Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy kỹ năng viết cho học viên và sinh viên năm thứ ba khoa Tiếng Anh, Học viện Khoa học Quân sự
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, việc nâng cao
chất lượng dạy và học tiếng Anh nói chung,
kỹ năng viết nói riêng tại Học viện Khoa
Học Quân sự luôn được coi trọng hàng đầu.
Vì vậy, nghiên cứu này tập trung vào tìm ra
những giải pháp nâng cao chất lượng dạy và
học kỹ năng viết cho học viên và sinh viên
năm thứ ba, Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa
học Quân sự. Nghiên cứu này đã tìm ra ba
nhóm giải pháp chính: nhóm giải pháp từ
phía người dạy, từ phía người học và các nhà
quản lý giáo dục. Những nhóm giải pháp
này đã được nghiên cứu dựa trên cơ sở của
câu hỏi điều tra, phỏng vấn và đã được kiểm
chứng bằng thực nghiệm. Hy vọng rằng
những nhóm giải pháp này sẽ mở ra một
hướng mới trong việc nâng cao chất lượng
dạy kỹ năng viết cho học viên, sinh viên năm
thứ ba, Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa học
Quân sự
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy kỹ năng viết cho học viên và sinh viên năm thứ ba khoa Tiếng Anh, Học viện Khoa học Quân sự
89KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Việc đổi mới phương pháp dạy và học ngoại ngữ ngày càng được coi trọng. Lối truyền đạt một chiều khi mà giáo viên đóng vai trò trung tâm trong giờ học, đang nhường chỗ cho phương pháp lấy người học làm trung tâm để phát huy tính chủ động, học tập và sáng tạo cũng như khả năng tự học của người học. Trên thực tế, ở Học viện Khoa học Quân sự, hầu hết việc giảng dạy các kỹ năng ngoại ngữ nói chung, kỹ năng viết nói riêng cho đối tượng học viên, sinh viên năm thứ 3, Khoa tiếng Anh ngày càng được coi trọng và kiện toàn. Tuy nhiên, chất lượng dạy và học môn này vẫn chưa đạt được như mong muốn. Qua kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ học viên, sinh viên thi lại và học lại kỹ năng này rất cao. Tương tự, đối tượng này gặp rất nhiều khó khăn trong việc học môn học này. Vì vậy, sau khi tiến hành nghiên cứu thông qua điều tra, phỏng vấn và giảng dạy thực nghiệm, nhóm nghiên cứu đã tìm ra ba nhóm giải pháp: người dạy, người học và nhà quản lý giáo dục nhằm nâng cao chất lượng của việc dạy và học kỹ năng viết cho đối tượng học viên, sinh MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY KỸ NĂNG VIẾT CHO HỌC VIÊN VÀ SINH VIÊN NĂM THỨ BA KHOA TIẾNG ANH, HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ PHAN CHÍ CÔNG Học viện Khoa học Quân sự TÓM TẮT Trong những năm gần đây, việc nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh nói chung, kỹ năng viết nói riêng tại Học viện Khoa Học Quân sự luôn được coi trọng hàng đầu. Vì vậy, nghiên cứu này tập trung vào tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học kỹ năng viết cho học viên và sinh viên năm thứ ba, Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa học Quân sự. Nghiên cứu này đã tìm ra ba nhóm giải pháp chính: nhóm giải pháp từ phía người dạy, từ phía người học và các nhà quản lý giáo dục. Những nhóm giải pháp này đã được nghiên cứu dựa trên cơ sở của câu hỏi điều tra, phỏng vấn và đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Hy vọng rằng những nhóm giải pháp này sẽ mở ra một hướng mới trong việc nâng cao chất lượng dạy kỹ năng viết cho học viên, sinh viên năm thứ ba, Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa học Quân sự. Từ khóa: giải pháp, kỹ năng viết, sửa lỗi, phương pháp giảng dạy 90 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI viên năm thứ ba, Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa học Quân sự. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi chỉ đưa ra sáu giải pháp chính của nhóm giải pháp từ phía người dạy. 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NGƯỜI DẠY NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC KỸ NĂNG VIẾT CHO HỌC VIÊN VÀ SINH VIÊN NĂM THỨ BA, KHOA TIẾNG ANH,HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ Để nâng cao chất lượng dạy và học kỹ năng viết cho học viên và sinh viên năm thứ ba khoa tiếng Anh, Học viện Khoa học Quân sự, cần thực hiện đồng bộ những giải pháp sau: 2.1. Nắm vững đối tượng người học Một trong những yêu cầu cơ bản của một giáo viên khi tiến hành giảng dạy bất cứ một môn học nào đều phải nắm vững đối tượng người học của mình. (Harmer, 2004). Theo ông, giáo viên cần phải hiểu rõ trình độ, năng lực ngôn ngữ của người học. Nhờ đó, giáo viên mới đưa ra được những quyết định sáng suốt về phương pháp giảng dạy và sử dụng tài liệu giảng dạy của mình phù hợp với từng đối tượng người học cụ thể. Hơn nữa, giáo viên cần nắm vững tâm lý người học, tính cách, sở thích, phong cách học, năng lực ngôn ngữ cụ thể của từng cá nhân. Trên cơ sở đó, giáo viên sẽ đưa ra được những hoạt động giảng dạy phù hợp với từng cá nhân như hoạt động cặp, nhóm nhằm phát huy sức mạnh cá nhân và trí lực tập thể của người học và tạo động cơ học tập đúng đắn cho người học vượt qua các rào cản của việc học kỹ năng viết tiếng Anh. Để nắm vững được đối tượng người học, giáo viên cần thực hiện tốt những việc sau đây. Thứ nhất, việc giáo viên hiểu rõ đối tượng người học còn thể hiện ở những khía cạnh tưởng chừng như rất đơn giản như việc nắm rõ tên của từng học viên, sinh viên trong lớp bởi thực tế là sĩ số của các lớp học ngoại ngữ thường không quá đông, tối đa chỉ khoảng 30 học viên hoặc sinh viên. Do vậy, việc giáo viên nắm rõ tên từng học viên, sinh viên trong lớp làm cho họ thấy được sự quan tâm thực sự và thái độ làm việc nghiêm túc của giáo viên cũng như giúp cho bản thân giáo viên cảm thấy tự tin và chủ động hơn rất nhiều trong quá trình giảng dạy trên lớp. Kỹ năng viết đòi hỏi sự tương tác trực tiếp, liên tục giữa người dạy và người học trong suốt quá trình dạy-học diễn ra. Do đó, việc nắm rõ tên của từng sinh viên trong lớp sẽ giúp cho quá trình tương tác ấy diễn ra thuận lợi, suôn sẻ và hiệu quả hơn rất nhiều. Thứ hai, giáo viên cần trao đổi, chia sẻ với người học về cuộc sống thông qua các bài viết hoặc nói chuyện trực tiếp. Ngoài ra, giáo viên còn có thể tiếp cận thông tin từ phía người học bằng cách thiết kế các câu hỏi, đề viết, hoạt động tự đánh giá, lấy ý kiến phản hồi từ phía người học, thậm chí kết hợp với các phòng, khoa, ban hệ quản lý học viên, giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bô môn khác để hiểu được tâm tư nguyện vọng, năng lực, khả năng, cá tính, tính cách, hoàn cảnh của từng học viên một. 2.2. Áp dụng nhiều cách sửa lỗi khác nhau vào dạy viết Sửa lỗi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong việc dạy và học ngoại ngữ. Đã có nhiều nhà nghiên cứu đầu tư nhiều thời gian và công sức về cách thức sửa lỗi cho người học trong việc dạy và học kỹ năng viết. Theo đó, Hedgcock & Lefkowitz (1996) tin rằng sửa lỗi là một công việc không thể thiếu được trong quá trình dạy và học kỹ năng viết vì thông qua hoạt động này mà người học tìm ra lỗi của mình và biết cách sửa lỗi. Hyland (2003) cho rằng việc sửa lỗi chú trọng quá trình viết và viết lại các bài viết của người học. Chaudron (2001) lại đưa ra quan điểm rằng người học coi việc mắc lỗi là một nguồn quan trọng để tự học hỏi, tự hoàn thiện bài viết của mình. Vì vậy, kể cả người bản ngữ cũng cho rằng sửa lỗi là một công việc khó nhất trong việc dạy các kỹ năng ngôn ngữ, đặc biệt là dạy kỹ năng viết. Theo Paulus (1999), chính bản thân người dạy cũng khó tìm ra lời giải tốt nhất cho việc sửa lỗi cho người học. Ferris (1999) cho rằng việc sửa lỗi cho người học là một trong những vấn đề gây tranh cãi khá gay gắt trong giáo giới. Tuy nhiên, nếu tìm 91KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v ra phương án sửa lỗi tốt, linh hoạt và phù hợp thì kết quả của nó là rất lớn trong việc tạo ra hứng thú động viên khuyến khích người học học tốt kỹ năng viết. Để thực hiện được giải pháp này, cần thực hiện những yêu cầu sau: Giáo viên là người đóng vai trò định hướng và hướng dẫn thực hiện hoạt động sửa lỗi theo cặp; vì vậy, đòi hỏi đầu tiên từ phía giáo viên là sự tâm huyết với nghề, với công việc. Thực vậy, ở mỗi bài, giáo viên cần phải thiết kế hoạt động sửa lỗi theo cặp theo nội dung của từng dạng văn cụ thể. Để làm được điều này, ngoài việc nắm vững phần lý thuyết của dạy viết hàn lâm, cần phải đọc nhiều bài báo, tham luận và sách giáo học pháp, tâm lý học để thiết kế câu hỏi phần sửa lỗi đạt hiệu quả. Ngoài ra, giáo viên cần phải dành thời gian để đọc lại những tờ sửa lỗi của học viên, sinh viên để kiểm chứng xem những câu trả lời của người sửa đã nghiêm túc, đầy đủ và đúng chưa để yêu cầu người sửa lỗi làm lại phần việc của mình vì trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi nhận thấy rằng lúc đầu có rất nhiều em đọc bài viết của bạn và sửa lỗi rất sơ sài, ý thức sửa lỗi còn kém và mang tính đối phó, nhưng sau khi chúng tôi đọc kỹ từng bài và phần sửa lỗi chúng tôi đã yêu cầu các em thực hiện công việc của mình một cách nghiêm túc và kết quả đạt được như mong đợi. Giáo viên còn phải dành nhiều thời gian để đọc bản viết thứ nhất và thứ hai của sinh viên sau khi được bản sửa theo cặp để kiểm chứng xem có sự tiến bộ nào giữa hai bản viết hay không và đưa ra những nhận xét của mình, đồng thời sửa lỗi cho người học bởi vì hoạt động sửa lỗi theo cặp chỉ là một hoạt động bổ trợ cho việc giúp người học phát hiện và sửa lỗi sai chứ không thay thế hoàn toàn vai trò của giáo viên được. Thậm chí, sau khi nhận xét và sửa lỗi hoặc chỉ ra lỗi cho người học, giáo viên còn phải yêu cầu sinh viên viết bài cho đến khi mà giáo viên cảm thấy thỏa mãn hoàn toàn với bài viết của sinh viên. Vì vậy, giáo viên cần phải tốn thời gian công sức cho việc đọc bài và chấm bài rất nhiều lần. Hơn nữa, người giáo viên cũng cần phải ghi lại nhật ký của từng bài giảng. Công việc này rất có ích cho việc giao nhiệm vụ cho từng cặp ở từng buổi sửa lỗi và thay đổi luân phiên thành viên của từng cặp. Ví dụ như buổi một là cặp của một học viên học giỏi hoặc khá với một học viên học yếu hoặc kém, tuần hai lại chuyển sang hai em có cùng trình độ, cứ thế thay đổi thành viên từng cặp luân phiên trong lớp thì mới phát huy hiệu quả của hoạt động này. Song song với đó, phần nhật ký cũng giúp giáo viên thay đổi ngôn ngữ trong việc viết câu trả lời của tờ sửa lỗi. Ví dụ, nếu buổi một sinh viên A viết câu trả lời bằng tiếng việt thì buổi hai sinh viên đó phải viết câu trả lời bằng tiếng Anh, rồi thay đổi luân phiên hình thức viết câu sửa lỗi. Mục đích của việc thay đổi thành viên của cặp và ngôn ngữ sửa lỗi là nhằm giúp các em thực hiện hoạt động sửa lỗi dề dàng hơn, học hỏi lẫn nhau và giúp đỡ nhau trong học viết cũng như hun đắp tình đoàn kết của lớp. Ngoài ra, nhật ký bài giảng này cũng giúp giáo viên kiểm soát lớp tốt hơn, thông thường ở các hoạt động cặp và nhóm, chủ yếu các em giỏi hoặc khá là tham gia nhiều hơn, các em học yếu hơn sẽ có tâm lý ỷ lại, ít hoạt động hơn; vì vậy, nếu giáo viên ghi chép nhật ký đầy đủ sẽ phát hiện được những em không tích cực tham gia hoạt động và thậm chí ghi lại những cặp không tích cực làm việc để có biện pháp cụ thể cho từng buổi sửa lỗi cụ thể. Cuối cùng, việc ghi chép nhật ký cũng là tấm gương phản ánh những ưu nhược điểm của giáo viên ở mỗi bài, điều mà giáo viên thường không thích, để từ đó giáo viên không chỉ tự điều chỉnh được phương pháp giảng dạy của mình mà còn hiểu được tâm tư nguyện vọng của người học tốt hơn, sát sao hơn. Bên cạnh đó, tờ sửa lỗi theo cặp cần được thiết kế một cách chính xác, hợp lý, cụ thể, bám sát vào lý thuyết của nội dung của từng dạng văn cụ thể. Tờ sửa lỗi cần phải có thêm phần trình bày quan điểm của người sửa lỗi và cách giúp tác giả bài viết khắc phục những khuyết điểm của. Nhờ đó, người viết sẽ có những lời khuyên bổ ích cho việc sửa lại bài viết ở lần sau. 92 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 2.3. Áp dụng hoạt động cặp và nhóm vào dạy viết Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao lợi ích hoạt động nhóm/cặp trong dạy viết. Long & Porter (1985) nhấn mạnh rằng hoạt động nhóm/cặp là hoạt động kích thích người học thực hành, cải thiện chất lượng học viết, tạo ra hứng thú học và tạo ra không khí học viết tích cực. Theo Ur (1999), hoạt động nhóm/cặp là hoạt động giao tiếp mang lại nhiều lợi ích cho người học ngoại ngữ. Thứ nhất là, hoạt động nhóm/cặp tạo cơ hội cho nhiều người học tham gia vào quá trình học viết cùng một lúc. Thực vậy, nếu một chủ đề trong lớp được năm hay sáu nhóm/cặp thảo luận trong cùng một thời gian thì điều này có nghĩa là số lượng người viết và thời gian thảo luận của từng cá nhân được tăng lên từ năm đến sáu lần. Hơn hữa, sự tham gia của nhiều người học cùng một lúc không chỉ giúp những học viên tích cực mà cả những học viên rụt rè. Vì vậy, người học sẽ thấy thoải mái hơn khi giao tiếp trong các nhóm/cặp và có thể tự diễn đạt những suy nghĩ của mình một cách tự nhiên hơn. Thứ hai là, thông thường người học thích hoạt động theo nhóm/cặp hơn là phải trả lời giáo viên trước lớp vì khi giao tiếp trong nhóm nhỏ/cặp, người học thường dùng ngôn ngữ thân mật mà không bị áp lực từ bên ngoài. Là thành viên của một nhóm/cặp, họ sẽ kiểm soát được hoạt động viết của mình tốt hơn và không phải chịu áp lực từ sự chuyên quyền của bất cứ người lãnh đạo nào. Điểm lợi thứ ba của hoạt động viết theo nhóm/cặp là hoạt động giải phóng giáo viên ra khỏi vai trò của người dạy, người sửa lỗi và người kiểm soát lớp học, cho phép người học đảm nhiệm những vai trò của người giao tiếp tự nhiên. Để thực hiện được giải pháp này, cần tuân thủ một số yêu cầu sau: (1) Trước hết, giáo viên cần hiểu rằng hoạt động nhóm/cặp không phải là phương pháp giảng dạy mà là các cách thức tổ chức lớp học. Trong hoạt động nhóm/cặp, giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ hoặc cặp và tất cả các nhóm/cặp cùng làm việc một lúc. Tuy nhiên nhiệm vụ của mỗi nhóm/cặp có thể khác nhau. Mỗi giáo viên có thể có những cách thức tổ chức lớp khác nhau tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể cũng như trình độ thực tế của người học. (2) Về vấn đề tiêu chí lựa chọn thành viên trong mỗi nhóm/cặp cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Thông thường, giáo viên cần lựa chọn một số tiêu chí sau để lựa chọn thành viên cho mỗi nhóm/cặp: Thứ nhất, tiêu chí hoạt động theo nhóm/cặp bạn bè. Đây là hình thức cơ bản nhất để tạo không khí thoải mái khi làm việc trong các nhóm/cặp. Có hai cách thành lập nhóm/cặp. Một là giáo viên để người học tự thành lập các nhóm/cặp của mình. Nếu cách làm thứ nhất gặp khó khăn giáo viên có thể chọn cách thứ hai là yêu cầu người học viết tên các bạn theo nhóm/cặp; trên cơ sở đó giáo viên có thể lựa chọn thành viên trong mỗi nhóm/ cặp cho luyện tập. Thứ hai là lựa chọn theo khả năng của người học. Ở tiêu chí này cũng có hai cách tổ chức. Một là tổ chức nhóm/cặp hỗn hợp giữa những học viên, sinh viên khá, giỏi với kém, trung bình. Cách này tạo điều kiện cho các học viên, sinh viên giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. Cách thứ hai là tổ chức các nhóm/cặp học viên, sinh viên có cùng trình độ giỏi, khá, trung bình, hoặc kém. Hình thức này có ưu điểm là giáo viên có thể giao các loại hình bài tập phù hợp với trình độ từng loại học viên, sinh viên; mặt khác giáo viên có điều kiện giúp đỡ học viên, sinh viên yếu, kém. Thứ ba là tổ chức nhóm/cặp ngẫu nhiên. Với tiêu chí này, giáo viên lựa chọn thành viên ở mỗi nhóm/cặp một cách ngẫu nhiên, không theo một quy định cụ thể nào. Ví dụ: tổ chức nhóm/cặp theo chỗ ngồi như các em ngồi sát nhau, theo bàn học, theo hai bàn học, theo nhóm/cặp ngồi xa nhau, theo tháng sinh trong năm, theo màu sắc của áo các em đang mặc v.v Cần lưu ý rằng sự thay đổi giữa các hình thức thành lập nhóm/ cặp là hết sức cần thiết để tránh sự nhàm chán trong luyện tập. Sự thay đổi các hình thức thành lập nhóm/cặp cần đựơc thực hiện thường xuyên, liên tục qua mỗi ngày, mỗi tiết học thậm chí qua mỗi dạng bài tập viết. (3) Trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm/cặp, 93KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v giáo viên không phải là người truyền thụ những kiến thức có sẵn cho người học mà là người định hướng, tổ chức hoạt động, tạo điều kiện cho họ tiếp cận những đối tượng khác nhau của quá trình học tập, được trao đổi, học tập lẫn nhau, thể hiện tính độc lập và chủ động trong việc tìm kiếm tri thức mới. Khi nhóm/cặp đứng trước những vấn đề không thể đi đến sự thống nhất thì giáo viên trở thành trọng tài khoa học, người cố vấn giúp họ tìm thấy điểm chung. Như vậy, trong hoạt động nhóm/cặp, người dạy trước hết là người hướng dẫn của người học, đồng hành với người học trong phương pháp học và chỉ cho họ con đường khám phá tri thức. 2.4. Áp dụng phương pháp dạy viết quá trình vào dạy viết Nhiều học giả đã đánh giá phương pháp viết quá trình là một phương pháp đổi mới trong việc dạy viết hiện nay. Cheung (1999) coi phương pháp này là một bước tiến quan trọng trong dạy và học viết trong suốt những năm qua. Leki (1991) cho rằng phương pháp này được đánh giá cao hơn phương pháp truyền thống (viết sản phẩm) bởi nó coi trọng cả quá trình viết chứ không coi trọng sản phẩm cuối cùng. Zamel (1983) đã chứng minh rằng nhờ tập trung vào cả quá trình viết, nội dung bài viết và ý nghĩa truyền tải hơn mà phương pháp viết quá trình giúp cho học viên/sinh viên tự tìm tòi khám phá những suy nghĩ của mình, tự tìm ra ý nghĩa của việc học viết cũng như tự đánh giá bài viết của mình. Jarvis (2002) cũng có những phát hiện tương tự về lợi ích của phương pháp viết quá trình; đó là, phương pháp này khuyến khích được học viên/sinh viên truyền tải những thông điệp viết của mình một cách toàn diện và rõ ràng nên khả năng về viết, đọc, ngữ âm, chính tả và ngữ pháp của học viên/sinh viên đều được phát huy. Để thực hiện tốt giải pháp này, giáo viên thường tiến hành các bước sau: Bước thứ nhất: Giáo viên sưu tập từ 5 đến 10 lỗi điển hình mà do chính người học mắc phải từ các bài viết của họ sau đó chiếu lên máy chiếu hoặc in ra và phô tô thành 11 bản. Trước khi bài học được tiến hành người học được yêu cầu dành 10 phút để thảo luận theo nhóm/cặp để tìm ra lỗi sai do chính mình mắc phải. Sau khi họ tìm được lỗi sai và sửa lỗi sai, giáo viên nhận xét và sửa lại nếu còn có thắc mắc. Bước thứ hai: Người học được yêu cầu đọc một bài viết mẫu và thảo luận theo cặp để tìm ra lý thuyết viết văn hàn lâm dựa trên các câu hỏi đã được thiết kế sẵn. Bước thứ ba: Người học được yêu cầu tìm ý cho một chủ đề viết đã cho theo nhóm 4 hoặc 5 để tìm ra những ý chính cho bài viết. Bước thứ tư: Người học được yêu cầu viết bản đầu tiên dựa theo những ý mà đã được thảo luận theo nhóm. Bước thứ năm: Người học được yêu cầu thực hiện hoạt động sửa lỗi hoặc đánh giá bài viết theo cặp. Sau khi người học viết xong bản đầu tiên thì được yêu cầu đổi bài cho bạn và tiến hành hoạt động đánh giá dựa trên những câu hỏi cho sẵn. Các câu hỏi này được thiết kế dựa vào lý thuyết của từng dạng văn viết hàn lâm cụ thể nên ở mỗi bài cỏc câu hỏi được thiết kế khác nhau. Hơn nữa, giáo viên còn thiết kế thêm các câu hỏi nhằm giúp người học không chỉ học lại lý thuyết mà còn bày tỏ bài học rút ra cho bản thân mình sau khi sửa lỗi cho bạn và cách giúp bạn sửa lỗi sai của mình; thậm chí bày tỏ quan điểm của mình về phương pháp dạy của giáo viên, cách tiến hành bài giảng của giáo viên, gợi ý cho giáo viên một số cách để giảng bài sau dạy tốt hơn. Bước thứ sáu: Người học được yêu cầu viết bản thứ hai dựa trên những nhận xét ở phần sửa lỗi hoặc đánh giá theo cặp. Vì thời gian ở lớp có hạn, nên giáo viên yêu cầu người học thực hiện hoạt động này ở nhà. Sau đó, người học được yêu cầu nộp lại cho giáo viên bản viết thứ nhất và thứ hai kèm theo cả tờ nhận xét của hoạt động sửa lỗi hoặc đánh giá bài viết. Bước thứ bảy: Giáo viên đọc tất cả các bài viết của người học cũng như tờ sửa lỗi hoặc đánh giá theo cặp và chấm điểm, nhận xét chi tiết về thái độ thực hiện công việc và sự tiến bộ của từng người học qua các bài viết cũng như đưa ra những gợi ý cần thiết để giúp bài viết tiếp theo tốt hơn. Mục đích của hoạt động này là kiểm tra khả năng tiếp 94 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI thu lý thuyết và vận dụng lý thuyết viết vào thực tiễn của từng người học. Bên cạnh đó, giáo viên có thể chỉnh sửa phương pháp dạy dựa theo những nhận xét và gợi ý mà học viên/sinh viên đưa ra. Hơn nữa, giáo viên còn kiểm tra được độ nghiêm túc, tinh thần tự học và thái độ học hỏi lẫn nhau từ những lỗi sai của chính bản thân từng người học. Bước thứ tám: Người học được yêu cầu viết bản thứ ba hoặc bản cuối nếu như bài viết thứ hai đã khá hoàn chỉnh. Hoạt động này cũng được tiến hành ở nhà. Sau đó nộp lại cho giáo viên để được chấm và sửa lỗi. Bước thứ chín: Người học được yêu cầu thực hiện hoạt động tự đánh giá cho bài viết của mình dựa trên các câu hỏi cho sẵn. Các câu hỏi này được thiết kế nhằm giúp họ tự nhìn lại quá trình viết của mình để kiểm tra sự tiến bộ cũng như thái độ học tập của mình. Hơn nữa, các câu hỏi được thiết kế nhằm giúp họ tự học được những lỗi sai của chính bản thân mình và đưa ra các giải pháp tự hoàn thiện các bài viết của mình. Ngoài ra, các câu hỏi này còn tạo cơ hội cho họ nhận xét về phương pháp dạy của giáo viên. Bước thứ mười: Người học được yêu cầu tự đánh giá về những khó khăn và thuận lợi của việc áp dụng phương pháp học viết quá trình vào học kỹ năng viết vào tờ phản hồi và cho điểm vào tờ chấm điểm đã được thiết kế sẵn. Tờ tự chấm điểm này được thiết kế dựa trên những yêu cầu cơ bản của văn viết hàn lâm theo chuẩn IELTS và mức độ hoàn thành từng hoạt động của người học cũng như những nhận xét mà giáo viên đưa ra ở từng bài viết. Mục đích của tờ chấm điểm này là tạo cơ hội cho người học nhìn nhận lại cả quá trình học viết một cách hệ thống cũng như tạo nên sự bình đẳng trong việc chấm điểm của họ vì số điểm của môn học là điểm trung bình chung của họ tự chấm và của giáo viên chấm. Bước thứ mười một: Giáo viên chấm điểm cho người học theo tờ chấm điểm. Bước thứ mười hai: Người học được yêu cầu sắp xếp tất cả các bài viết và tờ đánh giá hoặc sửa lỗi, tờ tự đánh giá, chấm điểm của từng bài một cách hệ thống và theo trình tự về mặt thời gian. Bước thứ mười ba: Người học được yêu cầu phô tô toàn bộ tập bài và nộp cho giáo viên bản phô tô. 2.5. Thiết kế nhiều dạng bài tập thực hành viết và các hoạt động phục vụ cho việc dạy viết Krashen (1982) khẳng định rằng, việc thiết kế tài liệu dạy học và các hoạt động dạy học chính là một phương tiện quan trọng trong việc tiếp thụ ngoại ngữ của người học vì đây là dữ liệu đầu vào quan trọng của quá trình tiếp thụ tri thức. Nhờ vậy, người học sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình. Hơn nữa, người học sẽ có nhiều cơ hội học tập thông qua các hoạt động đa dạng, kích thích sự tìm tòi, khám phá để tiếp cận ngày càng sâu trong quá trình học tập của mình. Để thực hiện tốt giải pháp này, giáo viên cần chuẩn bị các hoạt động và các dạng bài tập cho một giờ dạy học viết thật kỹ lưỡng. Đây là hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa người dạy và người học, giữa người học với nhau nhằm đạt được những mục tiêu của bài giảng. Giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu từng bài giảng, nội dung trọng tâm, trọng điểm của mỗi bài, các trang thiết bị dạy học sẵn có, trình độ của người học, sĩ số lớp học, độ tuổi người học, thời điểm dạy viết, thời lượng dành cho mỗi bài dạy viết, đặc điểm tâm, sinh lỹ của người học để thiết kế những hoạt động học viết, những bài tập dành cho từng bài cụ thể một cách phù hợp. Sau đây là một số bước thiết kế một hoạt động dạy và học viết: + Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng, trình độ, năng lực, tâm sinh lý của người học và những nội dung trọng tâm, trọng điểm của bài. + Bước 2: Nghiên cứu giáo trình và các tài liệu tham khảoliên quan đến bài dạy viết để hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học; 95KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v xác định những kiến thức, kỹ năng cần giảng dạy; xác định trình tự logic của bài học. Bước này đòi hỏi giáo viên cần đọc kĩ nội dung bài học và hướng dẫn tìm hiểu bài trong giáo trình để hiểu, đánh giá đúng nội dung bài học rồi mới chọn đọc thêm các tài liệu tham khảo để hiểu sâu, hiểu rộng nội dung bài học. + Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ của người học như: khối lượng kiến thức, kỹ năng cần giảng dạy ở từng bài, những kiến thức đã giảng dạy, dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết. Bước này đòi hỏi giáo viên không những phải nắm vững nội dung bài học mà còn phải hiểu đối tượng người học để lựa chọn phương pháp dạy viết phù hợp, phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và các hoạt động cặp nhóm, hoạt động sửa lỗi, hoạt động đánh giá bài viết của người học sao cho phù hợp với yêu cầu đề ra. + Bước 4: Lựa chọn phương pháp dạy viết phù hợp – thường là phương pháp dạy viết quá trình, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức sửa lỗi thích hợp nhằm giúp người học học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Bước này đòi hỏi giáo viên cần quan tâm tới việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, tinh thần học tập theo cặp, nhóm trong những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động đến tư tưởng và tình cảm để đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho người học. + Bước 5: Thiết kế bài tập và hoạt động viết. Ở bước này, giáo viên thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách thức hoạt động, thời gian và mục tiêu, yêu cầu cần đạt được cho từng hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học tập. Về phân tích nội dung các bài trong giáo trình, thường phải phân tích về lý thuyết viết. Hơn nữa, cần xác định khối kiến thức mới và mối liện hệ với kiến thức đã học. Cuối cùng là, giáo viên cần xác định hệ thống các bài luyện tập vận dụng tri thức tại lớp và ở nhà; cách hướng dẫn người học giải quyết thông qua biện pháp liên hệ nội nội dung tài liệu học tập với cuộc sống, với thực tiễn xây dựng đất nước, với tri thức của các bộ môn khác, những cơ sở hình thành thế giới quan khoa học. Tóm lại, việc thiết kế bài tập viết cho học viên, sinh viên là vô cũng cần thiết. Tuy nhiên, giáo viên cần cân nhắc những yếu tố trên đây khi thiết kế bài tập hợp lý và phù hợp với đối tượng nghiên cứu trên đây. 3. KẾT LUẬN Trên đây là một số giải pháp chính nhằm nâng cao kỹ năng viết cho học viên, sinh viên năm thứ ba Khoa tiếng Anh, Học viện Khoa học Quân sự. Hy vọng rằng những giải pháp trên đây góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh cho đối tượng người học này tại Học viện Khoa học Quân sự. Tài liệu tham khảo: 1. Chaudron, C. (2001). Second language classrooms: Research on teaching and learning. Cambridge: Cambridge University Press. In Celce-Murcia, M. (Ed.), (2001). Teaching English as a second or foreign Language (3rd ed.). New York: Heinle & Heinle. 2. Cheung, M. (1999). The process of innovation adoption and teacher development, Education and Research in Education, 13, 2, pp.55-75, 3. Ferris, D. (1999). The Case for Grammar Correction in L2 Writing Classes: A Response to Truscott. (1996). Journal of Second Language Writing, 8(1), pp.1-11. 4. Flower, L., & Hayes, J. (1981). A cognitive process theory of writing. College Composition and Communication, 32(4), pp. 365-387. 5. Harmer J. (2004). How to Teach English. London: Longman. 6. Hedgcock, J. and Lefkowitz, N. (1996). Some Input on Input: Two Analysis on Student Response to Expert Feedback in L2 Writing. The Modern Language Journal, 80(3), pp. 287 – 308. 96 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 7. Hyland, K. (2003). Second Language Writing. CUP. 8. Jarvis, D. J. (2002). The Process Writing Method. The Internet TESL Journal, 8(7). Available at Retrieved on September, 26th 2006. 9. Krashen, S. (1982). Principles and practice in second language acquisition. Oxford: Pergamon Press. 10. Leki, I. (1991). Teaching Second Language Writing: Where We Seem to Be. English Teacher Forum. April, 8(11). 11. Long, M., & Porter, P. (1985). Group work, interlanguage talk and second language acquisition. TESOL Quarterly, 19(2), pp. 207-227. 12. Paulus, T. M. (1999). The Effect of Peer and Teacher Feedback on Student Writing. Journal of Second Language Writing, 8(3), pp. 265 – 289. 13. Ur, P. (1999). A Course in Language Teaching. Cambridge: CUP. 14. Zamel, V. (1983). The composing process of advanced ESL students: Six case studies. TESOL Quarterly, 17, pp.165–187. MAJOR SOLUTIONS TO IMPROVING THE QUALITY OF TEACHING AND LEARNING WRITING SKILLS FOR THIRD-YEAR STUDENTS OF THE ENGLISH DEPARTMENT AT MILITARY SCIENCE ACADEMY Abstract: Improving the quality of teaching and learning of the 4 English skills in general, writing skills in particular has been considered one of the first priorities at the Military Science Academy. This study focuses on seeking major solutions to improving the quality of teaching writing skills for the third-year students at the English Department – Military Science Academy (MSA). The paper also points out that the solutions depend mainly on three major groups of factors: the teaching staff, learners and education managers. All the findings are based on the results of surveys, questionnaires, interview and experiments. Hence, they hopefully serve as useful references for deeper studies related to teaching and writing skills at MSA. Keywords: solution, writing skills, error correction, teaching methodology Ngày nhận: 15/7/2016 Ngày phản biện: 25/7/2016 Ngày duyệt đăng: 28/7/2016
File đính kèm:
- mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_day_ky_nang_viet_cho_ho.pdf