Một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường xã hội với bạo lực học đường
Abstract: This paper reviews the international and Vietnamese studies on school violence and its
manifestation. These studies indicated that social environmental factors such as family, school and
friend groups are related to school violence, are factors affecting violent behavior and students with
violence in school. From that results, the author suggests some support of school social workers who
works with students involved in school violence through solving the relationships between students and
social environmental factors to contribute to the prevention and mitigation of violence in schools today
Bạn đang xem tài liệu "Một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường xã hội với bạo lực học đường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường xã hội với bạo lực học đường
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 448 (Kì 2 - 2/2019), tr 26-31 26 Email: maihuong.sw.hnue@gmail.com MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI VỚI BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG Nguyễn Thị Mai Hương - Nguyễn Thu Hà Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Ngày nhận bài: 08/12/2018; ngày sửa chữa: 18/12/2018; ngày duyệt đăng: 04/01/2019. Abstract: This paper reviews the international and Vietnamese studies on school violence and its manifestation. These studies indicated that social environmental factors such as family, school and friend groups are related to school violence, are factors affecting violent behavior and students with violence in school. From that results, the author suggests some support of school social workers who works with students involved in school violence through solving the relationships between students and social environmental factors to contribute to the prevention and mitigation of violence in schools today. Keywords: School violence, social environmental factors, social work, school social work, social worker. 1. Mở đầu Trẻ em ngày nay đã và đang trở thành nạn nhân ngoài ý muốn, bất đắc dĩ của các vấn đề trong môi trường học đường. Các vấn đề học sinh (HS) gặp phải trong nhà trường ngày càng phức tạp và khó lường. Bên cạnh các rối nhiễu tâm lí, định dạng giới, quan hệ ứng xử với bạn bè, với thầy cô thì bạo lực học đường (BLHĐ) là một vấn đề nhức nhối cần phải giải quyết. Trước thực trạng BLHĐ ngày càng gia tăng và có tính chất ngày càng nghiêm trọng, các nhà nghiên cứu đã tập trung phân tích các hành vi BLHĐ, chỉ ra những ảnh hưởng nghiêm trọng của nó tới nạn nhân và những người liên quan như: BLHĐ không chỉ làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường học đường, làm suy thoái đạo đức xã hội mà nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến HS bị bạo lực và những người liên quan, đặc biệt là có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả học tập và sự phát triển tâm lí của HS. Bên cạnh đó, có nhiều nghiên cứu đã tập trung phân tích những nguyên nhân gây ra BLHĐ trong trường học, bao gồm có nhóm yếu tố cá nhân và nhóm yếu tố môi trường xã hội, để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa. Bài viết tập trung phân tích các quan niệm về BLHĐ và mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường xã hội với BLHĐ để từ đó đưa ra một số gợi ý hỗ trợ của nhân viên công tác xã hội (CTXH) trường học trong làm việc với HS có liên quan tới BLHĐ. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Quan niệm về bạo lực học đường Theo Furlong & Morrison, đến năm 1992, khái niệm “BLHĐ” mới được sử dụng rộng rãi như một thuật ngữ để mô tả những hành động bạo lực và căng thẳng trong trường học. Thuật ngữ BLHĐ (Violence School) được hiểu là “khái niệm gồm nhiều khía cạnh liên quan đến thủ phạm gây ra bạo lực và nạn nhân bị bạo lực, từ các hành vi chống đối xã hội đến cả hành vi phạm tội và gây hấn trong trường học ngăn cản sự phát triển và học tập, cũng như làm ảnh hưởng đến môi trường học đường, bao gồm cả sự khiếp sợ/ lo lắng, sợ hãi, kỉ luật/ môi trường học đường và các khía cạnh khác” [1; tr 71]. Theo Điều 2, Nghị quyết số 80/2017/NĐ-CP quy định về môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống BLHĐ: “BLHĐ là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập; xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của người học xảy ra trong cơ sở giáo dục hoặc lớp độc lập” [2]. Theo Phan Thị Mai Hương: “BLHĐ là thuật ngữ dùng để chỉ những hành vi bạo lực trong môi trường học đường hoặc những hành vi bạo lực của lứa tuổi học đường, bao gồm hàng loạt các hành vi bạo lực với các mức độ khác nhau, từ không lời đến có lời, từ hành động đơn giản đến những hành động thù địch, gây hấn, phá phách, gây tổn thương tâm lí, thậm chí tổn hại đến thể chất của người khác” [3; tr 28]. Theo Huỳnh Văn Sơn:”BLHĐ là một thuật ngữ dùng để chỉ các hành động làm tổn hại đến thể chất, tinh thần và vật chất của người khác dưới những hình thức khác nhau diễn ra trong môi trường học đường” [4; tr 60]. Còn theo Nguyễn Văn Tường:”BLHĐ là hệ thống xâu chuỗi lời nói, hành vi mang tính miệt thị, đe dọa, khủng bố người khác” [5; tr 568] và Nguyễn Văn Lượt: “Hành vi BLHĐ được coi là những hành vi lệch chuẩn bởi nó vi phạm các quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội, nội quy của nhà trường nơi mà các em là thành viên” [6; tr 322]. Theo chúng tôi, BLHĐ là hành vi dùng ngôn ngữ, cử chỉ và hành động gây tổn thương về thể chất và tinh thần của người khác trong môi trường học đường; BLHĐ VJE Tạp chí Giáo dục, Số 448 (Kì 2 - 2/2019), tr 26-31 27 thường là hành vi có ý thức, nhưng đôi khi cũng là hành vi vô tình, chưa có suy xét đầy đủ của người thực hiện. BLHĐ được thể hiện ở nhiều dạng khác nhau: “Bao gồm hàng loạt các hành vi bạo lực với các mức độ khác nhau, từ không lời đến có lời, từ hành động đơn giản đến những hành động thù địch, gây hấn, phá phách” [2; tr 28]. BLHĐ có biểu hiện như: bạo lực bằng lời, bạo lực hình ảnh, bạo lực tâm lí, tinh thần, bạo lực thể chất. Nếu phân chia theo biểu hiện bên ngoài và hậu quả của BLHĐ, có bạo lực quan sát được trực tiếp, bạo lực không quan sát được trực tiếp; còn phân chia theo phạm vi diễn ra bạo lực, có BLHĐ diễn ra bên trong và diễn ra bên ngoài nhà trường; và căn cứ theo mục đích của chủ thể gây ra hành vi bạo lực, có 4 loại: chủ thể hành vi gây bạo lực muốn thể hiện bản thân với người khác, mục đích của chủ thể hành vi bạo lực là gây tổn hại đến tâm lí nạn nhân, bắt nạt tài chính, vật chất, và bạo lực tình dục [7; tr 10]. Như vậy, tuy tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về BLHĐ. Song, theo chúng tôi, BLHĐ thường có những đặc điểm cơ bản sau: 1) BLHĐ chính là hiện tượng tâm lí - xã hội diễn ra trong môi trường trường học (có thể trong và ngoài nhà trường), liên quan tới những chủ thể của giáo dục như giáo viên (GV), HS, cán bộ giáo dục...; 2) BLHĐ thường diễn ra một cách có chủ ý, có sự tham gia của ý thức; 3) Chủ thể thực hiện hành vi BLHĐ bằng những phương tiện khác nhau như ngôn ngữ (lời nói, chữ viết), cử chỉ và hành động (đấm, đá, tát, véo tai, giật tóc, trấn lột, cướp giật,...); 4) Hậu quả của BLHĐ là làm tổn thương cả thể chất cũng như tinh thần - không chỉ đối với nạn nhân mà cả đối với người gây ra bạo lực; 5) BLHĐ có thể diễn ra giữa HS với HS, giữa HS với GV và ngược lại. 2.2. Một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường xã hội với bạo lực học đường Lí thuyết sinh thái của Urie Bronfenbrenner chỉ ra rằng, cá nhân phát triển trong “môi trường sinh thái, do đó nhận thức và hành vi của mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ các yếu tố trong môi trường cá nhân đó đang sinh sống. Sự ảnh hưởng của môi trường xã hội và mối quan hệ xã hội đa dạng của mỗi một cá nhân tạo nên sự thay đổi và phát triển của cá nhân đó. Các yếu tố trong môi trường xã hội có ảnh hưởng đến cá nhân con người thực hiện hành vi [8]. Do đó, nhiều nghiên cứu về nguyên nhân dẫn đến hành vi bạo lực và bị bạo lực đều tiếp cận dưới Lí thuyết sinh thái của Urie Bronfenbrenner. Các nghiên cứu xem xét sự tương tác giữa các yếu tố trong môi trường xã hội như hoàn cảnh gia đình, môi trường học đường, môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh trường học có ảnh hưởng như thế nào đến việc thực hiện hành vi bạo lực của HS cũng như học sinh bị bạo lực. Các yếu tố trong môi trường xã hội và mối quan hệ giữa mọi người với nhau có ảnh hưởng đến với mỗi cá nhân, ảnh hưởng đến thực hiện hành vi của mối cá nhân. Những mỗi quan hệ từ gia đình, bạn bè, trường học, xã hội đã tạo nên những chỗ cho cuộc sống của mỗi người, con người có thể nhận được các nguồn cảm xúc, thông tin, ủng hộ, trợ giúp... thông qua các mối quan hệ xã hội; đó cũng là nơi con người có thể tin tưởng, là chỗ dựa cả vật chất lẫn tinh thần. Ở lứa tuổi vị thành niên, các mối quan hệ xã hội mà trẻ thường tìm đến khi gặp khó khăn là thầy cô, bố mẹ, bạn bè và các chuyên gia tham vấn, tư vấn. Trong đó, bố mẹ và bạn bè là hai chỗ dựa các em thường tìm đến hơn [9]. Yếu tố môi trường xã hội có một vai trò rất lớn trong sự xuất hiện của các hành vi BLHĐ và là nguyên nhân dẫn tới HS bị bạo lực trong trường học, cụ thể như: yếu tố gia đình, nhà trường (mối quan hệ bạn bè, kỉ luật trường học) và yếu tố xã hội. Mikayo Ando nghiên cứu về BLHĐ tại Nhật Bản đã chỉ ra nguyên nhân bạo lực trong trường học là do các yếu tố tâm lí xã hội. Các yếu tố xã hội khác nhau liên quan đến các loại bạo lực khác nhau. Do đó, các can thiệp tập trung vào giải quyết các yếu tố tâm lí xã hội có thể có hiệu quả trong công tác phòng chống BLHĐ. Các yếu tố tâm lí xã hội như: mối quan tâm của phụ huynh về cuộc sống hàng ngày của HS, mối quan hệ của cha mẹ đối với HS, giao tiếp cởi mở với cha mẹ, sự hỗ trợ bởi GV trường học, sự hỗ trợ của bạn thân, học tập, mối quan hệ phù hợp với bạn học, thái độ trong trường học, các mối quan hệ giữa các cá nhân, khả năng tự giải quyết khắc phục khó khăn, giải quyết vấn đề, tự giải quyết chống lại bắt nạt có mối liên hệ với các loại bạo lực về thể chất, bạo lực bằng lời nói và bạo lực gián tiếp [10]. Nghiên cứu của Chen tại Đài Loan chỉ ra yếu tố môi trường xã hội là nguyên nhân gây ra BLHĐ, các cấp bậc học khác nhau dẫn đến tỉ lệ BLHĐ khác nhau, một số thủ phạm có liên quan đến bạo lực là do đã từng bị đánh đập hoặc nạn nhân của bạo lực: 16,6%, bị ai đó trêu trọc: 14,8%, bị trừng phạt: 13,8%, và có ai đó làm sai:12,6%; hoặc lí do về vấn đề tiền bạc giữa HS với nhau: 3,5% hay mối quan hệ bạn trai/bạn gái hoặc tình yêu giữa các HS: 6,2% [11]. Các yếu tố trong môi trường xã hội có mối liên quan tới BLHĐ gồm: 2.2.1. Yếu tố gia đình Cha mẹ và con cái rất ít có thời gian gặp nhau trong ngày, chưa nói đến việc chia sẻ, tâm giao. Cha mẹ không dành nhiều thời gian để giáo dục con cái về đạo đức, đạo lí làm người, về phép tắc, lễ nghĩa trong gia đình và ngoài xã hội. Bên cạnh đó, một số cha mẹ có cuộc sống không thật chuẩn mực để có thể làm gương cho con cái. Điều VJE Tạp chí Giáo dục, Số 448 (Kì 2 - 2/2019), tr 26-31 28 này làm cho trẻ em không tìm được chỗ dựa về tinh thần, tâm lí trong gia đình khiến các em có các hành vi bạo lực trong trường học. Các đặc điểm gia đình như: phong cách giáo dục và sự nhìn nhận về hành vi bạo lực của cha mẹ hạn chế; thái độ và sự ủng hộ của cha mẹ đối với hành vi bạo lực; tấm gương không chuẩn mực của cha mẹ, phong cách giáo dục thiếu khoa học hay thiếu sự quan tâm. Khi cuộc sống gia đình không ổn định và dễ bị thay đổi, trẻ em có thể có khuynh hướng bạo lực hơn. Những gì các em học ở nhà được chuyển sang hành vi của trường; trong môi trường lớp học Kiểu nuôi dạy của cha mẹ như quan tâm quá ít hoặc kiểm soát quá nhiều cũng có hại “các phương pháp độc đoán, độc tài cùng với sự trừng phạt thể chất quá mức và những cơn giận dữ cảm xúc tức giận”. Loại nuôi dạy con cái này dường như cũng có hành vi không phù hợp ở trẻ em (dẫn theo Kristin D. Eisenbraun, 2007) [12], (Ji-Kang Chen, 2008) [11]. Tác giả Stuart Henry (người Mĩ) cũng có quan điểm tương tự, ông cho rằng: tính kỉ luật quá khắc nghiệt hay quá dễ dàng của cha mẹ trong ứng xử với con, sự thiếu quan tâm, thiếu tình cảm của cha mẹ và người chăm sóc với con cái; hoạt động giao tiếp của các thành viên trong gia đình hạn chế cũng có ảnh hưởng tới hành vi bạo lực của trẻ hoặc dẫn tới HS bị BLHĐ. Gia đình có cha mẹ phạm tội, trình độ nhận thức hạn chế, điều kiện kinh tế, thu nhập bấp bênh, không có người giám sát, bỏ rơi trẻ thường có nguy cơ dẫn đến hành vi BLHĐ hoặc là nạn nhân của bạo lực [13]. Giống như Stuart Henry, khi nghiên cứu trên 496 HS tại 8 trường THCS và THPT về hành vi BLHĐ tại Quy Nhơn, Đinh Anh Tuấn cũng đã chỉ rõ các yếu tố trong môi trường xã hội có ảnh hưởng tới hành vi BLHĐ, như: Hành động bạo lực nghiêm trọng như đe dọa, đánh nhau hoặc sử dụng hung khí tấn công bạn học có sự tập trung cao ở những HS gia đình có vấn đề (bố mẹ thường xuyên cãi nhau, li hôn, bố/mẹ mất hoặc không sống chung với bố mẹ), đồng thời những HS này cũng bị bạo lực nhiều hơn. Các GV trong trường đều cho rằng, HS sống trong gia có vấn đề thì các em hoặc là thu mình trầm lặng nên dễ bị bắt nạt hoặc là tính khí cộc cằn, nóng nảy dễ bộc phát hành vi bắt nạt bạn. So với các nhóm HS khác thì những hình thức bạo lực nghiêm trọng chiếm tỉ lệ cao, nhất là ở những HS mà bố mẹ để cho các em tự do (38,1%). 4/5 trường hợp có hành động đe dọa; đánh; sử dụng hung khí tấn công thầy cô cũng là những HS này. Những trường hợp HS đánh thầy cô giáo thì đều rơi vào đối tượng HS sống trong gia đình có bạo lực [14]. Hành vi BLHĐ của HS được “học tập”, “bắt chước” từ môi trường gia đình, kết quả cho thấy nhóm HS vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của bạo lực chứng kiến mức độ anh chị em trong gia đình đánh nhau khi có mâu thuẫn là rất cao và ngược lại, đồng thời các nhóm HS gây ra bạo lực thì có mức độ được bố mẹ quan tâm thấp nhất [15]. Học sinh là nạn nhân của BLHĐ thường có những đặc điểm về gia đình như: gia đình có hoàn cảnh đặc biệt hoặc không đầy đủ cha mẹ (không có bố theo nghĩa được công nhận về mặt luật pháp, “con rơi”); cha mẹ ít giao tiếp hay gắn kết con cái; con cái không tin tưởng cha mẹ trong hỗ trợ, giải quyết, bảo vệ khi bị bắt nạt ở trường học [16]. Ngược lại, nếu mức độ gắn kết gia đình bền chặt sẽ là yếu tố bảo vệ HS không tham gia gây bạo lực cũng như không chủ động gây thương tích cho bản thân. Việc bố mẹ sống chung cũng góp phần bảo vệ HS khỏi các hành vi tự gây thương tích bản thân hoặc nguy cơ bạo lực tinh thần từ bạn bè [17]; cha mẹ giáo dục tình yêu thương cho con cái càng nhiều thì hành vi BLHĐ của HS càng giảm. Tương tự, khi HS càng thể hiện sự giúp đỡ và đồng cảm đối với người khác thì càng ít thực hiện hành vi bạo lực [18]. Như vậy, các nghiên cứu đều chỉ ra, yếu tố gia đình là 1 trong 3 yếu tố (bên cạnh nhà trường và nhóm bạn bè) có mối quan hệ với vấn đề bạo lực trong trường học, cụ thể là cả đối với HS gây ra hành vi bạo lực và HS là nạn nhân của bạo lực. 2.2.2. Yếu tố trường học Trung tâm Thống kê Giáo dục Quốc gia cho thấy bạo lực phổ biến hơn ở các trường lớn so với các trường nhỏ hơn, 89% các trường lớn được khảo sát thừa nhận một hoặc nhiều vụ phạm tội trong một năm trong khi chỉ có 38% xảy ra ở trường nhỏ. Furlong và Morrison (2000) cũng cho rằng, quy mô trường học là một yếu tố thiết yếu để xác định tỉ lệ bạo lực. Có nghĩa là với số HS lớn hơn, việc tiếp xúc với các hành vi bạo lực trong khuôn viên trường học sẽ lớn hơn [1]. Do vậy, có thể dễ giải thích rằng, các trường học ở thành phố có nhiều khả năng bạo lực nhiều hơn các trường học nông thôn, Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng chống lại giả định này của Furlong và Morrison: không tìm thấy sự khác biệt đáng kể nào giữa BLHĐ trong các khu vực thành phố, ngoại ô và phi đô thị. Trung tâm Thống kê Giáo dục Quốc gia đã tìm thấy sự khác biệt đáng kể giữa các trường học thành phố và các trường học nông thôn; tuy nhiên, không có sự khác biệt giữa các địa điểm ngoại thành và thành phố (dẫn theo [12]). Môi trường học tập an toàn, thân thiện, công bằng và bình đẳng sẽ là yếu tố hạn chế bạo lực trong trường học, cụ thể như: HS nhận được sự quan tâm của người lớn xung quanh đúng mức khi có hiện tượng bạo lực, cũng có tương quan với mức độ bạo lực, điều đó có nghĩa là VJE Tạp chí Giáo dục, Số 448 (Kì 2 - 2/2019), tr 26-31 29 khi HS nhận được sự tôn trọng từ người lớn và bạn bè trong trường học, họ sẽ ứng xử tôn trong lại và việc cảm thấy được tôn trọng sẽ làm giảm cảm xúc tiêu cực và giảm hành vi gây hấn, vì vậy HS sẽ giảm hành vi gây bạo lực hoặc bị bạo lực [15]. Như vậy, khi HS có nhận thức về quy tắc của nhà trường và tin tưởng vào các quy tắc đó tốt thì có xu hướng diễn ra BLHĐ ít hơn, bởi khi đó HS sẽ có mối quan hệ tích cực với GV, cảm thấy thân thiện với ngôi trường của họ, cảm thấy môi trường tích cực và trật tự. Để thực hiện giáo dục và quản lí HS, nhà trường thường có các biện pháp kỉ luật. Những biện pháp kỉ luật HS một cách tích cực, phù hợp là rất quan trọng và cần được thực hiện để đảm bảo môi trường trường học an toàn. Những HS được học tập tại môi trường tích cực như có sự tôn trọng, công bằng và có kỉ luật có xu hướng ít có hành vi bạo lực hơn những HS ở môi trường tiêu cực như không được đối xử công bằng bởi GV và các HS khác, việc chấp hành nội quy nhà trường không tốt [15]. Mayer và Leone chỉ ra rằng, một môi trường học tập có hình thức kỉ luật tiêu cực, khắc nghiệt có thể dẫn đến hành vi lệch chuẩn của HS nhiều hơn là giảm thiểu các hành vi tiêu cực đó. Có nhiều biện pháp kỉ luật HS trong trường học như: dựa vào các hình phạt của pháp luật, trừng phạt, hay sự răn đe của nhà trường và của GV được chứng minh là không có hiệu quả [dẫn theo 10]. Như vậy, các hình thức kỉ luật tích cực áp dụng đối với HS cần có quy tắc rõ ràng, công bằng và không thiên vị, phương pháp kỉ luật phải được truyền đạt một cách rõ ràng. Khi có các biện pháp trừng phạt thì cần có cách giải thích thích đáng và các hành vi có thể được xã hội chấp nhận. Nếu nhà trường nhận thức được điều này thì BLHĐ sẽ giảm đi đáng kể. Theo nhà tâm lí học tội phạm Đonvonga (Liên Xô cũ), ảnh hưởng của nhóm bạn không chính thức tiêu cực đến hành vi phạm pháp của trẻ em được thể hiện qua 04 điểm sau: 1) Các nhóm tiêu cực là cơ sở hình thành quan điểm và định hướng dẫn đến hành vi phạm pháp; 2) Trẻ vị thành niên tuân theo những quyết định của nhóm dù bản thân có quan điểm riêng. Sự phục tùng này lúc đầu có thể là hình thức, nhưng dần dần có thể làm thay đổi định hướng bên trong; 3) Việc tham gia vào nhóm bạn tiêu cực có tác dụng làm tăng động cơ thực hiện tội phạm và làm cho cá nhân cảm thấy tinh thần trách nhiệm đối với hành vi của mình giảm đi; 4) Nhóm bạn tiêu cực có vai trò quan trọng trong việc loại trừ nỗi sợ hãi của các thành viên trước sự phạt của pháp luật (dẫn theo [21]). Ji- Kang Chen cho rằng, các nguy cơ từ bạn bè như chơi với nhóm bạn xấu, chứng kiến cảnh bạo lực của bạn bè cũng có thể sẽ dẫn tới hành vi bạo lực hoặc bị bạo lực [11]. Những HS là nạn nhân của BLHĐ thường chơi với nhóm bạn bè có đặc điểm: Thiếu kĩ năng kết bạn, ít bạn bè/không thuộc một nhóm bạn ở lớp hay trường học, thường bị bạn bè kì thị, cách li, chối bỏ; Thiếu các kĩ năng ứng xử, giao tiếp với bạn bè thì có xu hướng bị bạo lực hoặc có hành vi BLHĐ do không kiểm soát được hành vi [16]. Một đặc điểm nữa của trường học có thể là nguy cơ cho BLHĐ đó là: tình trạng quá tải về chương trình giáo dục tạo nên những áp lực về học tập cho HS; thiếu các hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho HS; sự liên kết lỏng lẻo của nhà trường với gia đình trong việc quản lí, kiểm soát và giáo dục HS, thái độ tiêu cực của GV, các quy định thiếu rõ ràng của nhà trường [16]. Một số yếu tố của trường học là điều kiện cho hành vi bạo lực xảy ra ở HS như: Quy mô trường học, địa điểm, tình trạng, những quy tắc đạo đức, chính sách của nhà trường đều có tác động đến số lượng, loại và mức độ nghiêm trọng của bạo lực. Từ những phân tích trên cho thấy, môi trường học đường cùng với mối quan hệ trong trường học, sự giám sát, nội quy, kỉ luật của nhà trường có vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện phát triển hay giảm bớt các hành vi BLHĐ. Do đó, mỗi nhà trường cần xây dựng một môi trường trường học an toàn, thân thiện và bình đẳng để ngăn ngừa hiện tượng bạo lực trong trường học hiện nay. 2.2.3. Các yếu tố xã hội Tác động của môi trường xã hội cho thấy, những HS bị ảnh hưởng hoặc tham gia các tệ nạn xã hội, sử dụng mạng xã hội thường có xu hướng BLHĐ hơn những HS không tham gia, những hành vi BLHĐ của HS được “học” từ phim ảnh và trò chơi bạo lực [15]. Những HS có thói quen rất thích xem phim hành động, kinh dị của Mĩ và chơi các game có các cảnh bạo lực như Võ Lâm truyền kì, Biệt đội thần tốc, Đột kích... thường xuyên có hành vi BLHĐ [14]. Tác giả đã đưa ra các dẫn chứng cụ thể khi nghiên cứu trên 496 HS tại Quy Nhơn, trong đó có 18,4% HS chơi game ở tiệm internet và 24,8% chơi game ở nhà và quan sát cho thấy hầu hết các em chơi những trò chơi bạo lực. HS chơi game có tỉ lệ gây bạo lực thể chất cao hơn HS không chơi game (40,0% so với 27,8%), trong đó tỉ lệ HS đánh nhau vượt trội là ở những HS chơi game ở tiệm internet (58,3%), có 02 trường hợp HS đánh thầy cô thì đều rơi vào nhóm HS chơi game, nghiện game này. Nhiều khi, mâu thuẫn trong quá trình chơi được các game thủ đưa ra giải quyết ngoài đời, 80,4% HS nhận định BLHĐ bị ảnh hưởng từ game online, phim ảnh bạo lực. Bên cạnh đó, nhiều em coi mạng internet là phương tiện để thực hiện bạo lực tinh VJE Tạp chí Giáo dục, Số 448 (Kì 2 - 2/2019), tr 26-31 30 thần với bạn bè [14]. Việc lạm dụng mạng xã hội của HS là yếu tố nguy cơ đối với cả hành vi gây và bị bạo lực trong môi trường học đường, đối với cả hành vi bạo lực thể chất và bạo lực tinh thần giữa HS với nhau [17]. Bên cạnh đó, các hành vi nguy cơ của HS như hút thuốc lá, sử dụng bia rượu, hút shisha, sử dụng các chất gây nghiện, kích thích cũng được chỉ ra là có môi liên hệ chặt chẽ đến hành vi gây bạo lực, bị bạo lực hoặc tự gây thương tích cho bản thân [17]. Như vậy, những HS bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội và môi trường xã hội không lành mạnh thường có xu hướng gây bạo lực và ngược lại. Do đó, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến BLHĐ của HS cần chú ý đến những tác động của môi trường xã hội ảnh hưởng tới HS. Tóm lại, ảnh hưởng đến HS bị BLHĐ và gây ra hành vi bạo lực là từ các nhóm yếu tố tâm lí cá nhân và nhóm yếu tố môi trường xã hội. Việc chỉ ra và phân tích các nguyên nhân này chính là cơ sở để thực hiện các biện pháp phòng ngừa và can thiệp giảm thiểu BLHĐ. 2.3. Vai trò của nhân viên công tác xã hội trường học trong giải quyết mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường xã hội với vấn đề bạo lực học đường CTXH trường học chính là những ứng dụng của CTXH trong nhà trường. Ở đó, nhân viên CTXH thực hành kiến thức chuyên môn, kiến thức thực tế của mình và coi nhà trường là phạm vi hoạt động chủ yếu để liên kết giữa HS, phụ huynh, GV và cộng đồng dân cư, nhằm đưa ra những dịch vụ tương ứng với mục tiêu giáo dục của nhà trường, từ đó hỗ trợ HS giải quyết những vấn đề mà các em gặp phải và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các em, đồng thời cũng giúp nhà trường thực hiện được những tôn chỉ và mục đích đã đề ra [5]. Nhân viên CTXH học đường làm công tác phòng ngừa và trợ giúp cho HS có liên quan đến BLHĐ không chỉ làm việc với thủ phạm và nạn nhân, mà còn làm việc cha mẹ HS, GV, bạn bè, cán bộ tư vấn tâm lí trường học để tạo điều kiện môi trường xã hội lành mạnh và thuận lợi trong trợ giúp cho HS cũng như phòng ngừa vấn đề bạo lực trong trường học. Nhân viên CTXH cần xem xét các “hệ thống” xung quanh các HS có liên quan đến BLHĐ để tìm kiếm các nguồn lực, giải pháp phù hợp. Ví dụ, cần xác định xem các em chơi với nhóm bạn nào (tốt hay xấu); mối quan hệ của các em với bạn bè xung quanh, với đối tượng gây bạo lực ra sao; gia đình các em như thế nào, có người hiểu biết, bảo vệ và chăm sóc các em hay không; họ hàng, ông bà, cô, dì, chú, bác,... của các em như thế nào, liệu có thể có tác động tích cực trong việc ngăn ngừa đối tượng gây bạo lực và động viên, giúp đỡ nạn nhân không; lớp học, nhà trường có quy định gì liên quan hoặc có cơ chế gì giúp cho việc chia sẻ, báo cáo và xử lí vụ việc bạo lực hay không... Chính từ việc phân tích một cách tổng thể, có hệ thống những yếu tố tác động gây ra hành vi bạo lực, cũng như những yếu tố bảo vệ, trợ giúp nạn nhân mà nhân viên CTXH có thể tham vấn cho HS và các bên liên quan để đưa ra những giải pháp can thiệp phù hợp từ cấp độ vi mô, trung mô đến vĩ mô - tùy từng vụ việc cụ thể và kết quả phân tích, đánh giá hệ thống sinh thái cụ thể đối với từng trường hợp khác nhau. Trong quá trình làm việc với HS, đặc biệt là HS liên quan đến BLHĐ, nhân viên CTXH cần đảm bảo các nguyên tắc là: bảo vệ, đảm bảo quyền lợi, đảm bảo tính chủ thể, đảm bảo cơ hội để phát triển và quan tâm [19]. 3. Kết luận Bạo lực trong trường học hiện nay đang là một vấn nạn trong trường học, diễn ra ở nhiều cấp, bậc học khác nhau, với nhiều hình thức đa dạng và phức tạp. Hiện tượng này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến học tập, tâm lí và cuộc sống của HS sau này, thể hiện sự xói mòn đạo đức nghiêm trọng trong môi trường giáo dục. Bên cạnh các yếu tố thuộc về cá nhân, thì nhóm yếu tố môi trường xã hội bao gồm gia đình, nhà trường, mối quan hệ bạn bè và các yếu tố xã hội khác được cho là có mối quan hệ chặt chẽ và là nguyên nhân dẫn tới BLHĐ. Do vậy, nhân viên CTXH trường học cần vận dụng các lí thuyết về tâm lí xã hội, CTXH để giải quyết tốt mối quan hệ giữa HS với gia đình, bạn bè, nhà trường và xã hội góp phần phòng ngừa, can thiệp, hỗ trợ HS có liên quan đến BLHĐ, thực hiện môi trường học đường an toàn, thân thiện, bình đẳng hướng tới xây dựng “Nhà trường thân thiện, HS tích cực”. Bài viết này là kết quả của đề tài cấp Bộ “Mô hình công tác xã hội nhóm trong hỗ trợ học sinh có biểu hiện rối nhiễu hành vi trong trường học”, MS: B2017 - SPH - 42. Tài liệu tham khảo [1] Furlong and Gale Morison (200). School Violence: Definitions and Facts. Journal of emotional and behavioral disorders, Vol.8, No. 2, pp. 71-82. [2] Chính phủ (2017). Nghị quyết số 80/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 quy định về môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực học đường. [3] Phan Thị Mai Hương (2009). Thực trạng bạo lực học đường hiện nay. Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc VJE Tạp chí Giáo dục, Số 448 (Kì 2 - 2/2019), tr 26-31 31 tế: Nhu cầu định hướng và đào tạo Tâm lí học đường tại Việt Nam, Hà Nội, tr 28-32. [4] Huỳnh Văn Sơn (2016). Bạo lực học đường - Cần có cái nhìn khoa học về khái niệm. Kỉ yếu Hội thảo Thực trạng và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường trong trường phổ thông, Hà Nội, tr 60-65. [5] Nguyễn Văn Tường (2013). Công tác xã hội trường học và cơ chế phòng ngừa hành vi bạo lực học đường. Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Nâng cao tính chuyên nghiệp công tác xã hội vì phát triển và hội nhập” do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức. NXB Đại học Sư phạm, tr 568-575. [6] Nguyễn Văn Lượt (2009). Bạo lực học đường nguyên nhân và một số biện pháp hạn chế. Kỉ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc: Nhà trường Việt Nam trong một nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, TP. Hồ Chí Minh 11/2009, tr 322-325. [7] [7] Nguyễn Đắc Thanh (2013). Phân loại bạo lực học đường giữa học sinh và học sinh bậc trung học hiện nay. Tạp chí Giáo dục, số 310, tr 9-11. [8] Urie Bronfenbrenner (1979). The Ecology of Human Development Experiments by nature and design. Harverd university press Cambridge, Masschusets and London, England. [9] Phan Thị Mai Hương (2007). Cách ứng phó của trẻ vị thành niên với hoàn cảnh khó khăn. NXB Khoa học xã hội. [10] Mikayo Ando-Takashi Asakura-Bruce Simons- Morton (2005). Psychosocial Influences on Physical, Verbal, and Indirect Bullying Among Japanese Early Adolescents. The Journal of Early Adolescence, Vol. 25; No. 268. [11] Ji-Kang Chen (2008). School social dynamics as mediators of students’ personal traots and family factors on the perpetration of school violence in Taiwan. Doctor of philosophy (Social work). [12] Kristin D. Eisenbraun (2007). Violence in schools: Prevalence, prediction, and prevention. Aggression and Violent Behavior, pp. 459-469. [13] Stuart Henry (2000). What Is School Violence? An Integrated Definition. The ANNALS of the American Academy of Political and Social Science, Vol. 567, issue 1, pp. 16-29. [14] Đinh Anh Tuấn (2015). Bạo lực học đường trong học sinh trung học trên địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định hiện nay: Thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng. Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xã hội học. [15] Đỗ Ngọc Khanh (2014). Một số yếu tố chi phối bạo lực học đường nhìn từ góc độ hành vi. Tạp chí Tâm lí học, số 11 (188), tr 36-49. [16] Phan Đức Nam (2016). Một số đặc trưng xã hội và nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng bắt nạt trong học sinh trung học phổ thông hiện nay. Tạp chí Xã hội học, số 4 (136), tr 55-66. [17] Dương Thị Thu Hương (2016). Các yếu tố xã hội có liên quan đến hành vi bạo lực học đường của học sinh trung học phổ thông tại Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 4, tr 51-63. [18] Phạm Minh Thu (2017). Hành vi bạo lực học đường của học sinh. Tạp chí Tâm lí học, số 5 (218), tr 54-66. [19] Nguyễn Văn Tường (2012). Những khó khăn trong việc thực hiện các nguyên tắc đạo đức của người làm công tác xã hội thanh thiếu niên. Kỉ yếu khoa học Hội thảo quốc tế về chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về công tác xã hội và an sinh xã hội. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 410-419. [20] Holan Liang - Alan J. Flisher B - Carl J. Lombard C (2007). Bullying, violence, and risk behavior in South African school students. Child Abuse & Neglect, Vol. 31, pp. 161-171. [21] Killam-Wendy K. Roland-Catherine B. Weber-Bill (2014). Violence Prevention in Middle School: A Preliminary Study. Michigan Journal of Counseling, Vol. 40, No. 2, Fall-Winter. [22] Lưu Song Hà (2004). Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Tạp chí Tâm lí học, số 7, tr 44-47. KÍNH MỜI BẠN ĐỌC ĐẶT MUA TẠP CHÍ GIÁO DỤC NĂM 2019 Tạp chí Giáo dục ra 1 tháng 2 kì, đặt mua thuận tiện tại các bưu cục địa phương, (Mã số C192) hoặc đặt mua trực tiếp tại Tòa soạn (số lượng lớn) theo địa chỉ: TẠP CHÍ GIÁO DỤC, 4 Trịnh Hoài Đức, quận Đống Đa, Hà Nội. Kính mời bạn đọc, các đơn vị giáo dục, trường học đặt mua Tạp chí Giáo dục năm 2019. Mọi liên hệ xin gửi về địa chỉ trên hoặc liên lạc qua số điện thoại: 024.37345363; Fax: 024.37345363. Xin trân trọng cảm ơn. TẠP CHÍ GIÁO DỤC
File đính kèm:
- mot_so_nghien_cuu_ve_moi_quan_he_giua_cac_yeu_to_moi_truong.pdf