất ngành kéo sợi, với chỉ 2 triệu cọc 
kéo sợi năm 2000 đã tăng lên khoảng 6,1 
triệu cọc năm 2014. Năm 2012 cả nước có 
khoảng 100 nhà máy kéo sợi với công suất 
khoảng 5,1 triệu cọc sợi, tuy nhiên đa phần 
lại không đảm bảo chất lượng nên chủ yếu 
d ng để xuất khẩu hoặc d ng để sản xuất 
các sản phẩm phụ còn ngành dệt may vẫn 
phải chủ yếu phụ thuộc vào nguồn liệu 
nhập khẩu để sản xuất. 
Tổng q an ng nh dệt ma / ng nh kéo sợi ủa Việt Nam 
2012 2013 2014 
Số lượng cọc sợi 5.100.000 6.000.000 6.100.000 
Số lượng rotor 103.348 103.348 103.348 
Sản xuất sợi từ bông và 
polyester/tơ nhân tạo (đ/v: tấn 
680 720 828 
Sợi xuất khẩu (đ/v: tấn 628 720 858 
Sợi nhập khẩu (đ/v: tấn 646 695 740 
Sản lượng vải (tỷ m2) 1,0 1,3 - 
Lượng vải nhập khẩu (tỷ m2) 6,0 6,0 - 
Nguồ : Hiệp ội sợi Việ Nam (VCOSA) 
 Khâu sản xuất sản phẩm đầu 
vào: Là khâu thứ hai trong chuỗi bao gồm 
các công đoạn: sản xuất vải, dệt nhuộm, 
sản xuất nguyên phụ liệu và cung cấp máy 
móc phục vụ cho khâu sản xuất. 
Thứ nh t về ngành s n xu t v i: năm 
M T SỐ GIẢI PHÁP GIÚP D T MAY VI T NAM THAM GIA SÂU VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU 
74 
2015 ngành may Việt Nam tiêu thụ 8,7 tỉ 
mét vuông vải, thì chỉ có 3 tỉ mét vuông vải 
được sản xuất tại Việt Nam2, tương ứng 
sản xuất chỉ đáp ứng được khoảng gần 
35% nhu cầu tiêu thụ của ngành may mặc. 
Chính vì vậy, số lượng và kim ngạch nhập 
khẩu vải của Việt Nam liên tục tăng nhanh 
trong thời gian qua. Nhập khẩu vải bao 
gồm cả vải thô, vải nhuộm – vải sau công 
đoạn nhuộm, trong đó, vải màu là chủ yếu. 
Nguồn: Tổng cục Thống kê 
Kim ngạ h nhậ khẩ vải ủa Việt Nam (đơn vị: triệ USD) 
Thứ hai về ngành dệt nhuộm: các công 
ty dệt và nhuộm trong nước chỉ đáp ứng 
được 11,8% tổng số vải nhuộm, còn lại 6 
tỷ mét vải nhuộm phải nhập khẩu. Trong 
đó, 50% vải nhuộm được nhập khẩu từ 
Trung Quốc, phần còn lại từ các quốc gia 
Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, 
Ấn Độ, Thực tế hiện nay dệt may Việt 
Nam lại không có nhiều nhà máy nhuộm 
đáp ứng được những tiêu chuẩn cần thiết, 
năng lực sản xuất lại quá nhỏ nên không 
thế đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sản 
xuất trong nước. Thêm vào đó, đặc thù 
ngành may Việt Nam là gia công xuất 
khẩu, việc chọn nguyên liệu may phải theo 
sự chỉ định của khách hàng, theo những 
tiêu chuẩn mà đối tác đặt ra và thông 
thường đối tác chỉ định nguồn nhập khẩu 
nguyên liệu may hàng. Do đó, phân khúc 
dệt/nhuộm của doanh nghiệp trong nước 
cũng khó có thể chen chân được để cung 
cấp các sản phẩm vải nhuộm cho hàng may 
xuất khẩu. 
Thứ ba về ngành s n xu t nguyên phụ 
liệu: Hiện nay, khả năng đáp ứng nhu cầu 
phụ liệu may của các cơ sở trong nước còn 
rất hạn chế. Hiện đã có các cơ sở sản xuất 
một số chủng loại phụ liệu chính cho 
ngành dệt may như: chỉ may, bông tấm, 
mếch dính, cúc nhựa, khóa kéo, băng chun, 
NGUYỄN VĂN LUÂN - LƯƠNG THỊ THOA 
75 
nhãn mác, bao bì đáp ứng được một phần 
nhu cầu của thị trường nội địa. Tuy nhiên, 
còn nhiều loại sản phẩm trong nước vẫn 
chưa có khả năng sản xuất như: các loại 
băng dệt, băng gai Chính vì vậy nhu cầu 
nhập khẩu phụ liệu may vẫn liên tục tăng 
trong thời gian qua. 
Thứ ư về cung c p máy móc thiết bị 
phục vụ s n xu t: Theo Bộ ông thương, 
hiện hầu hết các dây chuyền và thiết bị sản 
xuất của ngành dệt may, da giày hiện nay 
của Việt Nam đều phải nhập khẩu. Hầu như 
chưa có các doanh nghiệp trong nước sản 
xuất các máy móc chuyên phục vụ sản xuất 
các ngành này. Theo đánh giá của các doanh 
nghiệp trong ngành hiện máy móc ngành dệt 
may từ Trung Quốc chiếm đến 50% thị 
trường. Đối tác cung cấp hàng từ Trung 
Quốc còn sẵn sàng làm theo đơn đặt hàng ở 
mọi mức giá cho doanh nghiệp Việt Nam. 
 Khâu nghiên cứu và phát triển 
sản phẩm: Trong chuỗi giá giá dệt may 
toàn cầu, công đoạn nghiên cứu và thiết kế 
sản phẩm đem lại giá trị gia tăng cao nhất. 
Đa phần công đoạn thiết kế cho các sản 
phẩm dệt may của nước ta được thực hiện 
tại những nước có ngành công. nghiệp thời 
trang phát triển như háp, Anh, . hỉ 
có một số ít doanh nghiệp lớn như công ty 
may Việt Tiến, công ty may Thăng Long 
bắt đầu mới tham gia vào công đoạn này 
nhưng mức độ tham gia còn rất hạn chế 
chủ yếu phục vụ thị trường trong nước. 
Nguyên nhân là do vai trò thiết kế trong 
ngành chưa thực sự được coi trong, khoảng 
cách giữa ngành thời trang nước ta với thế 
giới còn quá lớn. Bên cạnh đó việc xây 
dựng thương hiệu riêng của các doanh 
nghiệp cũng chưa thực sự được coi trọng, 
hiện nay chỉ có một số doanh nghiệp lớn 
trong ngành mới bắt đầu quan tâm tới việc 
xây dựng các thương hiệu dệt may riêng 
cho mình như may hương Đông, may 
Việt Tiến, 
 Khâu sản xuất: Khâu sản xuất sản 
phẩm có giá trị gia tăng thấp nhất chỉ 
chiếm từ 5-10% tỷ suất lợi nhuận3. Hiện 
nay mới chỉ có khoảng 30% giá trị xuất 
khẩu của dệt may Việt Nam là dưới dạng 
FOB có nghĩa là có sự tham gia vào khâu 
nghiên cứu và thiết kế sản phẩm còn lại là 
tham gia dưới hình thức gia công cho nước 
ngoàiĐối với công đoạn may, hiện có 
khoảng 90% doanh nghiệp dệt may Việt 
Nam sản xuất dưới hình thức gia công. 
Theo phương thức này các doanh nghiệp sẽ 
nhận đơn hàng từ các trung gian nước 
ngoài và thực hiện các hợp đồng gia công 
theo mẫu. Tùy theo yêu cầu của các trung 
gian mà các doanh nghiệp trong nước có 
thể tự tìm nguyên phụ liệu hoặc các trung 
gian sẽ cung cấp nguyên phụ liệu chủ yếu. 
Chính vì vậy dẫn đến sự liên kết giữa các 
doanh nghiệp may với doanh nghiệp cung 
cấp nguyên phụ liệu, sản phẩm phụ trờ còn 
yếu, các doanh nghiệp không thể tự xây 
dựng được thương hiệu cho riêng mình. 
Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này vẫn 
là do nguồn cung cấp nguyên phụ liệu 
trong nước còn yếu, chất lượng thấp không 
đáp ứng được các tiêu chuẩn để phục vụ 
xuất khẩu. 
 Khâu marketing và phân phối: 
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp 
dệt may Việt Nam hiện phụ thuộc vào các 
nhà buôn nước ngoài. ác nhà buôn đóng 
vai trò rất quan trọng là trung gian trong 
chuỗi cung ứng hàng dệt may của Việt 
Nam ra thế giới. Các nhà buôn trong khu 
vực thường từ Hồng Kông, Đài Loan và 
Hàn Quốc. Những doanh nghiệp bán lẻ, đa 
số thuộc thị trường EU, Nhật và Hoa Kỳ, 
sở hữu những thương hiệu hàng đầu quốc 
tế, những siêu thị, cửa hàng bán sỉ và bán 
M T SỐ GIẢI PHÁP GIÚP D T MAY VI T NAM THAM GIA SÂU VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU 
76 
lẻ. Các doanh nghiệp bán lẻ lớn tin cậy vào 
các nhà buôn để phát triển mạng lưới cung 
ứng của họ ở Việt Nam nhằm giảm chi phí 
giao dịch. Các doanh nghiệp đầu tư may 
mặc nước ngoài thường liên hệ trực tiếp 
với các nhà buôn tại Hồng Kông, Đài Loan 
hay Hàn Quốc. Do vậy, các doanh nghiệp 
Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào các nhà 
buôn nhỏ trong khu vực. Nói cách khác, 
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn 
rất thiếu liên kết với những người tiêu dùng 
sản phẩm cuối cùng mà chỉ thực hiện các 
hợp đồng gia công lại cho các nhà sản xuất 
khu vực. 
Ở thị trường trong nước, một số doanh 
nghiệp trong ngành đã bắt đầu có các hoạt 
động marketing và tổ chức phân phối các 
sản phẩm tới tay người tiêu d ng trong đó 
có thể kể đến hệ thống phân phối của 
Vinatexmart với hơn 4000 điểm bán hàng 
trên khắp cả nước. Tuy nhiên các hoạt 
động này mới chỉ dừng lại ở các doanh 
nghiệp lớn với phạm vi hạn chế còn lại đa 
phần các doanh nghiệp trong ngành vẫn chỉ 
tập trung ở khẩu may gia công. 
Như vậy qua việc phân tích thực trạng 
việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của 
ngành chúng ta có thể thấy sau nhiều năm 
tham gia chuỗi giá trị của ngành với kim 
ngạch xuất khẩu xuất khẩu cao nhưng 
ngành dệt may Việt Nam vẫn chỉ tập trung 
ở khâu sản xuất may gia công – khâu có 
giá trị giá tăng thấp nhất trong chuỗi. Muốn 
nâng cao được giá trị gia tăng trong các sản 
phẩm buộc ngành dệt may Việt Nam phải 
có những giải pháp nhằm nâng cao năng 
lực cạnh tranh, thâm nhập sâu hơn vào 
chuỗi giá trị toàn cầu của ngành 
3. Một số giải pháp 
 Phát triển công nghiệp phụ trợ 
dệt may trong nước 
Thứ nhất, Nhà nước cần có chính sách 
nhằm khuyến khích thu hút đầu tư nước 
ngoài vào công nghiệp phụ trợ ngành dệt 
may. Việt Nam nên học tập từ các nước 
ASEAN đi trước đã thực hiện thu hút đầu 
tư nước ngoài có lựa chọn để hướng FDI 
vào công nghiệp phụ trợ. Họ thực hiện 
nhiều biện pháp khuyến khích về thuế, 
thiết lập các khu thương mại tự do nhằm 
thực hiện chiến lược định hướng xuất khẩu. 
Thứ hai, Nhà nước cần có chính sách 
liên kết giữa các doanh nghiệp dệt may với 
nhau và với những doanh nghiệp trong 
cùng lĩnh vực như thiết kế, kéo sợi, sản 
xuất vải và phụ liệu, sản xuất phụ kiện thời 
trang muốn làm được điều này thì Nhà 
nước cần có quy hoạch xây dựng các trung 
tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại Hà Nội, 
thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố 
lớn để kịp thời cung ứng nguyên phụ liệu 
cho các doanh nghiệp trong ngành 
Thứ ba, nâng cao năng lực tài chính và 
trình độ người lao động cho các doanh 
nghiệp dệt may. Ngành công nghiệp phụ trợ 
thường có yêu cầu cao về trình độ của 
người lao động và năng lực tài chính rất cao 
đối với các doanh nghiệp muốn gia nhập. 
Do vậy giải pháp trước mắt Nhà nước cần 
có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp lớn 
trong ngành về mặt tài chính và đào tạo 
nguồn nhân lực để những doanh nghiệp này 
đi tiên phong vào ngành sản xuất công 
nghiệp phụ trợ nhằm thay đổi vị thế của dệt 
may Việt Nam trong chuỗi giá trị 
 Xây dựng thương hiệu cho hàng 
dệt may Việt Nam v thương hiệu của 
chính doanh nghiệp 
Để cải thiện vị trí của mình trong 
chuỗi giá trị toàn cầu các doanh nghiệp cần 
phải chú trọng xây dựng thương hiệu vì đó 
là yếu tố then chốt trong xu hướng thời 
trang hóa. Hiện nay các cửa hàng thời trang 
Việt Nam chưa chú ý đến việc trưng bày 
NGUYỄN VĂN LUÂN - LƯƠNG THỊ THOA 
77 
sản phẩm để tăng tính hấp dẫn và thu hút 
khách hàng. Nhiều mặt hàng người Việt 
Nam ưa chuộng được sản xuất tại Việt 
Nam nhưng lại mang nhãn mác nước 
ngoài. Về cơ bản các doanh nghiệp Việt 
Nam đủ khả năng để đưa các hàng hóa của 
mình ra thị trường khó tính nước ngoài 
nhưng họ vấp phải khó khăn lớn nhất là 
hàng hóa của các doanh nghiệp dệt may 
Việt Nam chưa xây dựng được thương 
hiêu, chưa chiếm được vị trí trong tâm trí 
người tiêu dùng. 
Do vậy việc xây dựng thương hiệu của 
các doanh nghiệp để các thương hiệu đó ăn 
sâu vào tâm trí người tiêu d ng là hướng 
đầu tư chiến lược của các doanh nghiệp dệt 
may Việt Nam đặc biệt là các doanh 
nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên việc xây dựng 
thương hiệu đòi hỏi các doanh nghiệp phải 
nỗ lực trên nhiều phương diện trong thời 
gian lâu dài, nhưng nếu đạt được thành 
công thì lơi ích các doanh nghiệp thu được 
sau này sẽ vô cùng lớn. Mỗi doanh nghiệp 
cần phải thiết kế các mặt hàng của mình 
phù hợp với các mẫu mốt và thị hiếu của 
từng thị trường, cần phải xây dưng được 
các phong cách riêng, nhãn hiệu riêng, 
Việc này cần tiến hành đồng thời với việc 
coi trọng công tác xây dựng thương hiệu, 
đăng kí nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. 
Trên thị trường hiện nay, các đối thủ 
cạnh tranh trong cùng ngành ở các nước 
khác như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn 
Quốc, Đang rao riết tăng cường nguồn 
lực cho việc xây dựng thương hiệu thông 
qua các hoạt động như thời trang hóa dệt 
may. Một số doanh nghiệp còn chủ động 
xây dựng thương hiệu trước khi đi tìm 
kiếm thị trường. Chẳng hạn như các ngành 
thời trang Thái Lan thì dệt may không chỉ 
làm công ăn lương mà còn phải hướng tới 
thời trang hóa, hay như Trung Quốc họ 
cũng đã hoạch định được chiến lược với 
trọng tâm là sản xuất những sản phẩm thời 
trang cao cấp nhằm tạo dựng hình ảnh mới 
so với hình ảnh cũ chỉ là một nhà gia công 
của thế giới. 
 Xây dựng hệ thống phân phối với 
trọng tâm là thị trường trong nước và 
hướng ra thị trường th giới 
Thứ nhất: các doanh nghiệp cần chú 
trọng phát triển trong nước: để xây dựng vị 
thế của sản phẩm may mặc Việt Nam trong 
tâm trí người tiêu dùng toàn cầu thì nhiệm 
vụ trước mắt đối với các doanh nghiệp dệt 
may Việt Nam là tạo ra hình ảnh sản phẩm 
trong chính con mắt người tiêu dùng trong 
nước. Với quy mô thị trường gân 90 triệu 
dân, các doanh nghiệp cần biến thị trường 
nội địa thành nơi thử nghiệm những ý 
tưởng chinh phục thị trường của mình đồng 
thời là điểm tựa để hướng ra thị trường 
quốc tế. Phát triển thị trường nội địa một 
mặt giúp các doanh nghiệp tận dụng được 
các lợi thế sẵn có của mình, mặt khác tạo 
ra một nguồn thu nhập ổn định cho doanh 
nghiệp nhờ khai thác được thị trường mà 
được các chuyên gia đánh giá là tương đối 
dễ tinh 
Thứ hai, các doanh nghiệp cần Tăng 
cường hoạt động xúc tiến thương mại 
nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu. Muốn 
làm được điều này các doanh nghiệp trong 
ngành cần phối hợp tốt với các sở, ban 
ngành và các đơn vị có liên quan để hình 
thành một hệ thống xúc tiến thương mại 
đối với các thị trường trọng điểm như EU, 
Nhật Bản, M  tìm kiếm thăm dò thị 
trường mới như hâu hi, Trung Đông 
từ đó hình thành các đại diện thương mại. 
 ác đại diện thương mại bên cạnh việc 
nghiên cứu thị trường còn có nhiệm vụ 
giúp cho các doanh nghiệp trong nước tìm 
hiểu, tiếp cận các đối tác, nâng cao hiệu 
M T SỐ GIẢI PHÁP GIÚP D T MAY VI T NAM THAM GIA SÂU VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU 
78 
quả của việc tham gia quảng cáo tại các hội 
chợ, triển lãm, mặt khác còn cung cấp 
những thông tin kịp thời về những biến 
động của thị trường và các đối tác trong 
quá trình kinh doanh. Bên cạnh đó chính 
phủ cũng cần có các chính sách và biện 
pháp để cải cách các thủ tục hành chính 
trong lĩnh vực thuế, hải quan, xuất nhập 
khẩu theo hướng đơn giản hoá các thủ tục, 
và tăng cường công tác tư vấn pháp luật 
thương mại quốc tế cho doanh nghiệp xuất 
khẩu để hỗ trợ hơn nữa cho các doanh 
nghiệp dệt may xuất khẩu 
 Phát triển ngành thiết kế, thời trang 
 ột trong những cách tốt nhất để nâng 
cao giá trị gia tăng trong các sản phẩm dệt 
may là tự thiết kế sản phẩm, xây dựng 
thương hiệu, tổ chức bán hàng và các dịch 
vụ thời trang từ đó phát triển ngành dệt 
may thành ngành công nghiệp thời trang 
đúng nghĩa. Đây là con đường mà các quốc 
gia có ngành dệt may phát triển đã lựa 
chọn. Để cho ngành thiết kế, thời trang 
phát triển Nhà nước hỗ trợ đào tạo ban đầu 
cho các chuyên viên thiết kế trong nước, 
đặc biệt là mời các chuyên gia có tiếng trên 
thế giới để các nhà thiết kế Việt Nam có 
điều kiện tiếp xúc trực tiếp với yêu cầu của 
thị trường quốc tế và làm những sản phẩm 
được thiết kế ra có khả năng chào bán hơn 
là chỉ nặng về trình diễn như hầu hết các 
sản phẩm được thiết kế hiện nay.Bên cạnh 
đóNhà nước cần hỗ trợ cho các trung tâm 
lớn, trước hết là Hà Nội và Thành phố Hồ 
 hí inh xây dựng địa điểm thường xuyên 
tổ chức trình diễn thời trang từ đó phát 
triển địa điểm này nơi hội tụ các nhà thiết 
kế, các nhà kinh doanh, các nhà phê bình 
nghệ thuật và công chúng yêu thời trang. 
Đây sẽ là một điểm để trao đổi, phát triển 
k năng, kiến thức cũng như tạo nên một 
môi trường giao dịch thuận lợi cho ngành 
công nghiệp thời trang của cả nước 
 Sự hỗ trợ ủa Nh nướ ho á 
doanh nghiệ 
Doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang 
phải đối mặt với áp lực cạnh tranh tại các 
thị trường xuất khẩu, trong khi chi phí lao 
động không ngừng tăng cao và nhiều bất 
cập từ chính sách cũng gây ra không ít khó 
khăn cho các doanh nghiệp trong ngành. 
Thứ nhất là lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ 
công từ hính phủ. Việc thiếu cơ sở hạ 
tầng như đường giao thông, bến cảng và 
điện, đang làm cho việc phát triển các liên 
kết hạ nguồn trở nên tốn kém kém hơn và 
dẫn đến rất khó nâng cấp công nghiệp dệt 
may. Giải quyết được vấn đề này này sẽ 
không chỉ có lợi cho ngành dệt may mà 
còn giúp được nhiều ngành công nghiệp 
khác của Việt Nam. Khi chi phí trở nên rẻ 
hơn, các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào k 
năng, công nghệ và k thuật đễ nâng cấp 
các ngành thượng nguồn lẫn hạ nguồn. 
Thứ hai là để thúc đẩy phát triển cần 
tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước và cải 
cách quản trị doanh nghiệp. ác nhà quản 
lý doanh nghiệp nhà nước Việt Nam thiếu 
các sáng kiến thương mại và chỉ tận dụng 
được những ưu đãi về đất đai và vốn từ 
chính phủ. Việc tìm kiếm ưu đãi này cần 
phải được thay thế và hính phủ cần phải 
khuyến khích nhiều hơn đến hoạt động 
kinh doanh có hiệu quả. 
Thứ ba, Nhà nước Hỗ trợ một phần 
kinh phí từ ngân sách cho hoạt động 
nghiên cứu, đào tạo và vốn đầu tư cơ sở vật 
chất, k thuật nhằm nâng cao năng lực cho 
các Viện nghiên cứu và các cơ sở đào tạo 
cho ngành Dệt ay, đồng thời dành vốn 
tín dụng của nhà nước, vốn ODA và vốn 
của qu môi trường cho các dự án đầu tư 
xử lý môi trường của các doanh nghiệp 
trong ngành dệt may. 
NGUYỄN VĂN LUÂN - LƯƠNG THỊ THOA 
79 
Chú thích: 
1
huong-loi-nhieu-nhat-tu-tpp.html 
2
truong/chi-nhap-khau-vai-cua-nganh-det-may-
da-len-toi-muc-gan-11-ty-usd-140349.html 
3
 Đỗ Thị Đông, phân tích chuỗi giá trị và tổ chức 
quan hệ liên kết của các doanh nghiệp may xuất 
khẩu 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT, Báo cáo 
ngành Dệt may, tháng 4/2014. 
2. Công ty Cổ phần Chứng khoán Vietinbank, 
Báo cáo ngành Dệt may Việt Nam, Tháng 
4/2014. 
3. Đỗ Thị Đông (2010 , Phân tích chuỗi giá trị 
và tổ chức quan hệ liên kết của các doanh 
nghiệp may xu t khẩu Việt Nam, Hà Nội. 
4. Hiệp hội dệt may Việt Nam (Vitas). 
5. Hiệp hội sợi Việt Nam (V OSA . 
6. Nguyễn Thị Loan (2008), Đẩy mạnh việc 
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu nhằm nâng 
 ao ă g ực cạnh tranh các doanh nghiệp 
dệt may Việt Nam, Báo cáo đề tài nghiên cứu 
khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 
7. Micheal E. Porter (2008), Lợi thế cạnh tranh 
quốc gia, Bản dịch tiếng Việt, Nhà xuất bản 
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
8. Raphael Kapplinsky and Mike Morris (2001), 
A hand book for vaule chain research, 
globalization network. 
9. Qu Mispa, Phân tích VC Lý thuyết và kinh 
nghiệm từ nghiên cứu ngành chè Việt Nam, 
Slide10. 
10.  
11.  
12. 
truong/chi-nhap-khau-vai-cua-nganh-det-
may-da-len-toi-muc-gan-11-ty-usd-
140349.html. 
13. 
may-huong-loi-nhieu-nhat-tu-tpp.html. 
Ngày nhận bài: 14/3/2017 Biên tập xong: 15/4/2017 Duyệt đăng: 20/4/2017 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_giai_phap_giup_det_may_viet_nam_tham_gia_sau_vao_chuo.pdf