Nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh lữ hành tại Việt Nam

Tóm tắt

Du lịch là ngành công nghiệp không khói đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế. Để phát triển du lịch thì

việc ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, là điều

kiện tiên quyết quyết định thành công. Với sự phát triển của mạng xã hội và công nghệ đã thâm nhập

vào ngành du lịch sâu rộng hơn bao giờ hết. Một số công nghệ làm gia tăng trải nghiệm cho cả doanh

nghiệp kinh doanh du lịch và du khách, song đi kèm với nó là thách thức. Vì vậy, bất cứ doanh nghiệp

nào có thể đương đầu với thử thách này và tận dụng được lợi ích của nó sẽ đạt được thành công.

Bài viết sẽ đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức khi ứng dụng công nghệ thông tin vào kinh

doanh lữ hành tại Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp

pdf 6 trang yennguyen 6140
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh lữ hành tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh lữ hành tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh lữ hành tại Việt Nam
72
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG 
TIN TRONG KINH DOANH LỮ HÀNH TẠI VIỆT NAM
TO ENHANCE THE USE OF INFORMATION 
TECHNOLOGY ON TOURISM BUSINESS TECHNOLOGY 
ON TOURISM BUSINESS IN VIETNAM
Vũ Thị Hường, Nguyễn Thị Huế
Email: huongvudhsd20102014@gmail.com 
Trường Đại học Sao Đỏ 
Ngày nhận bài: 25/12/2017 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 26/3/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 28/3/2018
Tóm tắt
Du lịch là ngành công nghiệp không khói đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế. Để phát triển du lịch thì 
việc ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, là điều 
kiện tiên quyết quyết định thành công. Với sự phát triển của mạng xã hội và công nghệ đã thâm nhập 
vào ngành du lịch sâu rộng hơn bao giờ hết. Một số công nghệ làm gia tăng trải nghiệm cho cả doanh 
nghiệp kinh doanh du lịch và du khách, song đi kèm với nó là thách thức. Vì vậy, bất cứ doanh nghiệp 
nào có thể đương đầu với thử thách này và tận dụng được lợi ích của nó sẽ đạt được thành công. 
Bài viết sẽ đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức khi ứng dụng công nghệ thông tin vào kinh 
doanh lữ hành tại Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp.
Từ khóa: Du lịch; ứng dụng công nghệ; Cách mạng Công nghiệp 4.0.
Abstract
Tourism is a non-smoke industry that plays an important role in the economy. For the development of 
tourism, the application of information technology, especially in the context of the Industrial Revolution 
4.0, is a prerequisite for success. 
With the arrival of mobile devices, social networking, online bookings and new payment methods, 
technology has entered the travel industry far more than ever. Some technologies add to the experience 
- both for the business traveler and for the traveler, but it’s a challenge. The tourism industry is unlikely 
to catch up with the rapid growth of technology. So any business that can cope with this challenge and 
take advantage of it will achieve success.
The article will analyze the opportunities and challenges when applying information technology to the 
tourism business in Vietnam, and suggest some suitable solutions. 
Keywords: Tourism; technology; application; Industrial Revolution 4.0.
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Công nghệ thông tin là gì?
Theo Daintith, John (2009), công nghệ thông tin 
(IT - Information Technology) là một thuật ngữ bao 
gồm phần mềm, mạng lưới internet, hệ thống máy 
tính sử dụng cho việc phân phối và xử lý dữ liệu, 
trao đổi, lưu trữ và sử dụng thông tin.
Một cách dễ hiểu hơn, công nghệ thông tin là việc 
sử dụng công nghệ hiện đại vào việc tạo ra, xử 
lý, truyền dẫn thông tin, lưu trữ, khai thác thông 
tin. Hiện nay, ngành Công nghệ thông tin thường 
phân chia thành năm chuyên ngành phổ biến: 
khoa học máy tính, kỹ thuật máy tính, hệ thống 
thông tin, mạng máy tính truyền thông, kỹ thuật 
phần mềm.
Du lịch là gì?
Theo Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourist 
Organization, 1995), du lịch bao gồm tất cả mọi 
hoạt động của những người du hành, tạm trú, 
trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, 
trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, 
thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những 
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 73
mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng 
không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống 
định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục 
đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng 
nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác 
hẳn nơi định cư.
Lữ hành là gì?
Hoạt động lữ hành là hoạt động nhằm thực hiện 
một chuyến đi từ nơi này đến nơi khác bằng nhiều 
loại phương tiện khác nhau với nhiều lý do và mục 
đích khác nhau và không nhất thiết phải quay trở 
lại điểm xuất phát.
Hoạt động lữ hành có thể tiếp cận bằng hai cách:
- Theo nghĩa rộng
Hoạt động lữ hành bao gồm tất cả những hoạt 
động di chuyển của con người cũng như những 
hoạt động liên quan đến sự di chuyển đó. Với 
cách tiếp cận này thì trong hoạt động du lịch có 
bao gồm yếu tố lữ hành nhưng không phải tất cả 
các hoạt động lữ hành là hoạt động du lịch.
- Theo nghĩa hẹp
Đề cập đến lữ hành ở phạm vi hẹp hơn để phân 
biệt hoạt động kinh doanh du lịch trọn gói với các 
hoạt động động du lịch khác như khách sạn, vui 
chơi giải trí, ăn uống người ta giới hạn hoạt 
động lữ hành chỉ bao gồm những hoạt động tổ 
chức hoạt động du lịch trọn gói. Điểm xuất phát 
của cách tiếp cận này là người ta cho rằng hoạt 
động lữ hành chủ yếu là các hoạt động kinh doanh 
du lịch trọn gói.
Tiêu biểu cho cách tiếp cận này là định nghĩa trong 
Pháp lệnh Du lịch và của Tổng cục Du lịch Việt 
Nam: Lữ hành là thực hiện một chuyến đi du lịch 
theo kế hoạch, lộ trình và chương trình định trước.
Theo báo cáo của Vụ Lữ hành, Tổng cục Du lịch 
(TCDL), trong 9 tháng đầu năm 2017, tốc độ tăng 
trưởng lượng khách du lịch quốc tế vẫn duy trì ở 
mức cao so với cùng kỳ năm 2016 với 9,45 triệu 
lượt, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm 2016. Hầu 
hết các thị trường trọng điểm đều có lượng khách 
tăng, như Hàn Quốc tăng 51,2%; Trung Quốc tăng 
47,7%; Nga tăng 40,6%... Tính đến tháng 9/2017, 
cả nước có 1.780 doanh nghiệp lữ hành quốc tế. 
Hoạt động kinh doanh lữ hành góp phần quan 
trọng vào việc đón 9,45 triệu khách quốc tế của 
toàn ngành du lịch. Tuy nhiên, ngành du lịch vẫn 
còn phải nỗ lực rất nhiều để cùng với các ngành 
kinh tế khác đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng 
GDP 6,7% trong năm nay mà Chính phủ đã đề ra.
Những năm qua, ngành du lịch tiếp tục đà tăng 
trưởng bền vững, khẳng định vai trò quan trọng 
đối với phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm, 
thúc đẩy thương mại và đầu tư, phát triển cơ sở 
hạ tầng. Hoạt động của ngành du lịch từ đầu năm 
đến nay của các tỉnh, thành đã có những bước 
phát triển ấn tượng, nhiều sản phẩm du lịch chất 
lượng được đưa vào phục vụ, đáp ứng nhu cầu 
ngày càng cao của du khách.
Vai trò của công nghệ thông tin trong kinh doanh 
lữ hành
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào ngành du 
lịch nói chung và kinh doanh lữ hành là yêu cầu 
tất yếu trong quá trình hội nhập, phát triển, không 
chỉ gia tăng các tiện ích cho du khách và nhà 
quản lý mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh với 
các nước. 
Cụ thể, công nghệ thông tin ảnh hưởng đến việc 
quản lý và tiếp thị chiến lược của các tổ chức hiện 
đại như là một sự thay đổi mô hình, có thể chuyển 
đổi thực tiễn kinh doanh “tốt nhất” trên toàn cầu. 
Công nghệ thông tin biến đổi vị trí chiến lược của 
các tổ chức bằng cách thay đổi hiệu quả, sự khác 
biệt, chi phí hoạt động và thời gian phản ứng. 
Với những thách thức của sự phát triển không 
ngừng của xã hội, khi các phương tiện quảng cáo 
truyền thống như sách báo, tạp chí, tivi không 
còn giữ được vai trò chủ đạo như trước nữa thì 
nhu cầu về một phương tiện quảng cáo mới là tất 
yếu. Thay vào đó, trong những năm gần đây, sự 
phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và 
đặc biệt là internet và những công cụ của nó đã 
giải quyết được những vấn đề bức xúc của các 
phương tiện quảng cáo truyền thống là thời gian 
ngắn và không gian rộng, hiệu quả cao và chi phí 
thấp, từ đó mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam 
đặc biệt là các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ có 
cơ hội khai thác một hình thức quảng cáo tiếp thị mới 
đầy hiệu quả với chi phí thấp.
Đặc biệt, công nghệ thông tin đã kích thích những 
thay đổi cơ bản trong hoạt động và phân phối của 
ngành du lịch. Ví dụ rõ ràng nhất là ứng dụng công 
nghệ thông tin trong quá trình đặt chỗ cho phép cả 
người tiêu dùng và ngành công nghiệp tiết kiệm 
thời gian đáng kể trong việc xác định, hợp nhất, đặt và 
mua các sản phẩm du lịch.
Khi việc ứng dụng công nghệ thông tin được triển 
khai mạnh mẽ, khách du lịch có thể duyệt qua 
internet và xác định một loạt các đề nghị phong 
phú để đưa ra lựa chọn đi du lịch phù hợp với 
yêu cầu cá nhân của họ. Do đó, trọng tâm chuyển 
74
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018
hướng sang các chuyến du lịch riêng lẻ và các gói 
năng động. Điều này sẽ cải thiện dịch vụ và cung 
cấp trải nghiệm du lịch liền mạch, trong khi nó sẽ 
cho phép các tổ chức du lịch nâng cao năng lực 
cạnh tranh trong môi trường phát triển hiện đại. 
Vì tất cả những lý do đã trình bày ở trên, việc 
nghiên cứu, ứng dụng công nghệ vào kinh doanh 
lữ hành ở Việt Nam là hết sức cần thiết.
2. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 
TRONG KINH DOANH LỮ HÀNH TẠI VIỆT NAM
Theo số liệu của Tổng cục Du lịch, năm 2016, 
du lịch Việt Nam đón 10 triệu lượt khách quốc tế, 
tăng 26% so với năm 2015; phục vụ 62 triệu lượt 
khách nội địa, tăng 8,8% so với năm trước đó; 
tổng thu từ khách du lịch ước đạt trên 400.000 tỷ 
đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2017, tổng lượng 
khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 6.206.336 
lượt, tăng 30,2% so với cùng kỳ năm 2016. Trong 
khi đó, khách du lịch nội địa 6 tháng đầu năm cũng 
đạt 40,7 triệu lượt. Tổng thu từ khách du lịch ước 
đạt 254.700 tỷ đồng, tăng 27,1% so với cùng kỳ 
năm 2016. Du lịch ngày càng khẳng định vai trò là 
ngành kinh tế quan trọng của đất nước.
Có nhiều nguyên nhân để lượng khách du lịch đến 
Việt Nam tăng, song có một nguyên nhân không 
thể phủ nhận được, đó là những đóng góp của 
công nghệ thông tin.
Hiện nay, 100% doanh nghiệp trong ngành du 
lịch Việt Nam sử dụng máy tính và đường truyền 
internet, ứng dụng những phần mềm chuyên 
dụng, như: quản trị văn phòng, tài chính, mua bán 
tour, thông tin điểm đến..., mang lại nhiều lợi ích 
thiết thực cho doanh nghiệp du lịch, nhất là sự 
liên thông mang tính toàn cầu trên internet hiện 
nay đã giải quyết nhiều khó khăn tồn tại đối với 
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh và tìm 
kiếm thị trường. 
Sự gắn kết bằng công nghệ thông tin tạo điều kiện 
cho tất cả các doanh nghiệp phát triển, nhất là các 
doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đủ lực để vươn 
lên tiếp cận với thị trường và các hoạt động quảng 
bá quy mô và tốn kém... Liên tục trong nhiều năm 
trở lại đây, các công ty du lịch lữ hành, khách sạn, 
cơ sở lưu trú trong cả nước đã tổ chức ứng dụng 
công nghệ thông tin vào hoạt động sản xuất kinh 
doanh thông qua việc xây dựng và duy trì hoạt 
động của các website, tổ chức mua bán tour, đặt 
phòng trực tuyến cho du khách trong và ngoài 
nước. Có thể thấy hoạt động của Bộ Văn hóa, Thể 
thao và Du lịch qua trang web ở địa chỉ: cinet.vn 
bằng hai ngôn ngữ Anh, Việt, Tổng cục Du lịch 
với trang vietnamtourism.gov.vn được thiết kế với 
năm ngôn ngữ Việt, Anh, Pháp, Nhật, Trung đáp 
ứng nhu cầu của cộng đồng và là kênh quảng bá 
quan trọng hình ảnh Việt Nam ra thế giới. 
Trang điện tử baodulich.net.vn của Báo Du lịch là 
cơ quan ngôn luận của Tổng cục Du lịch - Bộ Văn 
hóa, Thể thao và Du lịch cập nhật các thông tin 
về hoạt động của ngành trên địa bàn toàn quốc, 
cũng như giới thiệu các điểm đến, văn hóa di sản, 
món ăn độc đáo, quảng bá hình ảnh đất nước con 
người Việt Nam một cách chính xác, cụ thể, thu 
hút sự quan tâm chú ý của đông đảo độc giả trong 
nước và quốc tế. 
Cùng với các hoạt động công nghệ thông tin tại 
các cơ quản quản lý và sự nghiệp của ngành du 
lịch, hoạt động công nghệ thông tin của các doanh 
nghiệp cũng phát triển khá mạnh, điển hình như 
các công ty Vietravel, Saigontourist, Bến Thành 
Tourist, Fiditour, dulichviet đã triệt để ứng dụng 
công nghệ và các hoạt động quảng bá, sản xuất 
kinh doanh, góp phần đáng kể vào hiệu quả trong 
hoạt động của doanh nghiệp và thành tích chung 
của toàn ngành, cũng như thay đổi diện mạo du 
lịch Việt Nam. Có thể thấy rõ nét ở trang điện tử 
bán tour trực tuyến của Công ty TNHH Một thành 
viên Du lịch & Tiếp thị GTVT Việt Nam (Vietravel) 
tại địa chỉ travel.com.vn ra đời từ năm 2007, được 
khách hàng và các tổ chức du lịch thế giới đánh 
giá cao về sự tiện dụng, tính hiệu quả, tiện ích 
đối với người tiêu dùng và dễ quản lý với doanh 
nghiệp trong hoạt động kinh doanh theo mô 
hình này. 
Tổ chức Du lịch thế giới nhận định, sự thay đổi đời 
sống xã hội cùng với cuộc cách mạng công nghệ 
là yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển nhanh 
chóng của ngành du lịch trong những năm gần 
đây. Sự gia tăng mạnh mẽ của tầng lớp khách lẻ 
và khách thế hệ trẻ (những người sinh trong giai 
đoạn 1980-2000) sử dụng dịch vụ của các đại lý 
du lịch trực tuyến (Online Travel Agents - OTAs) 
đã làm thay đổi đáng kể thị trường du lịch. Hãng 
Google và Tập đoàn Temasek Holdings Singapore 
dự đoán quy mô của du lịch trực tuyến tại khu vực 
Đông Nam Á sẽ tăng mạnh từ 21,6 tỷ USD năm 
2015 lên 89,6 tỷ USD vào năm 2025. Trong đó, 
du lịch trực tuyến tại Việt Nam chiếm 10%, tương 
đương 9 tỷ USD. Theo tập đoàn nghiên cứu thị 
trường Euromonitor International, doanh thu bán 
hàng du lịch trực tuyến tại Việt Nam sẽ duy trì mức 
độ tăng trưởng 12% trong giai đoạn 2015-2020 
(Lâm Minh, 2017).
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 75
Thêm vào đó, Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin 
và Truyền thông) cho biết, hiện nay có trên 50 triệu 
người Việt Nam sử dụng internet, chiếm 53% dân 
số và cao hơn mức bình quân của khu vực châu 
Á - Thái Bình Dương (46,64%) và trên thế giới 
(48,2%). Trong số đó có tới 78% thường xuyên sử 
dụng internet hàng ngày (Lâm Minh, 2017). Đây 
là thuận lợi lớn cho doanh nghiệp tham gia du lịch 
trực tuyến. Rất nhiều người trẻ trước khi quyết 
định đi du lịch đều tìm hiểu thông tin về nơi đến 
trên mạng, sau đó đặt vé, phòng và các dịch vụ 
khác trực tuyến. Đặc biệt, xu hướng của giới trẻ 
trong nước hiện nay thích du lịch trải nghiệm đến 
những nơi xảy ra các sự kiện lớn được quảng bá 
trên phim ảnh.
Những con số nói trên đã cho thấy tiềm năng lớn 
của thị trường du lịch trực tuyến tại Việt Nam. Đây 
là cơ sở thúc đẩy các công ty du lịch, các hãng 
vận chuyển khách, các cơ sở lưu trú sử dụng các 
công cụ trực tuyến nhằm nâng cao thương hiệu 
và gia tăng doanh số. Facebook, Zalo, Zing.me là 
ba trong số các trang mạng xã hội phổ biến nhất 
mà các công ty Việt Nam tận dụng cho các hoạt 
động tiếp thị và quảng bá.
Nhận thức vai trò của công nghệ thông tin trong 
kinh doanh du lịch, ngày 04/5/2017, Thủ tướng 
Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg 
về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách 
mạng Công nghiệp 4.0, trong đó nêu rõ yêu cầu 
đẩy mạnh phát triển du lịch thông minh. Theo đó, 
tới năm 2020 Việt Nam sẽ thu hút được từ 17 
đến 20 triệu lượt khách quốc tế (so với 10 triệu 
năm 2016), phục vụ 82 triệu lượt khách nội địa 
(so với 62 triệu năm 2016), đóng góp trên 10% 
GDP, tổng thu từ khách du lịch đạt 35 tỷ USD và 
tạo ra khoảng 4 triệu việc làm gồm 1,6 triệu việc 
làm trực tiếp. 
Thực tiễn hơn 10 năm triển khai Luật Du lịch 2005 
rút ra nhiều bài học quý, có những yếu tố tích 
cực có tính chất mở đường cho du lịch phát triển 
nhưng đồng thời cũng nảy sinh không ít những 
vấn đề gây trở ngại tạo ra những rào cản. Điều đó 
cho thấy khuôn khổ thể chế đã không đáp ứng kịp 
nhu cầu và xu thế phát triển du lịch. Vì vậy, những 
tư tưởng đổi mới trong Nghị quyết số 92/NQ-CP, 
ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải 
pháp đẩy mạnh phát triển du lịch trong thời kỳ mới 
và Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 16/01/2017 của 
Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành 
kinh tế mũi nhọn đã được tiếp thu và thể chế hóa 
trong Luật Du lịch sửa đổi mà Quốc hội đã thông 
qua ngày 19/6/2017. Những yếu tố mới có độ cởi 
mở cao được hướng dẫn triển khai đồng bộ với 
sự cam kết mạnh mẽ của chính quyền từ trung 
ương đến địa phương, doanh nghiệp và người 
dân sẽ khơi dậy tiềm lực, tạo đà kích thích du lịch 
phát triển bứt phá trong giai đoạn tới.
Tổng cục Du lịch cũng xác định việc ứng dụng 
công nghệ thông tin trong ngành du lịch là một 
trong những giải pháp đột phá để nâng cao tính 
cạnh tranh của du lịch Việt Nam. Giải pháp ứng 
dụng công nghệ thông tin sẽ là công cụ hữu hiệu 
phục vụ ba nhóm đối tượng chính là người quản 
lý, nhà cung cấp dịch vụ và khách du lịch. 
3. NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC
Như đã nói ở trên, hiện nay 100% các doanh 
nghiệp du lịch đều quan tâm sử dụng internet 
trong hoạt động quảng cáo và kinh doanh. Mặc 
dù vậy, ứng dụng công nghệ thông tin trong đại đa 
số các doanh nghiệp du lịch mới dừng ở mức cơ 
bản, chưa khai thác được tối ưu các lợi thế của 
công nghệ trong cạnh tranh, thu hút khách hàng 
cũng như trong quản lý, điều hành doanh nghiệp. 
Theo khảo sát của Hiệp hội Du lịch Việt Nam, hiện 
nay, ngoài hệ thống khách sạn, đặc biệt là khách 
sạn cao cấp, thương hiệu quốc tế và các hãng 
hàng không ứng dụng công nghệ thông tin trong 
hoạt động kinh doanh khá thành công thì hầu hết 
các đối tượng khác liên quan đến hoạt động du 
lịch như: doanh nghiệp lữ hành, điểm tham quan 
và các đơn vị vận chuyển đều còn nhiều hạn chế 
trong việc ứng dụng công nghệ số.
Ví dụ từ việc nhỏ nhất như bảo vệ tên miền 
thương hiệu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, 
hàng loạt thương hiệu du lịch uy tín của Việt Nam 
đã bị mất tên miền ".com" như: Sài Gòn Tourist 
(mất tên miền Saigontourist.com), Hà Nội Tourist 
(mất tên miền Hanoitourist.com), Vitour (mất tên 
miền Vitours.com), Du lịch Chợ Lớn (mất tên miền 
Cholontourist.com)...
Ngoài ra, trong khi các hãng du lịch quốc tế đang 
ngày càng đổi mới phương thức tiếp thị và bán 
hàng thông qua các ứng dụng như đặt tour/đặt 
phòng qua app, quản lý hoạt động kinh doanh 
và chăm sóc khách hàng bằng hệ thống CRM 
(Customer Relationship Management), thanh 
toán trực tuyến thì rất nhiều doanh nghiệp du 
lịch Việt Nam vẫn vận hành theo hình thức cũ, vừa 
chậm chạp vừa tốn kém.
Do không ý thức được tầm quan trọng của bảo 
mật thông tin, ứng dụng công nghệ vào quản trị, 
chậm chân so với các đối thủ cạnh tranh khác nên 
doanh thu của nhiều doanh nghiệp sụt giảm, mất 
76
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018
khách, chưa kể gánh thêm những rủi ro không 
đáng có khi không bám sát được thị trường và 
năng động trong công tác điều hành quản lý.
* Đối với các doanh nghiệp lữ hành, một số 
công ty lữ hành lớn như Saigontourist, Vietravel, 
Vietrantour, Viet Media Travel, Vietnamtourism 
đều tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong 
hoạt động kinh doanh du lịch với khối lượng sản 
phẩm phong phú, có thông tin cụ thể về thời điểm, 
giá cả, các dịch vụ. Website của các công ty này 
đã giới thiệu và cung cấp nhiều sản phẩm sẵn có 
của công ty cho khách hàng. Trong khi đó, hầu hết 
các công ty lữ hành khác chỉ đơn thuần giới thiệu 
sản phẩm và đề nghị khách hàng đăng ký, công ty 
sẽ liên hệ lại và thông báo chi tiết.
* Đối với các điểm tham quan và các đơn vị vận 
chuyển khác (ngoài hàng không), việc ứng dụng 
công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh du 
lịch chiếm tỷ lệ rất thấp. Cụ thể, theo Euromonitor 
International, tỉ lệ ứng dụng thương mại điện tử tại 
các điểm tham quan tại Việt Nam là hầu như chưa 
có. Tỉ lệ thanh toán trực tuyến của các loại hình 
vận chuyển du lịch (thuyền, tàu hỏa, xe khách...) 
tại Việt Nam (trong giai đoạn 2012-2016) chỉ đạt 
mức 2-3% và dự đoán mức tăng trưởng trong giai 
đoạn 2017-2022 ở mức 5%.
Điều đáng tiếc hơn cả là thị trường du lịch trực tuyến 
tại Việt Nam dường như đang là mảnh đất màu mỡ 
cho các thương hiệu quốc tế khai thác. Theo số liệu 
của Hiệp hội Thương mại điện tử, các OTAs thương 
hiệu toàn cầu như Agoda.com, booking.com, 
Traveloka.com, Expedia.com (bao gồm Trivago.
com, hotel.com) đang độc chiếm thị trường Việt 
Nam, với 80% thị phần. Trong khi đó, hiện chỉ có 
trên 10 công ty Việt Nam có kinh doanh du lịch trực 
tuyến như: Ivivu.com, chudu24.com, mytour.vn, tripi.
vn, mytour.vn, gotadi.com, vntrip.vn Tuy nhiên, 
các công ty này cũng chỉ phục vụ thị trường khách 
trong nước và số lượng giao dịch còn thấp.
4. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
Có thể nói, trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công 
nghiệp 4.0 đã tác động và lan tỏa trên phạm vi 
rất rộng như hiện nay, ngành du lịch vừa được 
hưởng lợi, đồng thời cũng phải đối mặt với áp lực 
lớn bởi sự cạnh tranh của các quốc gia đi trước và 
đạt được nhiều thành tựu cả về nghiên cứu chuyên 
sâu cũng như hoạt động thực tiễn. Điều này đòi hỏi 
tất cả các thành phần trong ngành du lịch, từ các 
cơ quan quản lý nhà nước cho đến các công ty cấp 
sản phẩm - dịch vụ du lịch, phải hành động kịp thời, 
đẩy mạnh áp dụng công nghệ, thực hiện quá trình 
chuyển đổi số càng sớm càng tốt nếu không muốn 
bị chậm chân so với các nước trong khu vực. 
Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 6 tháng năm 
2017 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt trên 
6 triệu lượt khách, tăng 30% so với cùng kỳ năm 
2016. Tuy nhiên, năm 2016 Việt Nam chỉ đứng thứ 
5 trong các nước ASEAN về số lượng khách quốc 
tế với hơn 10 triệu lượt và chỉ bằng một phần ba 
so với Thái Lan.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề xuất Chính 
phủ các giải pháp để đạt mức tăng trưởng 30% 
trong năm 2017, phấn đấu đưa du lịch nước ta trở 
thành ngành kinh tế mũi nhọn, bao gồm đẩy mạnh 
hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch và mở rộng 
danh sách các nước được thí điểm áp dụng cấp 
thị thực điện tử (e-visa).
Để làm được điều này, cần chú ý những giải 
pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức 
khoa học và công nghệ trong lĩnh vực du lịch.
Đẩy mạnh việc đào tạo trong và ngoài nước đối 
với đội ngũ cán bộ nghiên cứu có năng lực và 
trình độ cao, các nhóm nghiên cứu mạnh trong 
các lĩnh vực ưu tiên về ứng dụng công nghệ trong 
du lịch nhằm tăng nhanh chất lượng nghiên cứu, 
sản phẩm khoa học, công nghệ đạt trình độ và 
chuẩn mực quốc tế; chuyển giao và ứng dụng 
nhanh các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn 
nhằm góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản 
phẩm du lịch Việt Nam.
Thứ hai, phát triển, đổi mới hệ thống các cơ quan 
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong lĩnh 
vực du lịch
Đầu tư nâng cao năng lực khoa học, công nghệ 
nội sinh cho các đơn vị, cơ quan KH&CN hiện có; 
đầu tư củng cố nâng cao năng lực nghiên cứu 
ứng dụng của Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch, 
chú trọng đầu tư chiều sâu (cả về nhân lực và 
trang thiết bị nghiên cứu) để hình thành tổ chức 
nghiên cứu có năng lực và chuyên môn cao trong 
lĩnh vực du lịch ngang tầm các nước trong khu 
vực. Tăng cường sự phối hợp giữa các viện 
nghiên cứu, các trường đại học trong cả nước và 
quốc tế về lĩnh vực du lịch để giải quyết các nhiệm 
vụ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển du 
lịch. Đổi mới tổ chức và quản lý khoa học và công 
nghệ theo hướng đề cao tính tự chủ, tự chịu trách 
nhiệm của tổ chức, cá nhân.
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 77
Thứ ba, xây dựng chương trình ứng dụng và phát 
triển công nghệ trong lĩnh vực du lịch, tập trung 
vào một số hướng như: 
• Đối với hoạt động quản lý: 
Xây dựng có trọng điểm một số hướng ứng dụng 
công nghệ nhằm thay đổi mạnh về mức độ ứng 
dụng công nghệ trong quản lý du lịch, bao gồm:
- Đẩy mạnh số hóa công tác quản lý ngành du lịch, 
phát triển chính quyền điện tử hướng tới du lịch bền 
vững, trong đó lấy nhu cầu của khách du lịch, người 
dân và doanh nghiệp làm trung tâm.
- Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông 
(internet, xây dựng kênh truyền hình riêng cho 
du lịch, quảng bá trên các kênh truyền hình nổi 
tiếng) trong hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch 
chung của ngành.
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ hệ thống thông 
tin địa lý (GIS) và công nghệ viễn thám trong quản 
lý tài nguyên, môi trường du lịch và thực hiện các 
quy hoạch du lịch ở Việt Nam.
- Nghiên cứu xây dựng và từng bước ứng dụng hệ 
thống thông tin quản lý điểm đến.
• Đối với hoạt động kinh doanh du lịch: 
Tập trung vào một số hướng ứng dụng trọng yếu sau:
- Đầu tư cho công nghệ thông tin bao gồm cả 
phần cứng và phần mềm, trong đó xây dựng, 
hoàn thiện kế hoạch ứng dụng công nghệ thông 
tin trong kinh doanh và marketing, bao gồm tăng 
cường nguồn lực đội ngũ nhân sự công nghệ 
thông tin tại chỗ, tăng cường thực thi các công cụ 
online marketing và e-commerce; kiểm soát spam 
email. Song song với đó, các doanh nghiệp cần 
xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo, mới lạ, 
đảm bảo độ chính xác, tin cậy về thông tin, các 
sản phẩm và dịch vụ.
Ngoài ra, cần tăng cường quản lý và khai thác 
hiệu quả mạng xã hội và sức mạnh của quảng 
cáo truyền miệng; Đầu tư xây dựng website có 
giao diện thân thiện với smart phone, tăng cường 
tích hợp các công cụ thanh toán trực tuyến nhằm 
đẩy mạnh kênh bán lẻ trên nền tảng di động; Số 
hóa dữ liệu, tăng cường khai thác kho dữ liệu 
lớn - Big Data
- Ứng dụng các mô hình kinh doanh du lịch trực 
tuyến (mua bán phòng khách sạn, tour du lịch trên 
mạng) để từng bước chuyển dần sang mô hình 
thương mại điện tử trong du lịch (e-tourism) khi 
các điều kiện về hạ tầng công nghệ và hành lang 
pháp lý đầy đủ. Phấn đấu đến năm 2020 xây dựng 
và vận hành hoàn chỉnh hệ thống thương mại điện 
tử trong du lịch theo các mô hình G2B, B2B, B2C.
5. KẾT LUẬN 
Ứng dụng công nghệ vào hoạt động du lịch đã mang 
lại những kết quả đáng kể như đã trình bày ở trên. 
Với tốc độ tăng trưởng du lịch khá ấn tượng hiện 
nay và những năm tiếp theo cùng với sự phát triển 
nhanh, ưu việt của công nghệ, thì ứng dụng công 
nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các 
doanh nghiệp trong hoạt động lữ hành, nhà hàng, 
khách sạn, cũng như việc quảng bá hình ảnh du lịch 
Việt Nam sẽ càng có hiệu quả hơn, góp phần đáng 
kể để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của 
đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013). Quyết 
định số 4227/QĐ-BVHTTDL, ngày 29/11/2013 
phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công 
nghệ ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 
2013-2020, tầm nhìn 2030.
[2]. Tổng cục Du lịch (2017). Báo cáo du lịch thường 
niên Việt Nam năm 2016.
[3]. Tổng cục Du lịch (2017). Thông tin về tình hình du 
lịch Việt Nam 6 tháng đầu năm 2017.
[4]. Lâm Minh (2017). Doanh nghiệp du lịch Việt vẫn 
“loay hoay” với ứng dụng CNTT. Truy cập từ http://
toquoc.vn/du-lich/doanh-nghiep-du-lich-viet-van-
loay-hoay-voi-ung-dung-cntt-259319.html
[5]. Daintith, John, ed. (2009). IT, a Dictionary of 
Physics. Oxford University Press, retrieved 1 
August 2012.
[6]. World Tourism Organization (1995). UNWTO 
technical manual: Collection of Tourism Expenditure 
Statistics. p.10.

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_hieu_qua_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_kinh_do.pdf