Năng suất lượng rơi của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc
Lượng rơi (litterfall) là một mắt xích quan trọng
của vòng tuần hoàn vật chất trong các hệ sinh thái
rừng. Đó là con đường chủ yếu di chuyển vật chất
hữu cơ và chất khoáng từ thảm thực vật xuống đất
thông qua quá trình phân hủy và khoáng hóa.
Lượng rơi còn là bộ phận cấu trúc sinh khối ở phần
trên mặt đất của thảm thực vật. Theo Clark D. A. và
cs. (2001), lượng rơi có thể chiếm đến một nữa
năng suất sơ cấp của phần trên mặt đất [6].
Ngay sau khi rơi xuống mặt đất, lượng rơi
lập tức được phân hủy. Quá trình diễn ra dưới
tác động của các yếu tố vô sinh (nhiệt độ, độ
ẩm, lượng mưa, độ pH môi trường, hàm lượng
các chất dinh dưỡng và chất khoáng có trong
lượng rơi) và các yếu tố hữu sinh (nấm, vi sinh
vật, động vật đất.). Các chất dinh dưỡng và
chất khoáng tạo ra từ quá trình phân hủy lượng
rơi lại được thực vật hấp thụ và sử dụng cho quá
trình sinh trưởng, phát triển tiếp theo [7, 8]. Quá
trình đó diễn ra liên tục, tạo nên một chu trình
khép kín - chu trình dinh dưỡng trong hệ sinh
thái. Trong chu trình đó, phần lớn các chất dinh
dưỡng thường nằm trong cơ thể thực vật. Vì vậy,
trên những vùng đất khô cằn, nghèo kiệt, vẫn có
thể hình thành những kiểu rừng (hay kiểu thảm
thực vật) có sinh khối lớn [5].
Vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến sự tái sinh tự nhiên của rừng, không thể bỏ
qua lượng rơi và quá trình phân hủy của chúng.
Dưới đây là một số dẫn liệu về năng suất lượng
rơi của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm
đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Năng suất lượng rơi của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc
40 29(1): 40-46 Tạp chí Sinh học 3-2007 Năng suất l−ợng rơi của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc Lê Đồng Tấn, Đỗ Hoàng Chung Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật L−ợng rơi (litterfall) là một mắt xích quan trọng của vòng tuần hoàn vật chất trong các hệ sinh thái rừng. Đó là con đ−ờng chủ yếu di chuyển vật chất hữu cơ và chất khoáng từ thảm thực vật xuống đất thông qua quá trình phân hủy và khoáng hóa. L−ợng rơi còn là bộ phận cấu trúc sinh khối ở phần trên mặt đất của thảm thực vật. Theo Clark D. A. và cs. (2001), l−ợng rơi có thể chiếm đến một nữa năng suất sơ cấp của phần trên mặt đất [6]. Ngay sau khi rơi xuống mặt đất, l−ợng rơi lập tức đ−ợc phân hủy. Quá trình diễn ra d−ới tác động của các yếu tố vô sinh (nhiệt độ, độ ẩm, l−ợng m−a, độ pH môi tr−ờng, hàm l−ợng các chất dinh d−ỡng và chất khoáng có trong l−ợng rơi) và các yếu tố hữu sinh (nấm, vi sinh vật, động vật đất...). Các chất dinh d−ỡng và chất khoáng tạo ra từ quá trình phân hủy l−ợng rơi lại đ−ợc thực vật hấp thụ và sử dụng cho quá trình sinh tr−ởng, phát triển tiếp theo [7, 8]. Quá trình đó diễn ra liên tục, tạo nên một chu trình khép kín - chu trình dinh d−ỡng trong hệ sinh thái. Trong chu trình đó, phần lớn các chất dinh d−ỡng th−ờng nằm trong cơ thể thực vật. Vì vậy, trên những vùng đất khô cằn, nghèo kiệt, vẫn có thể hình thành những kiểu rừng (hay kiểu thảm thực vật) có sinh khối lớn [5]. Vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh h−ởng đến sự tái sinh tự nhiên của rừng, không thể bỏ qua l−ợng rơi và quá trình phân hủy của chúng. D−ới đây là một số dẫn liệu về năng suất l−ợng rơi của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật). I. ph−ơng pháp nghiên cứu Chúng tôi đl nghiên cứu l−ợng rơi tại 5 ô định vị có ký hiệu là ML1, ML2, ML3, ML4 và ML5 (bảng 1). Bảng 1 Tọa độ, độ cao, độ dốc và h−ớng phơi của 5 ô định vị thu mẫu l−ợng rơi tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh (Vĩnh Phúc) Tọa độ STT Điểm thu mẫu Kinh độ Vĩ độ Độ cao so với mặt biển Độ dốc H−ớng phơi 1 ML1 21o 23' 21''' 105o 42' 54'' 120 m 15o Tây - Bắc 2 ML2 21o 23' 39'' 105o 43'30'' 240 m 20o Tây 3 ML3 21o 23' 33'' 105o 43'10'' 230 m 15o Tây 4 ML4 21o 23' 52'' 105o 43' 12'' 225 m 15o Tây 5 ML5 21o 24' 07'' 105o 43' 18'' 285 m 20o Tây - Nam L−ợng rơi đ−ợc thu thập theo ph−ơng pháp bẫy l−ợng rơi [3, 4]. Theo ph−ơng pháp này, mỗi ô định vị đặt ngẫu nhiên 3 bẫy có kích th−ớc 1 m2 (1 m ì 1 m). Hàng tháng, thu toàn bộ vật rơi trong bẫy và phân chia thành các bộ phận: cành, lá và các bộ phận khác (chồi, hoa, quả). Sau khi cân để xác định trọng l−ợng, gộp từng bộ phận của 3 bẫy trên cùng một ô định vị, trộn đều, lấy mỗi bộ phận 0,1-0,3 kg để làm mẫu xác định trọng l−ợng khô tuyệt đối và những phân tích tiếp theo. Công trình đ−ợc hỗ trợ về kinh phí của Ch−ơng trình nghiên cứu cơ bản. 41 Xác định trọng l−ợng khô tuyệt đối: mẫu sau khi phơi khô ở nhiệt độ phòng, đ−ợc sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ 105oC liên tục trong 4 giờ. Sau đó, cứ 30 phút cân 1 lần; cân liên tục cho đến khi trọng l−ợng không đổi. Năng suất l−ợng rơi (tổng số, cành, lá) cả năm đ−ợc tính bằng g/m2/năm và quy đổi thành kg/ha/năm theo trọng l−ợng khô tuyệt đối. Diễn biến của l−ợng rơi theo tháng trong năm đ−ợc tính bằng g/m2/tháng theo trọng l−ợng khô tuyệt đối. Số liệu đ−ợc xử lý theo các ph−ơng pháp thống kê trong sinh học và sử dụng phần mềm exel để tính toán kết quả. II. Kết quả và thảo luận 1. Điều kiện tự nhiên của vùng nghiên cứu Trạm đa dạng sinh học Mê Linh thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, đ−ợc xây dựng tại xl Ngọc Thanh, huyện Mê Linh (nay là thị xl Phúc Yên), tỉnh Vĩnh Phúc; có tổng diện tích tự nhiên 170,3 ha, tọa độ địa lý từ 21o23'57'' đến 21o25'15'' vĩ bắc và từ 105o42'40'' đến 105o46'65'' kinh đông, độ cao từ 100-500 m so với mặt biển. Địa hình: khu vực nghiên cứu là một s−ờn núi kéo dài theo h−ớng đông-nam của dly núi Tam Đảo. ở độ cao từ 300 m trở lên, có địa hình dốc (độ dốc trung bình 25o-30o), có nhiều đá lộ đầu. D−ới 300 m, địa hình bằng phẳng hơn (độ dốc trung bình 15o-20o) và chủ yếu là núi đất. Kết hợp với s−ờn đông của một nhánh núi thuộc V−ờn quốc gia Tam Đảo, toàn khu vực là một thung lũng dài khoảng 4-5 km và rộng 1-2 km. Thổ nh−ỡng: chiếm phần lớn diện tích là đất pheralit mùn đỏ vàng ở độ cao trên 300 m; tiếp đến là đất pheralit vàng đỏ phát triển trên các loại đá khác nhau ở độ cao d−ới 300 m. Dọc theo chân núi, ở độ cao d−ới 100 m, là đất dốc tụ phù sa. Loại đất này chiếm diện tích không lớn, chỉ khoảng 3-4 ha. Khí hậu: số liệu quan trắc tại Trạm khí t−ợng thủy văn Vĩnh Yên cho thấy nhiệt độ trung bình năm là 23,9oC. (trung bình mùa hè là 27-29oC, trung bình mùa đông 16-17oC). L−ợng m−a trung bình 1358,7 mm/năm; mùa m−a từ tháng 4 đến tháng 10, chiếm 90% l−ợng m−a cả năm; m−a tập trung từ tháng 6 đến tháng 9, cao nhất vào tháng 8; số ngày m−a khá nhiều, 142 ngày/năm. Độ ẩm trung bình 83%, thấp vào tháng 2 (d−ới 80%). Thủy văn: trong khu vực, có con suối Quân Boong bắt nguồn từ độ cao 300 m, chảy dọc theo thung lũng và là ranh giới giữa Trạm đa dạng sinh học Mê Linh và V−ờn quốc gia Tam Đảo; qua thôn Đồng Trầm (xl Ngọc Thanh) con suối đổ vào hồ Đại Lải. Thảm thực vật: theo kết quả điều tra, toàn bộ diện tích của Trạm tr−ớc đây vốn đ−ợc che phủ bởi kiểu rừng kín th−ờng xanh m−a mùa nhiệt đới; cho đến nay, nó đl bị phá hủy hoàn toàn và đ−ợc thay thế bằng các trạng thái thứ sinh nhân tác, bao gồm từ thảm cỏ đến thảm cây bụi và rừng thứ sinh đang trong các giai đoạn diễn thế đi lên. Đặc điểm của các kiểu thảm thực vật đl đ−ợc mô tả khá chi tiết trong các công trình công bố gần đây [1, 2]. Tổng hợp số liệu điều tra trên 3 ô tiêu chuẩn có diện tích 2000 m2 cho thấy thảm thực vật trên 5 ô định vị là 5 −u hợp thực vật gồm chủ yếu là các loài cây tiên phong −a sáng. Đặc điểm lâm học của các −u hợp thực vật này đ−ợc trình bày trong bảng 2. 2. Năng suất của l−ợng rơi Có 3 nhóm tạo thành năng suất của l−ợng rơi gồm lá, cành và nhóm các các cơ quan sinh sản, chồi và vỏ thân. Thực tế thì nhóm các cơ quan sinh sản, chồi và vỏ thân chỉ chiếm một tỷ lệ rất thấp (0,1-0,2% tổng l−ợng rơi hàng năm). Vì vậy, chúng tôi không thống kê riêng nhóm này mà gộp vào nhóm cành rơi. Các số liệu trình bày trong bảng 3 cho thấy các ô định vị có tổ thành loài cây −u thế khác nhau thì có năng suất của l−ợng rơi khác nhau. Tại ô định vị ML1 có tổ thành loài −u thế là sơn rừng (Toxicodendron succedanea), trám chim (Canarium parvum), thành ngạnh (Cratoxylum polyanthum), năng suất của l−ợng rơi đạt 8,24 tấn/ha/năm, thấp nhất trong số 5 ô định vị. Tại ô ML2 có tổ thành loài −u thế là sau sau (Liquidambar formosana), sơn rừng (Toxicodendron succedanea), bộp lông (Actino- daphne pilosa), trám chim (Canarium parvum), năng suất của l−ợng rơi đạt 8,69 tấn/ha/năm; tại ô ML3 có tổ thành loài −u thế là bồ đề (Styrax tonkinensis), trâm (Syzygium sp.), lá nến (Macaranga denticulata), sơn rừng (Toxicodendron succedanea), năng suất của l−ợng rơi đạt 9,47 tấn/ha/năm; tại ô ML4 là rừng nứa (Neohouzeaua dullooa), năng suất của l−ợng rơi đạt 13,06 tấn/ha/năm; tại ô ML5 có tổ thành loài −u thế là vàng anh (Saraca dives), thị (Diospyros sp.), nhội (Bischofia javanica), năng suất của l−ợng rơi đạt 15,69 tấn/ha/năm. 42 Bảng 2 Đặc điểm của thảm thực vật trên các ô định vị thu mẫu l−ợng rơi tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh (số liệu tổng hợp trên 3 ô tiêu chuẩn 2000 m2) Loài −u thế Ô định vị Tuổi* D (cm) H (m) Mật độ (cây/ha) Độ tàn che Tên khoa học Tên phổ thông Toxicodendron succedanea (L.) Mold. Sơn rừng Canarium parvum Leenh. Trám chim ML1 10 8,7 ± 0,2 7,4 ± 0,3 135 ± 30 0,6 Cratoxylum polyanthum (Kurz.) Kurz. Thành ngạnh Liquidambar formosana Hance Sau sau Toxicodendron succedanea (L.) Mold. Sơn rừng Actinodaphne pilosa (Lour.) Merr. Bộp lông ML2 15 10,2 ± 0,3 9,6 ± 0,4 1280 ± 50 0,7 Canarium parvum Leenh. Trám chim Styrax tonkinensis (Pierre) Craib. ex Hartwiss Bồ đề Macaranga denticulata (Blume) Muell.-Arg. Lá nến Toxicodendron succedanea (L.) Mold. Sơn rừng ML3 15 15,3 ± 0,25 12,5 ± 0,5 1130 ± 40 0,7 Syzygium sp. Trâm Neohouzeaua dullooa (Gamble) A. Camus Nứa Styrax tonkinensis (Pierre) Craib. ex Hartwiss Bồ đề ML4 15 13,6 ± 0,4 10,4 ± 0,6 200 ± 45 0,8 Choerospondias sp. Dâu gia xoan Saraca dives Pierre Vàng anh Diospyros sp. Thị ML5 25 20,2 ± 0,5 16,5 ± 0,6 950 ± 30 0,9 Bischofia javanica Blume Nhội Ghi chú: *. năm phục hồi; D. đ−ờng kính của thân cây; H. chiều cao của cây. Bảng 3 Năng suất l−ợng rơi (tấn/ha/năm) của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh L−ợng rơi Lá Cành và các bộ phận khác* Ô định vị Tổng số (tấn/ha/năm) Khối l−ợng (tấn/ha/năm) % Khối l−ợng (tấn/ha/năm) % ML1 8,24 ± 0,94 6,83 ± 0,82 82,87 1,41 ± 0,34 17,13 ML2 8,69 ± 1,78 6,78 ± 1,89 78,10 1,90 ± 0,39 21,90 ML3 9,47 ± 0,84 7,75 ± 0,76 81,83 1,72 ± 0,43 18,17 ML4 13,06 ± 1,55 11,22 ± 1,33 85,89 1,84 ± 0,53 14,11 ML5 15,69 ± 2,21 11,65 ± 1,23 74,30 4,03 ± 1,06 25,70 Ghi chú: *. các bộ phận khác gồm các cơ quan sinh sản, chồi, vỏ thân... 43 ML1 Cành 17,13% Lá 82,87% ML2 Cành 21,9% Lá 78,1% ML3 Cành 18,17% Lá 81,83% ML4 Cành 14,11% Lá 85,89% ML5 Cành 25,7% Lá 74,3% Hình 1. Tỷ lệ cành, lá (%) trong năng suất của l−ợng rơi tại các ô định vị. Về cơ cấu, lá chiếm tỷ lệ khá cao, từ 74,30% (ô ML5) đến 85,89% (ô ML4); cành chiếm từ 14,11% đến 21,90% (hình 1). Năng suất của l−ợng rơi có xu h−ớng tăng lên theo thời gian phục hồi của thảm thực vật. Cụ thể, năng suất l−ợng rơi trên ô ML1 có thời gian phục hồi 10 năm, là 8,24 tấn/ha/năm. Các ô ML2, ML3 và ML4 có thời gian phục hồi 15 năm, đạt mức t−ơng ứng là 8,69 tấn/ha/năm, 9,47 tấn/ha/năm và 13,06 tấn/ha/năm. Ô ML5 có thời gian phục hồi lâu nhất (25 năm), đạt 15,69 tấn/ha/năm. Cành rơi cũng có xu h−ớng tăng lên theo thời gian. Tỷ lệ cành rơi trên ô ML1 với thời gian phục hồi 10 năm là 17,13%; con số này tăng lên ở hai ô ML2 và ML3 với thời gian phục hồi 15 năm là 21,90% và 18,17%; ô ML5 có thời gian phục hồi 25 năm, đạt tới 25,7%. Kết quả phân tích ph−ơng sai cho thấy có sự khác nhau về năng suất của l−ợng rơi tổng số (F = 2,612; P = 0,0089) giữa các ô định vị. Điều đó cho phép khẳng định năng suất của l−ợng rơi trên các ô định vị tăng dần theo thứ tự nh− sau: ML1 < ML2 < ML3 < ML4 < ML5. Nghĩa là tổ thành loài cây khác nhau thì có năng suất của l−ợng rơi khác nhau; năng suất của l−ợng rơi tổng số, tỷ lệ nhóm cành rơi tăng lên theo thời gian phục hồi của thảm thực vật. 3. Sự diễn biến của l−ợng rơi trong năm Sự diễn biến của l−ợng rơi theo tháng trong năm trên các ô định vị đ−ợc trình bày trong bảng 4. Chiều h−ớng của quá trình đ−ợc thể hiện trong hình 1. Sự diễn biến của l−ợng rơi trong năm phụ thuộc vào đặc tính rụng lá của các loài cây (toàn bộ hay từng phần, theo mùa hay tháng trong năm). Các yếu tố khác nh− khí hậu, điều kiện lập địa và các yếu tố bất th−ờng nh− m−a blo, hạn hán kéo dài... đều có ảnh h−ởng đến quá trình rụng lá. Nghĩa là sự diễn biến của l−ợng rơi trong năm sẽ phụ thuộc vào đặc tính rụng lá của các loài cây trong mối t−ơng tác của chúng với môi tr−ờng sống [9]. Những dẫn liệu trong bảng 4 cho thấy, trên cả 5 ô định vị, đều thu đ−ợc l−ợng rơi ở tất cả các tháng trong năm. Tuy nhiên, sự phân bố của chúng lại không đều. Tháng có l−ợng rơi thấp nhất là 10 g/m2 (tháng 4, ô ML2), chỉ bằng 1,15% tổng l−ợng rơi cả năm (l−ợng rơi trên ô ML2 là 8,69 tấn/ha/năm). Tháng có l−ợng rơi cao nhất là 320 g/m2 (tháng 8, ô ML5), chiếm 20,39% tổng l−ợng rơi cả năm (l−ợng rơi trên ô ML5 là 15,69 tấn/ha/năm). Trung bình là 68,68- 130,75 g/m2/tháng. Mức chênh lệch về l−ợng rơi giữa tháng cao nhất với tháng thấp nhất trên cùng một ô định vị cũng khá cao; trên ô ML1, thấp nhất là giữa tháng 12 và tháng 2, với l−ợng rơi trung bình là 120/34g/m2/tháng (gấp 3,5 lần); trên ô ML2, cao ML1 ML2 ML3 ML4 ML5 44 nhất là giữa tháng 2 và tháng 4 với l−ợng rơi trung bình là 190/10g/m2/tháng (gấp 19 lần). Các ô định vị khác có mức chênh lệch dao động trong khoảng 4-7 lần. Biểu đồ 2 cho thấy, trừ ô ML5 là có 1 đỉnh vào tháng 8, các ô còn lại đều có 2 đỉnh: một đỉnh từ tháng 7 đến tháng 9 và một đỉnh từ tháng 11 năm tr−ớc đến tháng 2 năm sau. Đây là hai thời điểm có liên quan đến chế độ khí hậu và thời tiết trong năm. Từ tháng 7 đến tháng 9 là mùa m−a và gió blo; từ tháng 11 đến tháng 2 là mùa khô. Những điều kiện thời thiết bất lợi này là yếu tố quan trọng ảnh h−ởng đến quá trình rụng lá. Một yếu tố khác hết sức quan trọng, quyết định năng suất và diễn biến của l−ợng rơi trong năm là đặc tính rụng lá của các loài cây. Trên ô ML1, sơn rừng, trám chim, thành ngạnh (là những loài −u thế) rụng lá từ tháng 12 năm tr−ớc đến tháng 1 năm sau, tạo nên một đỉnh vào tháng 12; trên ô ML2, sau sau, sơn rừng, trám chim (là những loài −u thế) rụng lá từ tháng 1 đến tháng 2, tạo nên một đỉnh ở tháng 2. T−ơng tự, trên ô ML3, bồ đề, sơn rừng (là loài −u thế) rụng lá từ tháng 12 năm tr−ớc đến tháng 1 năm sau, tạo nên một đỉnh vào tháng 12; trên ô ML5, nhội không phải là loài rụng lá hoàn toàn nh−ng thay lá nhiều nhất vào hai tháng 7 và 8 là thời điểm trùng với mùa m−a blo, tạo nên một đỉnh duy nhất vào tháng 8. Nứa không phải loài rụng lá trên ô ML4 nh−ng có 1 đỉnh vào tháng 8 cũng là thời gian trùng với mùa m−a blo trong năm. Bảng 4 Sự phân bố của l−ợng rơi (g/m2) trong năm của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh L−ợng rơi (g/m2)/tháng Ô định vị Bộ phận thu I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Trung bình Tổng số 110 34 42 38 67,50 70,5 93,4 65,7 72,8 53 57 120 68,68 Lá 70 31 24 33 57,9 60,1 82,8 56,2 70 45,5 44,6 108 56,91 ML1 Cành 40 3 18 5,3 9,6 10,4 10,6 9,5 2,8 7,6 12,4 12 11,76 Tổng số 135 190 37 10 31,5 43,5 45 90 35,2 59,7 92,3 100 72,43 Lá 125 189 2 9 7,8 30,2 35,6 68,2 22 52,1 57,9 80 56,56 ML2 Cành 10 1 35 1 23,7 13,3 9,4 21,8 13,2 7,6 34,4 20 15,86 Tổng số 91 100 27 73,5 68,4 73,6 69,6 70 110 68 74 122 78,92 Lá 90 87,4 24 40 44,6 57,4 57,2 64,4 80 62,7 67,3 100 64,58 ML3 Cành 1 12,6 3 33,5 23,8 16,2 12,4 5,6 30 5,3 6,7 22 14,34 Tổng số 100 24,4 62 140 109,6 120,4 180 185 105 89,4 100,6 90 108,86 Lá 98,4 21 52 80 101,2 98,8 160,4 159,7 94,5 84,1 87,9 84 93,5 ML4 Cành 11,6 3,4 10 60 8,4 21,6 19,6 25,3 10,5 5,3 12,7 6 16,2 Tổng số 121 80 92 100 128,6 132,4 156,5 320 126,9 86,7 94,9 130 130,75 Lá 86 55 71 85 103,8 111,7 120,7 195,7 81,9 77,5 84,9 92,5 97,14 ML5 Cành 35 25 21 15 24,8 20,7 35,8 124,3 45 9,2 10 37,5 30,48 45 ML1 0 20 40 60 80 100 120 140 I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Tháng L uợ ng r ơi g /m 2 Tổng Lá Cành ML2 0 50 100 150 200 I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Tháng L uợ ng r ơi g /m 2 Tổng Lá Cành ML3 0 20 40 60 80 100 120 140 I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Tháng L −ọ ng r ơi g /m 2 Tổng Lá Cành ML4 0 50 100 150 200 I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Tháng L uợ ng r ơi g /m 2 Tổng Lá Cành ML5 0 50 100 150 200 250 300 350 I II III IV V VI VII V III IX X XI XII Tháng L uợ ng r ơi g /m 2 Tổng Lá Cành Hình 2. Sự diễn biến của l−ợng rơi trong năm trên các ô định vị của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh III. Kết luận 1. Năng suất của l−ợng rơi của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc đạt trung bình từ 8,24- 15,69 tấn/ha/năm, trong đó tỷ lệ lá chiếm 71,04- 85,89%, cành chiếm 1,41-4,03%. Các bộ phận sinh sản (hoa, quả) chiếm tỷ lệ rất ít, chỉ 0,1- 0,2% tổng l−ợng rơi hàng năm. 2. Tổ thành loài cây của ô định vị có ảnh h−ởng đến năng suất của l−ợng rơi. Điều đó đ−ợc thể hiện qua số liệu l−ợng rơi thu đ−ợc trên các ô định vị. Thời gian phục hồi của rừng càng lâu thì năng suất của l−ợng rơi tổng số và tỷ lệ cành rơi càng cao. Năng suất của l−ợng rơi, tỷ lệ cành rơi trên các ô định vị tăng dần theo thứ tự: ML1 < ML2 < ML3 < ML4 < ML5. 3. Về diễn biến của l−ợng rơi trong năm, trừ ô định vị ML5 chỉ có một đỉnh vào tháng 8, các ô còn lại đều có xu h−ớng đạt ít nhất 2 đỉnh: đỉnh thứ nhất từ tháng 7 đến tháng 9 và đỉnh thứ 2 từ tháng 11 năm tr−ớc đến tháng 2 năm sau. 4. Mức chênh lệch về l−ợng rơi giữa các tháng trong năm trên cùng một ô định vị là khá cao, thấp nhất là 3,5 lần, cao nhất là 19 lần và trung bình là 4-7 lần. Năng suất của l−ợng rơi trong tháng thấp nhất chỉ chiếm 1,15% và trong tháng cao nhất chiếm 20,39% tổng l−ợng rơi cả năm. Tài liệu tham khảo 1. Ma Thị Ngọc Mai, Lê Đồng Tấn, 2004: Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học sự sống: 818-821. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 2. Lê Đồng Tấn, 2003: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: 465-467. Hà Nội. 3. Nguyễn Hoàng Trí, 1986: Góp phần nghiên cứu sinh khối và năng suất quần xl rừng đ−ớc đôi (Rhizophora apiculata Bl.) ở Cà Mau - tỉnh Minh Hải (luận án phó tiến sỹ). Tr−ờng đại học S− phạm Hà Nội I. 4. Hoàng Xuân Tý, 1988: Điều kiện đất trồng rừng bồ đề (Styrax tonkinensis Pierre) làm nguyên liệu giấy sợi và ảnh h−ởng của rừng bồ đề trồng thuần loại đến độ phì của đất (luận án phó tiến sỹ). Viện Lâm nghiệp, Hà Nội. 5. Richards P. W., 1967: Rừng m−a nhiệt đới (V−ơng Tấn Nhị dịch). Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. ML1 ML2 ML3 ML4 ML5 46 6. Clark D. A. et al., 2001a: Ecological Applications, 11: 356-370. 7. Proctor J. et al., 1983b: Journal of Ecology, 71: 261-283. 8. Tanner E. V. J., 1980: Journal of Ecology, 68: 833-848. 9. Xiaoniu N. Xua, Eiji Hirata, 2002: Forest Ecology and Management, 157: 165-173. Litterfall production of the Natural - recovered secondary forest at the MeLinh Station for biodiversity, VinhPhuc Province Le Dong Tan, Do Hoang Chung Summary The litterfall is an important link of the chain to transport organic materials and mineral substances from the vegetation into the soil in ecosystems. There are many factors controlling the litterfall production: site conditions, fertility of the soil, growth season, composition and age of the plant. The study of the litterfall production takes part to clear the matter cycle and the nutritive cycle in ecosystems. It also defines the ability to return nutritive elements of the vegetation to the soil. Five permanent plots (with signs ML1, ML2, ML3, ML4 and ML5) were choosed to collect litterfall samples in the secondary forest from age of 10 years to age of 25 years at the Melinh station for Biodiversity, Vinhphuc province. The dominant species in these plots were mainly defoliated species such as: Toxicodendron succedanea (L.) Mold., Canarium parvum Leenh., Cratoxylum polyanthum (in ML1); Liquidambar formosana Hance, Toxicodendron succedanea (L.) Mold., Canarium parvum Leenh. (in ML2); Styrax tonkinensis (Pierre) Craib. ex Hartwiss, Toxicodendron succedanea (L.) Mold. (in ML3); Bischofia javanica Blume (in ML5). The litterfall samples were collected monthly in 3 random distributed traps with dimension of 1 m2 (1 m ì 1 m) in two years, from 2004 to 2005. The data showed that the litterfall production of the secondary forests was 8.24 T/ha-15.69 T/ha per year; the average was 68.68-130.75 g/m2 per month. The rate of leaves was from 71.04% to 85.89% and the rate of branchs from 1.41% to 4.03% in total of the litterfall production in year. There were differences in total and branch litterfall production between the plots. They were in order ML1 < ML2 < ML3 < ML4 < ML5. The distribution of the litterfall production in months in 5 plots was also presented in this report. The data showed that the plot ML5 had one peak of litterfall in August and the other plots had two peaks: the first peak was from July to September and the second one was from November to February. The litterfall production depended on the composition and the defoliated particularity of species in the communities. Ngày nhận bài: 7-8-2006
File đính kèm:
- nang_suat_luong_roi_cua_rung_thu_sinh_phuc_hoi_tu_nhien_tai.pdf