Một số vấn đề về âm điệu 7 bản Lễ Nhạc Tài tử Nam Bộ
Tóm tắt
Như chúng ta biết, Nhạc Tài tử Nam bộ – một trong những thể loại âm nhạc mới mà ông cha ta đã sáng
tạo nên - bắt nguồn từ sự kế thừa truyền thống văn hoá – âm nhạc nơi quê cha đất tổ ở phương Bắc kết
hợp với truyền thống văn hoá – âm nhạc của các cư dân bản địa ở phương Nam. Trong quá trình hình
thành nghệ thuật biểu diễn âm nhạc Tài tử Nam Bộ đã xuất hiện những nghệ nhân, nghệ sĩ có tiếng tăm
mà những ai đã yêu loại hình âm nhạc này không thể không biết. Đó là những người chơi đàn điêu
luyện, có kỹ thuật diễn tấu cao và nắm bắt được những phong cách trong biểu diễn nhạc Tài tử Nam Bộ
và cùng nhau sáng tạo nên những giai điệu rất đỗi bình dị nhưng mang đầy tính phóng khoáng, sáng tạo.
Đặc trưng trong thể loại âm nhạc này là: tính diễn xướng với những sáng tạo tại chỗ; tính chuyên nghiệp
trong trình tấu và cảm thụ; tính dị bản và tính ngẫu hứng trong diễn tấu.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về âm điệu 7 bản Lễ Nhạc Tài tử Nam Bộ
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 (49) - Thaùng 01/2017 144 Một số vấn đề về âm điệu 7 bản Lễ Nhạc Tài tử Nam Bộ Some points about Southern “Tài tử” Music’s 7 “Lễ” pieces TS. Bùi Thiên Hoàng Quân Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh Bui Thien Hoang Quan, Ph.D. Music Institute Ho Chi Minh City Tóm tắt Như chúng ta biết, Nhạc Tài tử Nam bộ – một trong những thể loại âm nhạc mới mà ông cha ta đã sáng tạo nên - bắt nguồn từ sự kế thừa truyền thống văn hoá – âm nhạc nơi quê cha đất tổ ở phương Bắc kết hợp với truyền thống văn hoá – âm nhạc của các cư dân bản địa ở phương Nam. Trong quá trình hình thành nghệ thuật biểu diễn âm nhạc Tài tử Nam Bộ đã xuất hiện những nghệ nhân, nghệ sĩ có tiếng tăm mà những ai đã yêu loại hình âm nhạc này không thể không biết. Đó là những người chơi đàn điêu luyện, có kỹ thuật diễn tấu cao và nắm bắt được những phong cách trong biểu diễn nhạc Tài tử Nam Bộ và cùng nhau sáng tạo nên những giai điệu rất đỗi bình dị nhưng mang đầy tính phóng khoáng, sáng tạo. Đặc trưng trong thể loại âm nhạc này là: tính diễn xướng với những sáng tạo tại chỗ; tính chuyên nghiệp trong trình tấu và cảm thụ; tính dị bản và tính ngẫu hứng trong diễn tấu. Từ khóa: nhạc Tài tử, Nam Bộ, âm điệu, bản Lễ. Abstract As we have known, Southern “Tài tử” music, one of a few new style of style invented by our ancestor, originated from the combination of our fatherland – the North’s and the South’s musical culture inheritance. In the process of developing the southern “Tài tử”’s music art, many famous artists have become legends among the lovers of this specific music style. They possess expert performing skill, high techniques and grasp of wide variations of styles in the southern “Tài tử” music art. Together, they have created simple tones, yet generous and creative. The characteristic of this music style is: high performance property created by creativity on stage, professionalism within delivery and feeling, variants and whymsical of performance. Keywords: “Tài tử” music, Southern Vietnam, tone, “Lễ” pieces. 1. Âm điệu các bài bản Ngoài các yếu tố để được xác định là một điệu thức theo âm nhạc cổ điển phương Tây, điệu thức của âm nhạc cổ truyền Việt Nam cần phải có thêm yếu tố xác định các âm bị “nhấn nhá”. Giáo sư Trần Văn Khê khi so sánh điệu Bắc và điệu Nam, ông dựa vào 7 yếu tố: thang âm, âm mở đầu và âm kết thúc bài bản, nhịp độ, số nhịp trong câu, cách tô điểm âm, cách lên dây đàn Tranh, Kìm, Cò và tính chất vui, buồn của bản nhạc. Để làm rõ nhận định trên, chúng ta có thể phân tích trực tiếp trên các bài bản. Từ bản Phú Lục Chấn, (câu 1), ta xác định thang âm của đoạn nhạc trên là: 145 Ta xác định thang âm của đoạn nhạc trên là: Với thang âm trên, khi được thể hiện trên đàn Piano, chắc chắn chúng ta không có được hiệu quả của một bản nhạc Tài tử. Chúng ta có thể thay đổi cách xử lý các âm như sau: Nếu ta xử lý thang âm trên bằng một cách khác: Đây là Thang âm – Điệu thức Bắc. Cách xử lý ở đây là sự tác động vào các âm bằng những kỹ thuật rung, vỗ1. Từ đó, chúng ta thấy thang âm điệu thức sẽ thay đổi khi chúng ta thay đổi cách xử lý, để từ một thang âm cố định nào đó, với nhiều cách xử lý khác nhau ta sẽ có nhiều thang âm khác nhau. Điều đó chứng minh rằng việc xử lý các âm trong các bài bản Tài tử rất tinh tế. Ngoài ra, một số các nhạc sĩ cho rằng thang âm Việt Nam là “thang bảy bậc chia đều2”. Đối với âm nhạc cổ truyền Việt Nam nói chung hay nhạc Tài tử Nam bộ nói riêng, quan niệm thang âm cần phải bao hàm cả hệ thống điệu thức và hơi. Từ các đặc điểm của thang âm điệu thức trong nhạc Tài tử Nam bộ, chúng tôi có những nhận định như sau: - Từ khi có nhạc Tài tử, thuật ngữ “Hơi” mới xuất hiện trong lý thuyết âm nhạc Việt. Có nhiều cách hiểu về Hơi, tuy nhiên, phải khẳng định rằng đối với nhạc Tài tử Nam bộ, “Hơi” là điều không thể thiếu, không cần phải tranh cãi mà phải tuân thủ một cách tuyệt đối. - Để bảo đảm được sự chính xác của các bài bản trong nhạc Tài tử, phân định rõ vai trò, tính chất và cách xử lý của từng bậc trong thang âm, chúng tôi sẽ dùng thuật ngữ Thang âm – Điệu thức – Hơi. - Việc thêm bớt âm, luyến láy, trong âm nhạc Tài tử là những việc bình thường và cũng nhờ đó mà tính chất của các bài bản Tài tử đều được thể hiện một cách trọn vẹn, hiệu quả của âm nhạc Tài tử đạt đến mức sinh động cần thiết của nó. 146 Chúng tôi cho Thang âm – Điệu thức Bắc và Thang âm – Điệu thức Nam là thang âm “Gốc” hay thang âm “Cấu tạo3” và chủ yếu giới thiệu hai loại thang âm điệu thức này và từ đó ta sẽ có các Thang âm – Điệu thức – Hơi khác. 2. Đặc điểm âm điệu của bảy bản Lễ Vì còn được gọi là bảy bản Bắc lớn nên bảy bản Lễ thuộc thang âm – điệu thức Bắc cùng cách xử lý các bậc gần như giống nhau, riêng về tính chất thì hướng về sự trang nghiêm. Tuy cùng thang âm – điệu thức nhưng việc xử lý hai âm bậc II và VI có khác ở chỗ chúng được rung mạnh hơn so với các bản Bắc Bắc. Lối tiến hành giai điệu đặc thù được thể hiện rõ nét qua diễn tấu của đàn Nhị – nhạc cụ chủ lực trong dàn nhạc Lễ – Cùng sự xuất hiện thường xuyên của 2 âm chữ I (bậc III) và chữ Phan (bậc VII). Kết hợp với cách xử lý của các bậc, việc chuẩn bị cho kết câu, các bài bản trong bộ bảy bản Lễ khi được trình tấu vẫn mang một phong cách riêng của nó và chắc chắn không nhầm lẫn với các bài bản trong bộ sáu bản Bắc được. 147 Đặc biệt, việc giai điệu thường kết câu ở âm bậc II đã tạo cho người nghe cảm giác có sự luân chuyển thang âm trong bài bản, giống với thang âm – điệu thức Nam – Oán nhưng như đã trình bày, bằng cách riêng của mình, “Lễ” không thể là “Nam” được. Bản Ngũ Đối Hạ, lớp 1, 4 câu. Thang âm của đoạn nhạc trên là Nếu lấy bậc II làm chủ âm, ta có dạng II của thang âm trên như sau: Giống với thang âm – điệu thức Nam – Oán nhưng cách xử lý các bậc khác nhau: Phân tích bản Ngũ Đối Hạ, lớp I, 4 câu, ta thấy các bậc trong thang âm được xử lý như sau: Bậc I vẫn là bậc ổn định, làm chỗ dựa cho các bậc khác trong thang âm. Âm bậc I được giữ vững, không chịu tác động của rung hay vỗ. Tuy nhiên, đôi khi ta thấy âm bậc I được đẩy lên bậc II rung, sau đó trả về bậc I, gần như vỗ, đó là khi âm được đặt ở cuối câu hoặc ngân dài, điều này làm cho âm nhạc sinh động hơn. Trong tiến hành giai điệu, âm bậc I di chuyển liền bậc hoặc nhảy tự do vào các bậc khác và cả nhảy quãng 8 một cách tự nhiên. Khi âm bậc I được đặt ở cuối câu thì ở phách 1, nhịp 4 của câu trước đó sẽ thường là âm bậc VI, 148 đôi khi là bậc II và ít hơn nữa là âm bậc V. Trong bảy bản Lễ, âm bậc I thường dùng cho mở đầu, kết lớp và kết bản nhạc. Khi được đặt ở vị trí cuối câu, ngân dài, âm bậc I sẽ được đẩy lên bậc II rung và trả về bậc I. Tùy theo độ dài của âm bậc I, việc đẩy lên âm bậc II sẽ có tiết tấu tương ứng sẽ được xử lý Hay sẽ được xử lý Bậc II trong thang âm là bậc không ổn định, có chức năng lướt. Tuy nhiên, như đã nêu, trong bộ bảy bản Lễ, bậc II đã được sử dụng gần như bậc chính của bản nhạc. Ngoại trừ kết không có ở bậc này, còn lại từ mở đầu đến kết câu hay kết lớp ta đều thấy sự xuất hiện rất nhiều lần của bậc II. Trong thang âm, bậc II được xử lý bằng kỹ thuật rung. Khi tiến hành giai điệu, ta thấy âm bậc II thường có khuynh hướng tiến lên bậc IV, về bậc I và có thể nhảy quãng tự do vào các âm bậc khác, kể cả nhảy quãng 7 vào âm bậc I ở trên, điều mà trong sáu bản Bắc không thấy có. Khi âm bậc II ở vị trí kết câu, chúng ta thường sẽ gặp ở phách 1, nhịp thứ 4 là bậc V, bậc VI và đặc biệt chính là âm bậc II. Bậc IV cũng được xem là bậc ổn định thứ hai trong thang âm nhưng không rõ nét bằng sáu bản Bắc. Âm bậc IV được giữ đứng yên, không rung hay vỗ, tuy nhiên, khi âm được đặt ở vị trí cuối câu, ngân dài, ta thường thấy bậc IV được đẩy lên bậc V và trả về, gần như vỗ để làm cho cảm giác âm nhạc được đầy đủ hơn. Trong tiến hành giai điệu, âm bậc IV thường có khuynh hướng về bậc I, II, tiến lên bậc V và âm bậc I, ít khi nhảy vào âm bậc VI. Khi tiến hành lên âm bậc I, âm bậc IV thường được láy từ âm bậc V về, tạo nên cảm giác mềm mại cho người nghe. Khi âm bậc IV được đặt ở cuối câu, thì ở phách 1, nhịp 4 của câu trước đó thường là âm bậc VI. Trong bảy bản Lễ, âm bậc IV thường dùng cho mở đầu và kết thúc, không thấy dùng trong kết lớp. Khi được đặt ở vị trí cuối câu, ngân dài, âm bậc IV sẽ được đẩy lên bậc V sau đó trả về bậc IV. Tùy theo độ dài của âm bậc IV, việc đẩy lên âm bậc V sẽ có tiết tấu tương ứng. sẽ được xử lý Hay sẽ được xử lý Khi tiến hành về âm bậc I, âm bậc IV thường được láy từ âm bậc V về Bậc V là bậc không ổn định, có chức năng lướt, tuy nhiên, cũng như bậc II, âm bậc V là âm trục của bài nên ta thường thấy âm bậc này được đặt ở vị trí mở đầu, kết câu cũng như kết lớp. Trong thang âm, âm bậc V được xử lý bằng kỹ thuật vỗ. Khi tiến hành giai điệu, âm bậc V thường tiến hành về âm bậc IV, đi lên âm bậc VI, nhảy 149 vào âm bậc I nhưng không thấy tiến hành bước nhảy về âm bậc II. Âm bậc V khi đặt ở vị trí cuối câu, ta thường nhận ra âm bậc II hay bậc VI xuất hiện ở phách 1, nhịp 4 của câu trước. Trong bảy bản Lễ, âm bậc này không được dùng cho kết bản nhạc. Bậc VI là bậc không ổn định trong thang âm và có chức năng lướt. Như âm bậc II, âm bậc VI được xử lý bằng kỹ thuật rung nhưng rung mạnh hơn, nặng nề hơn so với rung bậc VI trong sáu bản Bắc. Trong tiến hành giai điệu, âm bậc VI thường được di chuyển xuống liền bậc về âm bậc V, hướng lên âm bậc I, nhảy quãng vào âm bậc II rất tự nhiên nhưng lại hiếm thấy nhảy vào âm bậc IV, đặc biệt với bước nhảy vào âm chữ I – bậc III đã tạo tính “Lễ” một cách rõ nét. Khi âm bậc VI được đặt ở vị trí cuối câu, ngân dài, âm thường được đưa lên âm bậc I rồi sau đó trả về, gần như vỗ hoặc được đưa lên âm bậc I rồi vuốt trở về, lướt qua âm bậc VII. Tuy là bậc không ổn định nhưng ta cũng thường thấy bậc này được dùng khi kết câu hay kết lớp và tạo nên cảm giác kết không trọn vẹn cho người nghe. Âm bậc VI khi được đặt ở cuối câu thì ở phách 1, nhịp 4 của câu nhạc trướcđó sẽ thường là âm bậc II và V, ít khi có âm bậc I. Chúng ta hoàn toàn không thấy dùng âm bậc này cho kết bản nhạc. Khi được đặt ở vị trí cuối câu, ngân dài, âm bậc VI sẽ được đẩy lên bậc I sau đó trả về. Tùy theo độ dài của âm bậc VI, việc đẩy lên âm bậc I sẽ có tiết tấu tương ứng. sẽ được xử lý Hay sẽ được xử lý hoặc lướt qua âm bậc VII Âm bậc III – khi âm bậc II, chữ Xư hay U, được nhấn mạnh sẽ tạo ra âm chữ I và là âm ngoại. Tuy được xem là âm ngoại và có chức năng lướt nhưng đôi khi nó cũng được đặt ở vị trí chính và đã tạo sự mới lạ trong âm nhạc, thảnh thơi hơn cũng như ra chất “Lễ” hơn, giới nhạc Tài tử hay nhạc Lễ còn gọi âm này là chữ “Hạ”. Âm bậc III đứng yên, không được rung hay vỗ. Trong tiến hành giai điệu, âm bậc III thường được di chuyển xuống liền bậc về âm bậc II và nhảy vào âm bậc V. Bước đi âm điệu rõ nét nhất là từ âm bậc này vuốt lên âm bậc V rồi trở về với nó. Âm bậc III không được dùng cho mở đầu, kết câu, kết lớp hay kết bản nhạc. Vuốt từ âm bậc III lên âm bậc V rồi vuốt về bậc III, tạo nên âm điệu độc đáo Âm bậc VII – khi âm bậc VI, chữ Công, được nhấn mạnh hơn một chút sẽ tạo thành âm chữ Phan, bậc VII, âm ngoại. Âm bậc VII hoàn toàn giữ chức năng lướt, không rung hay vỗ và thường xuất hiện khi 150 gần kết câu nhạc – nhịp thứ tư – và dứt câu với âm bậc I (chữ Liu). Trong tiến hành giai điệu, âm bậc VII thường bị hút vào âm bậc I, di chuyển xuống liền bậc về âm bậc VI, đôi khi nhảy quãng năm vào âm bậc IV.Âm bậc VII không được dùng cho mở đầu, kết câu, kết lớp hay kết bản nhạc. Với trục của bảy bản Lễ là hai âm Xê – U (bậc V và bậc II), do đó kết câu, kết lớp và kết bản nhạc thường ở hai bậc này. Với âm bậc II và bậc VI được rung mạnh hơn, khỏe hơn so với rung trong điệu Bắc, cùng sự xuất hiện của hai âm I và Phan, đã tạo nên một trong những nét khác biệt cơ bản khi so sánh giữa hơi Bắc và hơi Lễ. Trong các lối tiến hành của các bậc, rõ nhất là lối tiến hành từ âm bậc VI về âm bậc I. Với cách xử lý rung âm bậc VI rồi vuốt hay nhấn lên âm bậc I rồi trả về thể hiện rõ phong cách của các bản Lễ. Nối tiếp VI – I, âm bậc VI sẽ rung mạnh và hướng lên âm bậc I, với các tiết tấu đen, móc đơn, móc đôi, có thể đảo phách. Bản Ngũ Đối Hạ, lớp I, 4 câu Thêm vào đó là kiểu bước lần của nối tiếp VI – V – IV cùng các biến dạng gần như trong các bản Bắc Với các tiết tấu móc đơn, móc đôi, có thể đảo phách 1. VI – V – IV, âm bậc IV phách mạnh hay mạnh vừa. 2. VI – V – IV – I hoặc II, âm bậc I hoặc II phách mạnh hay mạnh vừa. 3. Tổng hợp 1 và 2 151 Nối tiếp IV – V – IV – V – VI hay I tạo nên hiệu quả như láy âm bậc IV để vào bậc VI hay bậc I Với các tiết tấu móc đơn, móc đôi, Âm bậc VI hay bậc I ở phách mạnh hay mạnh vừa. Nối tiếp VI – V – VI – I – V như trong các bản Bắc nhưng khi hai âm bậc VI và I xuống quãng 8 thì phong cách đã khác đi. Với các tiết tấu móc đơn, móc đôi, Âm bậc V hay bậc I ở phách mạnh hay mạnh vừa. 152 Nối tiếp VI – V – VI (thấp hơn quãng 8) – I Với tiết tấu móc đơn, đảo phách 153 Các bước nhảy xuống quãng 4, 5 giữa âm bậc I và V, VI với II hay VI với I, bước nhảy quãng 5 từ bậc V lên bậc II, đặc biệt với bước nhảy xuống quãng 7 từ bậc V qua bậc VI mà trong các bản Bắc không thấy và bước nhảy xuống quãng 8 của âm bậc I. Các lối nối tiếp các bậc rõ nét, các bước nhảy đặc thù, các nối tiếp của tiết tấu cùng các xử lý rung, vỗ các bậc trong thang âm kết hợp với tính năng của từng loại nhạc cụ, những giai điệu mang phong cách Lễ sẽ rất dễ nhận ra trong nhạc Tài tử. Chú thích: (1) Tác giả, âm vỗ cao hơn âm bị vỗ một bậc trong thang âm ngũ cung. Ví dụ: bậc V (Rê) vỗ, âm vỗ là Mi ; nếu bậc VI (Mi) vỗ, âm vỗ là Sol. (2) Hoàng Kiều (1983), “Thử tìm hiểu định luật nhạc cổ truyền của người Việt vùng châu Thổ sông Hồng”, Tạp chí Nghệ Thuật (1). (3) Vũ Nhật Thăng (1994), Thang âm điệu thức nhạc Tài tử Cải lương, Luận văn Phó Tiến sĩ, Hà Nội, tr. 80. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học Xã hội. 2. Nguyễn Hữu Ba (1970), Nhạc pháp quốc nhạc, Trường QGAN & Kịch nghệ Sài Gòn. 3. Hoàng Đạm (1982), “Những phương pháp hoà tấu cổ truyền và vấn đề ứng dụng chúng trong sáng tác mới”, Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật. 4. Trần Văn Khê (1962), La musique vietnamienne traditionnelle, PUF, Paris. 5. Hoàng Kiều (1983), “Thử tìm hiểu định luật nhạc cổ truyền của người Việt vùng châu Thổ sông Hồng”, Tạp chí Nghệ thuật (1). 6. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2010), “Nhạc khí trong “dàn đờn” Tài tử (Nam Bộ)”, ANVN, số 13. 7. Nguyễn Thụy Loan (1990), Lược sử âm nhạc Việt Nam, Nxb Âm nhạc Hà Nội, Nhạc Viện Hà Nội. 8. Đắc Nhẫn (1990), Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, NXB Khoa học Xã hội. 154 9. Vũ Nhật Thăng (1976), Một số nguyên tắc hòa tấu các bản Bắc của dàn nhạc hòa tấu tài tử Nam bộ, Luận văn tốt nghiệp đại học, Nhạc Viện Hà Nội. 10. Vũ Nhật Thăng (1994), Thang âm điệu thức nhạc Tài tử Cải lương, Luận văn Phó Tiến sĩ, Hà Nội. 11. Lê Thương (1963), Nhạc lý quốc nhạc, Nxb Nhạc Thư. 12. Trương Bỉnh Tòng (1992), Từ điệu đến hơi và quá trình hình thành bản Vọng Cổ, Viện nghiên cứu Cải lương. Ngày nhận bài: 07/12/2016 Biên tập xong: 15/01/2017 Duyệt đăng: 20/01/2017
File đính kèm:
- mot_so_van_de_ve_am_dieu_7_ban_le_nhac_tai_tu_nam_bo.pdf