Một vài nét về tâm lý học tộc người

Tóm tắt: Tâm lý học tộc người (ethno-psychology) không phải là một bộ môn nghiên cứu

mới mẻ trên thế giới, nhưng phân ngành này lại tương đối lạ lẫm và mang tính cấp thiết

nhất định ở một quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa như Việt Nam. Tâm lý học tộc người là

một phân ngành mang tính chất liên ngành của tâm lý học, nghiên cứu mối quan hệ giữa

văn hóa và tâm lý, sự tương tác giữa yếu tố bên trong - cá nhân và bên ngoài - xã hội. Bài

viết làm rõ khái niệm tâm lý học tộc người, khái quát các hướng tiếp cận nghiên cứu tâm

lý tộc người, như phân tâm học (của Sigmund Freud), tâm bệnh học (của George

Devereux, Abram Kardiner), văn hóa và nhân cách (của Ruth Benedict, Margaret Mead)

cùng các phương pháp nghiên cứu, đồng thời chỉ ra tính khả quan của việc ứng dụng các

mô hình nghiên cứu tâm lý tộc người trên thế giới nhằm khắc phục một số hạn chế, tồn tại

trong nghiên cứu tâm lý tộc người ở Việt Nam hiện nay.

pdf 10 trang yennguyen 3520
Bạn đang xem tài liệu "Một vài nét về tâm lý học tộc người", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một vài nét về tâm lý học tộc người

Một vài nét về tâm lý học tộc người
1. Đặt vấn đề
Tâm lý học tộc người đã xuất hiện trên
thế giới từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
và trở thành một bộ môn khoa học hoàn 
chỉnh, có đối tượng, lý thuyết và phương
pháp nghiên cứu. Ở Việt Nam, tâm lý học
tộc người là một lĩnh vực mới, nằm giữa
nhiều ngành khoa học xã hội - tâm lý học
(tâm lý học xã hội - văn hóa), dân tộc học và
nhân học, văn hóa học, thậm chí mở rộng ra
cả xã hội học và sinh học. Tâm lý tộc người
có xuất hiện trong các nghiên cứu trường
Một vài nét về tâm lý học tộc người 
Phạm Minh Quân(*)
Tóm tắt: Tâm lý học tộc người (ethno-psychology) không phải là một bộ môn nghiên cứu
mới mẻ trên thế giới, nhưng phân ngành này lại tương đối lạ lẫm và mang tính cấp thiết
nhất định ở một quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa như Việt Nam. Tâm lý học tộc người là
một phân ngành mang tính chất liên ngành của tâm lý học, nghiên cứu mối quan hệ giữa
văn hóa và tâm lý, sự tương tác giữa yếu tố bên trong - cá nhân và bên ngoài - xã hội. Bài
viết làm rõ khái niệm tâm lý học tộc người, khái quát các hướng tiếp cận nghiên cứu tâm
lý tộc người, như phân tâm học (của Sigmund Freud), tâm bệnh học (của George
Devereux, Abram Kardiner), văn hóa và nhân cách (của Ruth Benedict, Margaret Mead)
cùng các phương pháp nghiên cứu, đồng thời chỉ ra tính khả quan của việc ứng dụng các
mô hình nghiên cứu tâm lý tộc người trên thế giới nhằm khắc phục một số hạn chế, tồn tại
trong nghiên cứu tâm lý tộc người ở Việt Nam hiện nay. 
Từ khóa: Tâm lý, Tâm lý học tộc người, Tộc người
Abstract: Recognized worldwide, however, ethno-psychology remains a rather unfamiliar
and yet necessary academic discipline in Vietnam, a multi-ethnic and culturally diverse
country. It is an interdisciplinary subfield of psychology which studies the relationship
between culture and psychology, the interaction between internal and external, or
individual and social factors. The article provides a conceptual definition of ethno-
psychology, followed by a generalization of its several approaches - such as
psychoanalysis (by Sigmund Freud), psychopathology (by George Devereux and Abram
Kardiner), culture and personality (by Ruth Benedict and Margaret Mead) - and relevant
methods. Another output of the research is to examine the possibility of employing such
research models to tackle existing limitations in Vietnamese ethno-psychology today.
Keywords: Psychology, Ethno-psychology, Ethnics
(*) ThS., Viện Nhân học Văn hóa (thuộc Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam); Email:
quanpham2212@gmail.com
hợp đơn lẻ thuộc từng ngành trên, nhưng chỉ
với vai trò là luận chứng góp phần bổ sung
chứng minh cho giả thuyết, mang tính chất
đề cập, mô tả, liệt kê mờ nhạt, không chuyên
sâu và triệt để. Trong những nghiên cứu
nhân học hay văn hóa học về biến đổi văn
hóa, tâm lý tộc người được đề cập để giải
thích phần nào những biến đổi của cộng
đồng, bên cạnh những biến đổi cụ thể dễ
thấy như sinh kế, phương thức sản xuất, các
mô thức phong tục, trang phục... Thực tế
trên phản ánh bản chất của tâm lý học tộc
người là một bộ môn liên ngành, vận dụng
tri thức, phương pháp, thao tác của nhiều
ngành khoa học khác nhau, trong đó lý
thuyết tâm lý học đóng vai trò chủ đạo.
Ở Việt Nam, tâm lý tộc người thường
được đưa vào trong một vấn đề bao trùm -
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nếu ở phương Tây, tâm lý tộc người là sự
khái quát hóa những đặc điểm tâm lý điển
hình, để hướng tới các phạm trù phổ quát
như “tính cách dân tộc/quốc gia”, “cá tính
dân tộc”, “bản tính tộc loại”, thì ở Việt
Nam, bản sắc văn hóa là phạm trù phổ biến
để minh họa cho tâm lý tộc người. Nó dẫn
tới nảy sinh một song đề liên quan tới đặc
điểm dân cư của Việt Nam, là sự đa dạng
dân tộc được cấu thành bởi 54 dân tộc với
sự phân bổ phong phú trên địa bàn lãnh thổ.
Song đề đối lập giữa nghiên cứu tâm lý/tính
cách của người Việt một cách đồng nhất,
tổng thể, người Việt Nam với tư cách là một
chỉnh thể toàn vẹn, và nghiên cứu tâm lý
của từng tộc người riêng biệt, bộ phận với
những đặc trưng riêng. 
2. Khái niệm
Để tiếp cận khái niệm tâm lý học tộc
người, trước hết cần làm rõ cách sử dụng
thuật ngữ dân tộc. Ở Việt Nam, thuật ngữ
dân tộc được sử dụng không thống nhất
trong nhiều tài liệu, để chỉ hai đối tượng
khác nhau. Do đó, cần phân biệt rõ hai thuật
ngữ dân tộc - quốc gia (nation) và dân tộc -
tộc người (ethnic). Dân tộc - quốc gia dùng
để chỉ cộng đồng người ổn định được cố kết
dựa trên cơ sở cùng một lãnh thổ có biên
giới xác định, ngôn ngữ, đời sống kinh tế,
phong tục văn hóa và một thể chế chính trị,
ví dụ như dân tộc Việt Nam, dân tộc Nga,
dân tộc Đức Còn dân tộc - tộc người
dùng để chỉ một nhóm người có chung ngôn
ngữ, đời sống kinh tế và văn hóa trên một
phạm vi cư trú, như dân tộc Mường, Dao,
Thái... Một quốc gia có thể được cấu thành
nên từ nhiều tộc người. Các nhà dân tộc học
và nhân học ở Việt Nam chủ yếu sử dụng
“tộc người” làm thuật ngữ nghiên cứu, điển
hình như Từ Chi (Từ Chi, 1997).
Hai khái niệm khác cần phân biệt là
chủng tộc (race) và dân tộc - tộc người
(ethnic). Đã tồn tại những tranh luận về sự
phân biệt giữa tộc người và chủng tộc, bản
sắc tộc người và bản sắc chủng tộc (Thomas
Teo, 2014). Cách phân biệt cụ thể nhất là so
sánh bản chất của hai thuật ngữ. Thuật ngữ
“tộc người” vốn bắt nguồn từ chữ Hy Lạp
cổ ethnos dùng để chỉ “quốc gia, con người”.
Hiệp hội Tâm lý học Mỹ (American
Psychological Association - APA) cho rằng,
tộc người, cũng giống như chủng tộc và văn
hóa, không có một định nghĩa cố định,
nhưng đề cập tộc người là sự chấp nhận các
phong tục tập quán, đồng thời là sự thực
hành tập thể văn hóa gốc cũng như cảm giác
thuộc về văn hóa đó của các thành viên
(American Psychological Association,
2002). Một tộc người là một nhóm cư dân
mà các thành viên của nó được nhận diện
trên cơ sở cùng cư trú trên một quốc gia hoặc
những truyền thống văn hóa được chia sẻ
chung, hoặc theo như C. Jung (Xem: Đỗ Lai
12 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 1.2018
13Một vši n˙t về§
Thúy, 2000) là sự di truyền văn hóa từ
những cổ mẫu (archetype). Một tộc người có
những đặc điểm văn hóa và lịch sử hình
thành chung, thậm chí có các đặc điểm
chung về tín ngưỡng, tôn giáo và ngôn ngữ.
Theo cách định nghĩa lỏng lẻo về tộc người
thì người da đỏ bản địa Mỹ là một tộc người,
còn theo cách định nghĩa chặt chẽ hơn thì nó
chỉ các tiểu tộc người như tộc người Sioux,
Kwakiutl, Pueblo ở Mỹ, hay tộc người
Hmông, Mường, Tày ở Việt Nam. Còn thuật
ngữ “chủng tộc” đề cập đến việc phân loại
con người thành các nhóm hoặc quần thể
dựa trên cơ sở các đặc điểm hình thể tương
đồng, mang tính chất di truyền sinh học hoặc
từ cùng một nhóm tổ tiên. Màu da là đặc
điểm sinh học rõ ràng nhất để phân biệt
chủng tộc, với ba chủng tộc chính là người
Mongoloid (da vàng), Caucasian (hay
Europid, da trắng), Negroid (da đen).
Tâm lý học tộc người là một chuyên
ngành nghiên cứu tâm lý và hành vi của
con người trong một cộng đồng tộc người
cụ thể. Các bộ lạc, nhóm người, quốc gia
hay các quần thể dân cư đặc thù, liên quan
với nhau bởi dân tộc như các nhóm người
nhập cư, là đối tượng nghiên cứu của tâm
lý học. Nghiên cứu tâm lý tộc người nhằm
thiết lập mối quan hệ giữa đặc điểm tâm lý
của các thành viên trong cộng đồng được
nghiên cứu, với phương thức hoạt động sản
xuất trong những điều kiện tự nhiên nhất
định và đặc tính của văn hóa phi vật thể (ví
dụ như phong tục truyền thống và tín
ngưỡng tôn giáo). Đó là sự tương tác giữa
yếu tố tâm lý bên trong nội tại của cá thể
với yếu tố tác động bên ngoài của môi
trường văn hóa xã hội. 
3. Phương pháp nghiên cứu
Sự xuất hiện của tâm lý học tộc người
gắn bó chặt chẽ với sự hình thành, phát triển
của dân tộc chí và nhân học, với nguồn tài
liệu là những ghi chép của các nhà truyền
đạo và du lịch, được sắp xếp theo hướng
lịch sử văn hóa, đồng thời xử lý bằng nghiên
cứu thực nghiệm và mô tả so sánh. Khi nhà
nghiên cứu tâm lý tộc người làm việc với
một cộng đồng xa lạ, sự tham gia chủ động
và tự giác vào cộng đồng bản địa bằng
phương pháp quan sát tham dự sẽ mang lại
hiệu quả cao hơn trong việc nghiên cứu phát
hiện những hành vi phức tạp của các thành
viên cộng đồng đó. 
Sự phát triển của tâm lý học tộc người
cũng nhờ kế thừa phương pháp của các
chuyên ngành gần, trong số đó phải kể đến
ngôn ngữ học và xã hội học. Ngôn ngữ
chính là phương tiện biểu đạt cơ bản của tư
duy, phản ánh văn hóa và phóng chiếu thói
quen, vì vậy, nghiên cứu ngôn ngữ góp phần
làm rõ cách suy nghĩ, tư duy của con người
thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau. Như
giả thuyết về tính tương đối của Edward
Sapir cùng học trò Benjamin Lee Whorf đã
chỉ rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy,
thói quen của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ
đó (E. Sapir, 1949). Còn xã hội học cung
cấp cho tâm lý học tộc người các phương
pháp điều tra xã hội học, nghiên cứu các
nhóm người có quy mô nhỏ. 
Tâm lý học tộc người cũng vận dụng
các phương pháp trắc nghiệm của tâm lý
học, như trắc nghiệm dấu mực Rorschach,
trắc nghiệm phóng chiếu đo lường nhu cầu
thành đạt của con người (Thematic
Apperception Test - TAT) của H. Murray,
trắc nghiệm hệ tư tưởng đạo đức của Alex
Bavelas, trắc nghiệm phản ứng cảm xúc của
Kilton Stewart Bên cạnh đó, giải mã giấc
mơ, tự do liên tưởng và ghi chép lịch sử
cuộc đời cũng là những phương pháp được
sử dụng trong nghiên cứu tâm lý tộc người. 
4. Hướng tiếp cận nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, các hướng tiếp cận
nghiên cứu tâm lý tộc người chịu ảnh hưởng
ít nhiều từ hai cuộc tranh biện lớn trong
khoa học xã hội diễn ra cuối thế kỷ XIX -
đầu thế kỷ XX. Thứ nhất là giữa quan điểm
tiến hóa luận và tương đối luận văn hóa.
Thứ hai là giữa trường phái phân tâm học
của S. Freud và những người không theo
trường phái này. 
Trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX,
các nhà khoa học xã hội tìm cách áp dụng
triệt để tiến hóa luận của Charles Darwin tới
mọi khía cạnh nghiên cứu về con người.
Một trong những tác phẩm đầu tiên áp dụng
lý thuyết này khi tiếp cận với tâm lý tộc
người là của G. Le Bon, viết về những quy
luật tâm lý về sự tiến hóa của dân tộc, trong
đó, dựa trên các thứ bậc tâm lý, phân chia
chủng tộc con người thành bốn nhóm:
những chủng tộc nguyên thủy không có văn
hóa như những người thổ dân châu Úc;
những chủng tộc hạ đẳng có văn hóa thô sơ
như người da đen; những chủng tộc trung
bình như người Nhật Bản, Trung Quốc,
Semite; và đỉnh cao là chủng tộc thượng
đẳng-dân tộc Ấn-Âu (Gustave. Le Bon,
1898). Tác phẩm này của G. Le Bon cũng
thể hiện rõ rệt chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa
dân tộc tiệm cận vị chủng, và chịu sự ảnh
hưởng mạnh mẽ của tiến hóa luận.
Tương đồng với chủ nghĩa thuộc địa
bành trướng lúc bấy giờ, các nhà khoa học
xã hội nhìn nhận những sự khác biệt giữa
các nền văn hóa là một chuỗi các giai đoạn
trong một giản đồ tiến hóa. Điều này dẫn
đến một hệ thống nghiên cứu mà thay vì
mô tả những khác biệt giữa các văn hóa,
lại áp đặt những quan điểm về “văn minh”
chống lại “mông muội”. Theo quan điểm
này, người Tây Âu nói riêng hay người da
trắng nói chung thuộc về những nền văn
hóa được coi là “văn minh” vượt trội, trong
khi các bộ tộc, bộ lạc, những nhóm người
ở Bắc Mỹ, châu Phi và châu Á bị cho là
thấp kém hơn, hay “mông muội”. Chính
quan điểm này đã góp phần đẩy đến hai
vấn đề cực đoan nhức nhối thời điểm bấy
giờ - vị chủng chủ nghĩa (ethno-centrism)
và định kiến phân biệt chủng tộc. Đa phần
các nghiên cứu mang thái độ vị chủng
thường đề cao văn hóa dân tộc mình một
cách phiến diện, thiên vị và đánh giá văn
hóa các dân tộc khác thông qua một lăng
kính mù mờ, dựa trên tiêu chuẩn văn hóa
của chính dân tộc mình. Về bản chất, chủ
nghĩa vị chủng và định kiến phân biệt
chủng tộc nhằm mục đích hướng tới tính
độc tôn, đơn nhất của một dân tộc - bảo vệ
bằng mọi giá thành tựu của dân tộc mình.
Một yếu tố khác có mối quan hệ biện
chứng với quan điểm văn minh chống lại
mông muội chính là sự hiểu biết hạn chế
về các dân tộc ngoại lai. 
Để khắc phục những hạn chế trên, nhà
nhân học Đức gốc Do Thái Franz Boas,
người được gọi là “cha đẻ của nền nhân học
Mỹ”, đã thay đổi tiến trình nghiên cứu văn
hóa từ một hệ thống cấp bậc, tiến hóa, tuyến
tính (vốn coi văn hóa Tây Âu là đỉnh cao)
thành một hệ thống thúc đẩy sự bình đẳng
giữa con người và những thiết chế xã hội
của con người. Ông chính là người phản đối
mạnh mẽ sự phân biệt chủng tộc trong
nghiên cứu nhân học nói riêng, khoa học xã
hội nói chung. Ông tập trung phê phán triệt
để trong tác phẩm The Mind of Primitive
Man (Tư duy người nguyên thủy, 1911) với
những luận chứng bác bỏ quan điểm ưu trội
của người da trắng về trí tuệ chủng tộc. Một
đóng góp quan trọng khác của Franz Boas
là đưa ra thuyết tương đối văn hóa (cultural
14 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 1.2018
15Một vši n˙t về§
relativism) - đánh giá một nền văn hóa trong
bối cảnh văn hóa của nó, và bằng những tiêu
chuẩn văn hóa tự thân - trở thành phương
pháp luận trong nghiên cứu, dẫn đến việc
xóa bỏ quan niệm cao - thấp trong văn hóa.
Khi nghiên cứu một văn hóa và tộc người,
không thể sử dụng những tiêu chuẩn văn
hóa phương Tây để đánh giá một nền văn
hóa nguyên thủy. Các nền văn hóa mang
tính đồng đại, chứ không mang tính lịch đại.
Sức ảnh hưởng mà F. Boas để lại cho những
học trò của mình sau này như Ruth
Benedict, Edward Sapir và Margaret Mead
là rất lớn, và cùng với ông, họ đã xây dựng
nên ngành “nhân học văn hóa”. Cách tiếp
cận nhân học văn hóa - nhân học tâm lý
cũng dẫn tới trường phái “văn hóa và nhân
cách”, đóng góp rất nhiều cho tâm lý học
tộc người. 
Phân tâm học nghiên cứu cái vô thức
của con người thông qua các triệu chứng
bệnh lý, đồng thời, đưa suy nghĩ đó trở lại
ý thức (đối tượng của tâm lý học). S. Freud
là một trong những nhà tâm lý học đầu tiên
phá vỡ giới hạn giữa nhân học và tâm lý
học. Được biết đến nhiều nhất với lý thuyết
phân tâm học, S. Freud nhận thấy những
sang chấn tuổi ấu thơ được phóng chiếu vào
những bệnh tâm căn/nhiễu tâm ở những
người trưởng thành (Sigmund Freud, 1950).
Ông xác lập phức cảm Oedipus như một
hiện tượng phổ biến ở mọi xã hội. Phân tâm
học của S. Freud là một nỗ lực nhằm làm
sáng tỏ những sang chấn tuổi ấu thơ bị ức
chế, thông qua một hệ thống những thuật
ngữ, các phương pháp phân tâm học như
giải mã giấc mơ, thôi miên và liên tưởng tự
do. Sau này, những luận điểm chính trong
nghiên cứu của S. Freud, như tính phổ quát
của phức cảm Oedipus, đóng vai trò là khởi
nguồn của văn hóa, cũng như tục thờ vật tổ
(totem) đã bị các nhà nhân học văn hóa
Bronislaw Malinowski, Alfred Kroeber và
Claude Lévi-Strauss biện bác. Nhưng từ
chính sự phủ định này, cả tâm lý học, nhân
học và phân tâm học đều nhận ra rằng việc
vận dụng phương pháp của nhau sẽ phát
huy hiệu quả trong việc khám phá sự hình
thành tâm lý cá nhân từ tuổi ấu thơ và
những đặc điểm tính cách phổ quát trong
một cộng đồng xã hội, thậm chí là của một
tộc người. 
Về mối quan hệ giữa tâm lý tộc người
và văn hóa, George Devereux (1978) đã đưa
ra một định đề mang tính soi sáng: văn hóa
là cái tâm lý phóng chiếu ra bên ngoài, còn
tâm lý là cái văn hóa phóng chiếu vào bên
trong. Đây cũng chính là cơ sở  ... iên cứu
các triệu chứng sang chấn tâm lý thông qua
nghiên cứu tâm lý tộc người (Abram
Kardiner, Ralph Linton, 1939). Ông cùng
cộng sự đã phát triển cách tiếp cận nghiên
cứu cấu trúc nhân cách cơ bản, như một
cách để phản ứng lại cách tiếp cận cấu hình
sẽ được nhắc đến dưới đây. Họ cho rằng,
các kiểu loại văn hóa không đủ cơ sở để
phân loại xã hội, thay vào đó, cần chú trọng
vào những thành viên cá nhân trong một xã
hội và sau đó so sánh những đặc điểm tính
cách của các thành viên này nhằm tìm ra
nhân cách cơ bản cho mỗi văn hóa. A.
Kardiner phân biệt giữa các thiết chế chính
(tạo ra cấu trúc nhân cách cơ bản) và các
thiết chế phụ (là sản phẩm của nhân cách cơ
bản). Ví dụ về các thiết chế chính là những
sản phẩm thích ứng trong một môi trường,
như là nhà ở, hình thái gia đình, họ tộc,
Còn ví dụ về các thiết chế phụ là những
phương thức tổ chức xã hội và thực hành
huấn luyện trẻ nhỏ, được biểu hiện thông
qua tôn giáo và các thực hành xã hội khác.
Kế thừa cấu trúc nhân cách cơ bản, Cora
Alice DuBois và John J. Honigmann đã
phát triển thành thuật ngữ nhân cách điển
hình, để chỉ một cấu trúc nhân cách nhất
định xuất hiện thường xuyên nhất trong một
xã hội, nhưng nó không hoàn toàn phổ biến
đối với mọi thành viên trong xã hội đó (John
J. Honigmann, 1954).
Tâm lý học Gestalt (cấu hình), nhấn
mạnh nghiên cứu các thuộc tính một cách
tổng thể, sẽ giải thích một trải nghiệm tường
tận hơn là tách rời các bộ phận, trở thành cơ
sở cho cách tiếp cận cấu hình mà R.
Benedict và Edward Sapir đề ra (Ruth
Benedict, 1934). Cách tiếp cận cấu hình cho
rằng, văn hóa đảm nhiệm tính cách của cấu
trúc nhân cách của các thành viên. Do đó,
tất cả thành viên của một văn hóa thể hiện
những nhân cách tương tự mà có thể được
thu thập như một hình thái các kiểu loại.
Ngoài ra, các mô thức trong một văn hóa có
thể được liên kết bởi biểu tượng và giải mã.
Bởi vậy, thông qua một hệ thống những lý
tưởng và niềm tin chung mà có thể định rõ
một văn hóa. Cuối cùng, các cá nhân là một
thành tố không thể thiếu của văn hóa, và do
đó, nên được nghiên cứu ở mức độ cá nhân
để có thể nhìn nhận mọi con người trong
một tổng thể.
Tính cách xã hội (social character) là
khái niệm cơ bản trung tâm trong nghiên
cứu tâm lý học xã hội của Erich Fromm. E.
Fromm đề cập đến tính cách xã hội bao gồm
một tập hợp các đặc điểm, là hạt nhân cốt
lõi trong cấu trúc tính cách của phần lớn
thành viên thuộc một nhóm, được hình
thành như là kết quả của những trải nghiệm
cơ bản và lối sống phổ biến trong nhóm đó
(Erich Fromm, 1942). Có nghĩa là, tính cách
xã hội là một cấu trúc tính cách được chia
sẻ giữa các thành viên trong một nhóm hay
cộng đồng, các cá nhân trong một xã hội
hay một tầng lớp, được hình thành dựa trên
lối sống của họ, cũng như những kỳ vọng
chung của xã hội hay những quy ước văn
hóa đòi hỏi họ phải điều chỉnh hành vi để
thích ứng. Sự thích ứng này chính là kết quả
của sự tương tác giữa cá nhân và môi trường
xã hội, môi trường văn hóa. E. Fromm sử
dụng khái niệm tính cách xã hội là chìa
khóa mấu chốt để lĩnh hội và thấu hiểu quá
trình xã hội của một cá nhân, và cũng là chìa
khóa để hiểu được tinh thần của một văn
16 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 1.2018
17Một vši n˙t về§
hóa. Điển hình như E. Fromm phát hiện ra
cấu trúc tính cách của một người công nhân
hiện đại trong xã hội công nghiệp là sự chấp
hành, kỷ luật và đúng giờ. Nghiên cứu
trường hợp văn hóa làng xã Việt sẽ thấy, căn
tính tiểu nông với tính đoàn kết tập thể (ở
một chiều hướng cực đoan là tính cục bộ,
“người làng”, “việc làng”) và tính tự quản
(ở một chiều hướng cực đoan là tính tự trị,
hoạt động tự nguyện theo hương ước, “phép
vua thua lệ làng”).
Trong và sau khi Chiến tranh thế giới
thứ Hai xảy ra, có một xu hướng nghiên
cứu xuất hiện nở rộ nhằm nhận thức những
đặc điểm tính cách phổ biến ở các quốc
gia, với mục đích phục vụ cho tâm lý chiến
trong thời điểm chiến tranh, và để loại bỏ
những hiểu lầm giữa các quốc gia, tăng
cường sự hiểu biết và cải thiện chính sách
đối ứng. Kết quả là khái niệm “tính cách
dân tộc” (national character) ra đời, trong
một số tài liệu dịch còn gọi là quốc tính,
dân tộc tính hoặc cá tính dân tộc, dùng để
chỉ tính cách phổ quát đại diện cho con
người thuộc phạm trù dân tộc - quốc gia.
Khái niệm này được minh chứng bởi hai
nhà nhân học văn hóa nổi tiếng là Ruth
Benedict và Margaret Mead. Phương pháp
nghiên cứu tính cách dân tộc tập trung vào
điều tra những thái độ và giá trị cơ bản -
đặc điểm của xã hội đồng nhất, hoặc trong
một xã hội không đồng nhất gồm các nhóm
nghề nghiệp, giai cấp xã hội, vùng miền và
hệ tư tưởng. R. Benedict thực hiện chuyên
khảo The Chrysanthemum and the Sword
(Hoa cúc và thanh kiếm, 1946) về tính
cách người Nhật Bản, chủ yếu nghiên cứu
từ nguồn tài liệu thứ cấp là những bài viết
về đời sống người Nhật Bản cũng như thực
hiện phỏng vấn người Nhật Bản nhập cư ở
Mỹ. Mặc dù vậy, khi được đánh giá kiểm
chứng lại sau này thì phần lớn những quan
điểm của bà về người Nhật Bản đã được
chứng minh là có cơ sở và chính xác, ví dụ
như tính kỷ luật, vừa quân phiệt vừa có óc
thẩm mỹ, vừa cứng nhắc vừa thích nghi,
vừa bảo thủ vừa cởi mở đối với những cái
mới. Còn Margaret Mead, dưới sự phân
công của Cơ quan Công tác Chiến thuật
Mỹ (OSS), đã nghiên cứu tính cách dân tộc
của người Anh, với mục đích làm sáng tỏ
nhân cách của người Anh, đồng thời xóa
bỏ những hiểu lầm của người Anh về
người Mỹ. Thông qua nghiên cứu bối cảnh
gia đình, đặc biệt là vai trò của người cha,
ở hai quốc gia Mỹ và Anh, bà tìm ra được
nguyên nhân khuyến khích thái độ phô
trương ở người Mỹ và thái độ kiêu ngạo ở
người Anh. Cách tiếp cận này còn được
Geoffrey Gorer sử dụng để nghiên cứu
người Nga, và Weston La Barre áp dụng để
nghiên cứu người Nhật Bản (Xem: John J.
Honigmann, 1954). 
5. Các hướng ứng dụng ở Việt Nam
Khó khăn được đề cập đến trong phần
đặt vấn đề của bài viết nằm ở song đề đối
lập giữa nghiên cứu tổng thể và bộ phận,
dựa trên yếu tố đặc thù của dân tộc và văn
hóa Việt Nam. Về đặc điểm này, cần có
một sự tiếp cận so sánh với nghiên cứu tâm
lý tộc người ở phương Tây. Ở văn minh
phương Tây, giữa các tộc người có sự đồng
nhất cao về trình độ phát triển. Sự phân
biệt mà các nhà nghiên cứu lưu tâm tới
nằm ở sự khác biệt về di truyền sinh học
và các đặc điểm hình thể, như đã phân tích
khái niệm chủng tộc ở trên. Quan niệm về
bản sắc văn hóa, theo các học giả nước
ngoài, dành cho những nền văn hóa có
trình độ phát triển thấp, như ở một số bộ
lạc nguyên thủy ở Thái Bình Dương và
Bắc Mỹ, hoặc như hiện nay là để gán cho
nhóm các nước đang phát triển, như các
quốc gia Nam Mỹ và Việt Nam. Họ cho
rằng, các quốc gia này cần đưa ra một giá
trị cốt lõi riêng và đề cao nó, như một thứ
lá chắn chống lại sự xâm lăng của các yếu
tố ngoại sinh trong quá trình giao lưu, tiếp
biến văn hóa. Nhờ có thứ lá chắn mang tên
gọi bản sắc văn hóa này, các quốc gia đang
phát triển khẳng định và bảo vệ sự toàn vẹn
của mình.
Bởi vậy, hạn chế lớn nhất trong nghiên
cứu tâm lý tộc người ở Việt Nam, bắt nguồn
từ song đề trên. Đã có những nỗ lực để làm
rõ bản sắc văn hóa, tính cách con người Việt
Nam. Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa
sử cương xuất bản lần đầu năm 1938 đã chỉ
ra những đặc điểm của người Việt Nam
như: thông minh nhưng ít người có trí tuệ
lỗi lạc phi thường, giàu trí nghệ thuật hơn
trí khoa học, giàu trực giác hơn lý luận, ham
học, song thích phù hoa hơn thực học; chịu
khó, thiết thực; khi hữu sự thì cũng biết hy
sinh về đại nghĩa; ít sáng tạo, ưa bắt chước;
trọng lễ giáo, song cũng hay bài bác chế
nhạo (Đào Duy Anh, 2000). 
Một khái quát khác về tính cách con
người Việt Nam là những giá trị cốt lõi nằm
ở tính tập thể - cộng đồng; tính trọng đạo
đức, cần kiệm - giản dị; óc thực tiễn; tinh
thần yêu nước bất khuất; lòng yêu chuộng
hòa bình, nhân đạo, lạc quan (Nguyễn Hồng
Phong, 1963). Tương đồng với cách khái
quát trên của Nguyễn Hồng Phong là Trần
Văn Giàu, khi ông hệ thống lại tính cách
con người Việt Nam thành bảy giá trị nền
tảng: Yêu nước, Cần cù, Anh hùng, Sáng
tạo, Lạc quan, Thương người, Vì nghĩa
(Trần Văn Giàu, 2011). Phan Ngọc trình
bày những đặc trưng tính cách người Việt
như sau: Ham học, thông minh và tháo vát,
nhạy bén với mọi thay đổi; Cần cù, chịu
khó, thích nghi với hoàn cảnh; Gắn bó với
Tổ quốc, họ hàng, bà con; Thích sống một
cuộc sống giản dị; không bị những đòi hỏi
vật chất dày vò; lo cho con cháu còn hơn lo
cho chính mình. Theo Phan Ngọc, nhân
cách Việt Nam trước hết tiêu biểu ở tinh
thần trách nhiệm... Trách nhiệm với người
sống và với người chết, với hiện tại, quá
khứ và tương lai. Ý thức trách nhiệm ấy
biểu lộ thành dư luận, kết tinh thành đạo lý,
thể hiện thành truyền thống, đọng lại thành
tâm tư (Phan Ngọc, 1994). Cách khái quát
tính cách con người Việt Nam như trên
hướng tới việc xây dựng và định hướng một
con người mang tính chất công cụ - con
người lý tưởng hóa, và bỏ qua những đặc
tính chưa tích cực trong tâm lý con người
Việt Nam.
Một nỗ lực khác nhằm đưa tính cách
con người Việt Nam về các hệ giá trị là của
Trần Ngọc Thêm, khi ông đưa ra giá trị cơ
bản nhất tạo nên những đặc trưng gốc của
bản sắc văn hóa Việt Nam là: tính cộng
đồng; tính ưa hài hòa; khuynh hướng thiên
về âm tính; tính tổng hợp (tính chủ toàn) và
tính linh hoạt (Trần Ngọc Thêm, 2016), từ
đó mở rộng ra 11 thói hư tật xấu như: thói
dựa dẫm, ỷ lại, thói cào bằng, đố kỵ, bệnh
hẹp hòi, ích kỷ, bè phái, bệnh sĩ diện, háo
danh, bệnh thành tích, bệnh phong trào,
bệnh hình thức, bệnh nói xấu sau lưng, bệnh
vô cảm, chặt chém, tật ham vui, thích
“tám”, bệnh triệt tiêu cá nhân,... 
Trong một nghiên cứu mang tính gợi
mở, Nguyễn Kiến Giang đã làm rõ thuật
ngữ “bản tính tộc người”, đồng thời giới
thiệu nhận diện các cách tiếp cận nghiên
cứu bản tính tộc người bằng cách tiếp cận
tâm lý - văn hóa như của G. Devereux, cách
tiếp cận tâm linh, tiếp cận bằng chất liệu dân
gian (folklore). Ông đã đưa ra những giả
18 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 1.2018
19Một vši n˙t về§
thuyết về “tâm thức Việt Nam” dựa trên cơ
sở lịch sử, xã hội cũng như tính chất lắp
ghép (bricolage) của văn hóa Việt Nam rất
đáng để phát triển trong tương lai (Huyền
Giang, 2017). 
Trên cơ sở các huyền thoại, truyện kể
dân gian và nhân vật văn học hiện thực, Đỗ
Lai Thúy (2005) cũng phác họa bức tranh
tâm lý tính cách điển hình của người Việt
Nam. Một cách tiếp cận văn hóa Việt Nam
thông qua “mẫu người văn hóa”, vốn là
mạch ngầm chạy xuyên suốt các tác phẩm
chân dung học thuật của ông, phá vỡ
những giới hạn phân loại xã hội học - nghề
nghiệp, chỉ ra những mẫu người điển hình
đại diện cho những lát cắt thời đại văn hóa.
Cách tiếp cận tâm lý người Việt này có sự
tương đồng với tinh thần thời đại
(zeitgeist) của Hegel hay thời đại lớn của
Eliade và Bakhtin, và mô hình Benedict
xây dựng con người Apollonian (hài hòa,
cân bằng), Dionysian (cuồng phóng),
Paranoid (hoang tưởng) và Megalomaniac
(vĩ cuồng) để nghiên cứu tâm lý tộc người
(Ruth Benedict, 1934).
Nghiên cứu tâm lý tộc người thông qua
trường hợp các tộc người thiểu số ở Việt
Nam đã xuất hiện trong một số công trình
tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Viện
Tâm lý học trong hai năm 2007-2008 đã
tiến hành nghiên cứu người dân thuộc 6 dân
tộc thiểu số là Thái, Mường, Hmông, Tày,
Dao, Nùng ở 11 xã và thị trấn của 7 huyện
thuộc 7 tỉnh Tây Bắc, chỉ ra một số đặc
điểm tâm lý cơ bản của các dân tộc thiểu số
ở khu vực, và sự ảnh hưởng của các đặc
điểm tâm lý này đến sự phát triển kinh tế -
xã hội của các tộc người trên (Vũ Dũng,
2008). Chuyên khảo dân tộc học nghiên cứu
tâm lý tộc người Hmông công phu và giàu
tư liệu của Nguyễn Mạnh Tiến đã xác lập
“cá tính Hmông” với những đặc điểm như
tâm thức di dân, nổi loạn, tự do, mộng
mơ từ dân ca và các hệ thống quyền lực
miền núi (Nguyễn Mạnh Tiến, 2014).
6. Kết luận
Xu hướng chính của nghiên cứu tâm lý
tộc người là nhằm khắc phục tình trạng tập
trung vào nghiên cứu những yếu tố “động”,
biến đổi bên ngoài của văn hóa mà bỏ qua
yếu tố “tĩnh,” hằng số chậm biến đổi của văn
hóa nằm trong tâm thức của tộc người. Các
kết quả nghiên cứu tâm lý học tộc người góp
phần cung cấp những dữ liệu quý giá cho
tâm bệnh học và tâm lý/tâm thần học trị liệu,
thậm chí là xây dựng một phức cảm tộc
người. Ở một quốc gia đa dân tộc, đa văn
hóa như Việt Nam, các nhà tâm lý học tộc
người cần giải quyết vấn đề về bản sắc dân
tộc, phải chăng chúng ta đang quá tập trung
vào nghiên cứu tâm lý điển hình của một tộc
người đa số (người Kinh) mà bỏ quên những
tộc người khác cấu thành nên sự đa dạng văn
hóa của Việt Nam q
Tài liệu tham khảo
1. American Psychological Association
(2002), Guidelines on Multicultural
Education, Training, Research, Practice,
and Organizational Change for
Psychologists, APA, Washington, D.C.
2. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa
sử cương, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
3. Ruth Benedict (1934), Patterns of
Culture, Houghton Mifflin Company,
Boston and New York.
4. Franz Boas (1911), The Mind of
Primitive Man, The Macmillan
Company, New York.
5. Từ Chi (1997), Góp phần nghiên cứu
văn hóa tộc người, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
6. George Devereux (1978),
Ethnopsychoanalysis: Psychoanalysis
and Anthropology as Complementary
Frames of Reference, University of
California Press, Berkeley.
7. Vũ Dũng (2008), Báo cáo tổng hợp Đề
tài Khoa học cấp nhà nước: Những đặc
điểm tâm lý của các dân tộc thiểu số ở
khu vực Tây Bắc và ảnh hưởng của
chúng đến sự ổn định và phát triển của
khu vực này, Mã số: KX.03.02/06-10,
Viện Tâm lý học.
8. Sigmund Freud (1950), Totem and
Taboo, Norton, New York.
9. Erich Fromm (1942), The Fear of
Freedom, Routledge, London.
10. Huyền Giang (2017), Bàn về văn hóa,
Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, tr. 367-388.
11. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, 
Hà Nội.
12. John J. Honigmann (1954), Culture and
Personality, Harper and Brothers, 
New York.
13. Abram Kardiner, Ralph Linton (1939),
The Individual and his Society, Columbia
University Press, New York.
14. Gustave Le Bon (1898), The Psychology
of Peoples, The Macmillan Company,
New York.
15. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam
và cách tiếp cận mới, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, tr. 34, 144-150.
16. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu
tính cách dân tộc, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
17. Edward Sapir (1949), Culture,
Language, and Personality, Language
Behavior Research Laboratory, Berkeley.
18. Thomas Teo (ed) (2014), Encyclopedia
of Critical Psychology, Springer, New
York, tr. 607-612, 1625-1637.
19. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt
Nam từ truyền thống đến hiện đại và
con đường tới tương lai, Nxb. Văn hóa
- Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
20. Đỗ Lai Thúy (biên soạn, 2000), Phân
tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb.
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
21. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam
nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb. Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
22. Nguyễn Mạnh Tiến (2014), Những đỉnh
núi du ca - một lối tìm về cá tính
H’Mông, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
20 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 1.2018

File đính kèm:

  • pdfmot_vai_net_ve_tam_ly_hoc_toc_nguoi.pdf