Ngân hàng thích ứng khi chuyển đổi kinh tế

Hệ thống tài chính ngân hàng với mục tiêu bao hàm sự ổn định, điều hòa dòng vốn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Suốt quá trình chuyển đổi, hệ thống ngân hàng phải tái cấu trúc và luôn thích

ứng trước những chuyển biến về chính trị - xã hội, tăng hiệu quả sử dụng vốn,

điều chỉnh cơ cấu sở hữu đặc biệt chú ý tới yếu tố nước ngoài, tăng cường tính

kịp thời của chính sách tiền tệ và tỷ giá,đồng thời hướng tới cấu trúc vững chắc.

Bài viết này xoay quanh ba khía cạnh: (1) Ổn định và hiệu quả của hệ thống

ngân hàng tại các quốc gia chuyển đổi; (2) Nguy cơ ảnh hưởng đến hệ thống

ngân hàng; và (3) Trao đổi cấu trúc hệ thống ngân hàng VN

pdf 5 trang yennguyen 5040
Bạn đang xem tài liệu "Ngân hàng thích ứng khi chuyển đổi kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngân hàng thích ứng khi chuyển đổi kinh tế

Ngân hàng thích ứng khi chuyển đổi kinh tế
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 14 (24) - Tháng 01- 02/2014
Hoạt Động NH Hướng Tới Hồi Phục & Hoàn Thiện
10
Hệ thống tài chính ngân hàng với mục tiêu bao hàm sự ổn định, điều hòa dòng vốn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Suốt quá trình chuyển đổi, hệ thống ngân hàng phải tái cấu trúc và luôn thích 
ứng trước những chuyển biến về chính trị - xã hội, tăng hiệu quả sử dụng vốn, 
điều chỉnh cơ cấu sở hữu đặc biệt chú ý tới yếu tố nước ngoài, tăng cường tính 
kịp thời của chính sách tiền tệ và tỷ giá,đồng thời hướng tới cấu trúc vững chắc. 
Bài viết này xoay quanh ba khía cạnh: (1) Ổn định và hiệu quả của hệ thống 
ngân hàng tại các quốc gia chuyển đổi; (2) Nguy cơ ảnh hưởng đến hệ thống 
ngân hàng; và (3) Trao đổi cấu trúc hệ thống ngân hàng VN.
Từ khóa: Chuyển đổi kinh tế, cấu trúc hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng thích ứng 
khi chuyển đổi kinh tế
THS. NGuyễN THANH DƯƠNG
1. Ổn định và hiệu quả tại các 
quốc gia chuyển đổi
1.1. Ổn định và hiệu quả trong 20 
năm chuyển đổi
Các quốc gia như Trung Đông 
Âu (CEE), Đông Nam Âu (SEE), 
Trung Đông và Đông Nam Âu 
đã gia nhập EU (CESEE Ms) trải 
qua 20 năm chuyển đổi và đang 
tiếp tục hoàn thiện. Theo Iricic L., 
Kunovac D., Ljubaj I. (2008), do 
thiếu kiểm soát chặt chẽ trong tăng 
trưởng nóng tín dụng gây bất ổn hệ 
thống ngân hàng 7 quốc gia khu 
vực CEE từ năm 1996-2006, tăng 
chi phí dự phòng rủi ro tín dụng 
làm giảm lợi nhuận, nếu ổn định 
lạm phát sẽ giảm rủi ro khánh kiệt 
cho ngân hàng.
Mannasoo K., Mayes G. D. 
(2005) kết luận rằng các chỉ số vĩ 
mô của 2 năm trước như giảm tăng 
trưởng GDP, tăng lãi suất, tăng tín 
dụng tư nhân, giảm giá nội tệ gây 
bất ổn ngân hàng 21 quốc gia CEE 
trong giai đoạn 1996-2003. Các 
chỉ tiêu đặc trưng như: gia tăng nợ 
xấu,tăng chi phí của 1 và 2 năm 
trước đó là nguyên nhân gây bất 
ổn; trong phạm vi 1 năm, rủi ro 
thanh khoản, nợ xấu, chi phí, giảm 
thu nhập khiến ngân hàng mất ổn 
định. Điều khác thường ở chỗ 10 
quốc gia CESEE Ms có rủi ro tín 
dụng cao thì ngân hàng càng bất 
ổn, ngược lại 11 quốc gia chuyển 
đổi thì ngân hàng càng ổn định. 
Đây là sự khác biệt đáng chú ý về 
quản lí rủi ro tín dụng tại các quốc 
gia chuyển đổi khi tiếp cận tiêu 
chuẩn hội nhập EU.
Nghiên cứu của Mirzaei A., Liu 
G., Moore T. (2011) so sánh 308 
ngân hàng của 23 quốc gia mới nổi 
và 1.621 ngân hàng của 17 quốc 
gia phát triển từ 1999-2008, nhận 
thấy lạm phát thấp và tăng trưởng 
GDP cao giúp ổn định ngân hàng 
quốc gia mới nổi. Hơn nữa, thị 
trường chứng khoán phát triển làm 
tăng khả năng sinh lời và ổn định 
ngân hàng. Chính sách bảo hiểm 
tiền gửi, tín dụng tư nhân (thiếu 
vốn, cấp tín dụng nhưng thiếu giám 
sát) làm giảm khả năng sinh lời và 
tăng bất ổn ngân hàng. Nền kinh tế 
không hiệu quả, chi phí cao dẫn đến 
chênh lệch lãi suất lớn. Chênh lệch 
lớn giúp tăng khả năng sinh lời và 
ổn định ngân hàng. Tuy nhiên, khi 
hướng đến nền kinh tế hiệu quả sẽ 
dẫn đến thu hẹp chênh lệch lãi suất, 
từ đógây rủi ro về mặt sinh lời và 
ổn định. Nếu những quốc gia phát 
triển tăng chênh lệch lãi suất bằng 
cách gia tăng thị phần, thì những 
quốc gia mới nổi muốn mở rộng 
thị phần để tăng lợi nhuận và tạo 
sự ổn định phải thu hẹp chệch lệch 
lãi suất. Mặt khác, ngân hàng nước 
ngoài có lợi thế công nghệ giúp 
tăng lợi nhuận từ đó tăng ổn định 
và củng cố sức mạnh thị trường. 
Khi thị phần của những ngân hàng 
quy mô lớn giảm làm tăng hiệu quả 
của ngân hàng quy mô nhỏ hơn và 
ổn định hệ thống. Tại các quốc gia 
chuyển đổi hệ thống ngân hàng 
trở nên hiệu quả, an toàn nhờ vào 
sự tích cực của chính sách vĩ mô, 
chính sách ngành và chiến lược 
từng ngân hàng (lãi suất, sở hữu, 
thị phần).
Xét đến vai trò nước ngoài, 
Fang Y., Hasan I., Marton K. 
(2011) dùng dữ liệu hệ thống ngân 
hàng của 6 quốc gia chuyển đổi 
khu vực SEE so sánh với 8 quốc 
gia chuyển đổi khu vực CEE trong 
Số 14 (24) - Tháng 01-02/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Hoạt Động NH Hướng Tới Hồi Phục & Hoàn Thiện
11
10 năm 1998-2008 cho biết ngân 
hàng nước ngoài gánh chịu chi 
phí cao hơn ngân hàng tư nhân địa 
phương do các khoản chi phí ban 
đầu gia nhập ngành, chi phí mua cổ 
phần ngân hàng quốc doanh được 
tư nhân hóa. Sau đó ngân hàng 
nước ngoài cạnh tranh hơn, nhưng 
sự cạnh tranh giảm dần trước sự cải 
thiện từ từ của những ngân hàng 
quốc doanh và ngân hàng tư nhân 
ngày càng hiệu quả. Ngân hàng 
nào cạnh tranh hơn (có sức mạnh 
thị trường) thì chi phí sẽ giảm. Hơn 
nữa, khi tái cấu trúc nền kinh tế bao 
gồm cơ cấu lại doanh nghiệp và tư 
nhân hóa sẽ tạo ra hiệu quả và ổn 
định ngân hàng. 
Mặt trái của ngân hàng nước 
ngoài là gì? Theo Herrero G. A., 
Simon N. D. (2006), tuy không thấy 
rõ tác động của ngân hàng nước 
ngoài lên khủng hoảng hệ thống 
ngân hàng 10 quốc gia chuyển đổi 
Đông Âukhi duy trì tăng trưởng 
tín dụng đều đặn, nhưng tăng 
tổnthương cho nền kinh tế trước cú 
sốc bên ngoài.
Tín hiệu tốt từ khối ngân hàng 
quốc doanh VN trong việc cải thiện 
khả năng sinh lời và khai thác hiệu 
quả tài sản từ 2006-2010, tuy nhiên 
quản lí rủi ro chưa bằngkhối ngân 
hàng thương mại và liên doanh,theo 
ghi nhận của T. Vân (2012). Nếu 05 
ngân hàng quốc doanh quản lí rủi 
ro tốthơn thì giải pháp tăng cường 
ổn định hệ thống bằng cách tập 
trung phát huy nội lực ngân hàng 
VN sẽ căng cơhơn việc trông cậy 
vào ngân hàng nước ngoài như các 
quốc gia chuyển đổi khác. Lí do là 
nhằm hạn chế phụ thuộc ngân hàng 
nước ngoàivà phòng ngừa bất trắc 
khi ngân hàng mẹ ở nước ngoài gặp 
khó khăn, có thể rút vốn khỏi VN, 
sẽ gây những biến động bất lợi cho 
hệ thống ngân hàng VN. 
1.2. Quản trị ngân hàng đảm bảo 
ổn định và hiệu quả trong tương 
lai
Phân tích 10 quốc gia chuyển 
đổi CESEE Ms từ 1996-2008, tác 
giả Gardo S. (2010) dựa trên lí 
thuyết người đại diện khuyến nghị 
khi cải tổ hệ thống ngân hàng cần 
thiết cân đối quyền lợi các thành 
phần liên quan để quản trị tốt hơn, 
sinh lời hơn và an toàn hơn. Ba bài 
học rút ra: (1) Cấp độ vĩ mô: chính 
sách tài khóa, pháp lí, minh bạch, 
chuẩn kế toán phù hợp, thúc đẩy 
phát triển thị trường vốn dài hạn 
(capital market); (2) Cấp độ ngành 
ngân hàng: quy định quản lí rủi ro, 
tăng cường hiệu quả giám sát và kỉ 
luật thị trường; (3) Cấp độ vi mô 
từng ngân hàng: xử lí dứt điểm nợ 
xấu, tái cấp vốn, kiểm soát chi phí, 
tăng cường công nghệ, thúc đẩy tư 
nhân hóa với sự góp mặt của cổ 
đông chiến lược nước ngoài. Gợi 
ý nâng tầm quản trị ngân hàng để 
chuẩn bị những thay đổi do: (1) 
Ngân hàng mẹ ở nước ngoài sẽ cấp 
vốn cho ngân hàng con hoạt động 
tại các quốc gia chuyển đổi; (2) 
Chuyển dịch tín dụng bán lẻ hướng 
đến tiêu dùng và bất động sản, thế 
nên quản trị ngân hàng vận động 
theo hướng quản trị bán lẻ; (3) 
Dòng sản phẩm mới đáp ứng cho 
nhu cầu đa dạng và phức tạp, chứa 
nhiều rủi ro nhưng có tiềm năng 
lợi nhuận lớn, cần có trình độ quản 
lí rủi ro cao và kiểm soát chặt chẽ 
hơn, phối hợp giám sát giữa ngân 
hàng và cơ quan giám sát các công 
ty tài chính phi ngân hàng. 
Yếu tố vĩ mô, yếu tố ngành và 
quản trị tại mỗi ngân hàng Đông 
Âu trong 20 năm chuyển đổi gợi 
ý những lựa chọn phù hợp cho hệ 
thống ngân hàng VN. Xử lí triệt 
để nợ xấu, kiểm soát chặt chẽ tín 
dụng, thúc đẩy cổ phần hóa với cổ 
đông chiến lược tin cậy là bước 
đi vững chắc. Phát huy hiệu quả 
khối ngân hàng quốc doanh và ứng 
dụng quản trị điều hành ngân hàng 
hiện đại để nắm bắt cơ hội trong 
giai đoạn 2013-2020. 
2. Trù liệu nguy cơ ảnh hưởng 
hệ thống ngân hàng
2.1. Ngân hàng nước ngoài
Ngân hàng nước ngoài tham 
gia sâu rộng có xu hướng làm gia 
tăng khủng hoảng tại các quốc gia 
chuyển đổi Đông Âu, CEE, Mỹ La-
tinh và Châu Phi trước 1997. Sau 
khủng hoảng,tham gia nhiều hơn 
của ngân hàng nước ngoài không 
trùng hợp với tín dụng khu vực tư 
nhân tăng nhanh,theo nghiên cứu 
của Cull R., Soledad M, Peria M., 
(2007) tại 100 quốc gia đang phát 
triển Đông Âu, Trung Á, Mỹ La-
tinh và Hạ Sahara từ 1995-2000.
2.2. Nhận rủi ro 
Barth R. J., Caprio G., Levine 
R. (2008) khảo sát các quy định 
ngân hàng tại142 quốc gia kết luận 
rằng quy định không được cải thiện 
so với thập niên 90 của thế kỉ trước, 
không tăng hiệu quả cũng như ổn 
định ngân hàng. Một số quốc gia 
tăng cường giám sát theo khuyến 
cáo trụ cột 3 Basel 2. 
Quá trình chuyển đổi gắn liền 
với giải quyết các hệ lụy từ rủi ro tín 
dụng. Bonin J., Hasan I., Wachtel 
P. (2008) công nhận các quốc gia 
chuyển đổi châu Âu xử lí thành 
công nợ xấu, thiết lập quy trình 
chặt chẽ, tư nhân hóa, hợp nhất 
ngân hàng, ngân hàng nước ngoài 
tham gia tích cực trong suốt 15 
năm chuyển đổi (1990-2005). Hệ 
thống ngân hàng tại các quốc gia 
CEE, SEE và Nga cung cấp dịch 
vụ đa dạng và rộng khắp trên nền 
tảng hoạt động vững chắc, tín dụng 
dịch chuyển sang cho vay tiêu dùng 
càng rõ nét. Xuất hiện tâm lí miễn 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 14 (24) - Tháng 01- 02/2014
Hoạt Động NH Hướng Tới Hồi Phục & Hoàn Thiện
12
cưỡng cấp phép cho ngân hàng đầu 
tư nước ngoài do e ngại không cấp 
tín dụng phục vụ nền kinh tế quốc 
nội và khả năng rút vốn về nền 
kinh tế của quốc gia nơi ngân hàng 
mẹđóng trụ sở gặp khó khăn. Chỉ 
một vài hệ thống ngân hàng nhận 
và quản lí rủi ro gần với thông lệ 
các nước phát triển trong khối EU 
như Czech, Hungary, Slovakia, Ba 
Lan, theo Haselmann R., Wachtel 
P. (2006).
2.3. Cơ chế truyền dẫn chính sách 
tiền tệ
Tác giả Archer D. (2006) cho 
rằng chính sách tiền tệ (CSTT) 
theo phản ứng thị trường nên được 
chính phủ chỉ đạo và quy định hơn 
là trông chờ sự phát triển tự nhiên 
của thị trường tài chính. Khi hệ 
thống ngân hàng, doanh nghiệp yếu 
kém sẽ gián đoạn cơ chế truyền dẫn 
CSTT làm ảnh hưởng đến GDP và 
lạm phát. Phòng vệ bằng công cụ 
phái sinh lãi suất không ảnh hưởng 
đến cơ chế truyền dẫn. Đa số quốc 
gia chuyển đổi kiểm soát chặt kênh 
lãi suất và có khuynh hướng kìm 
hãm hoặc hạn chế hiệu năng của 
kênh lãi suất (có lẽ vì chính sách 
không theo kịp tình hình, e sợ ảnh 
hưởng đến tăng trưởng GDP và 
lạm phát, đôi khi lo ngại vượt tầm 
kiểm soát). Riêng kênh kì vọng, 
các quốc gia chuyển đổi áp dụng 
điều hành lạm phát mục tiêu để 
tăng hiệu quả CSTT. Tác động của 
kênh tín dụng trong cơ chế truyền 
dẫn CSTT sẽ có kết quả hơn nếu 
khu vực tư nhân tiếp cận tín dụng 
được dễ dàng. Kênh giá tài sản sẽ 
làm tốt hơn bảng cân đối kế toán 
(doanh nghiệp, quốc gia) khi thực 
hiện CSTT có sự phối hợp từ kênh 
tín dụng và tỉ giá.
Trần Ngọc Thơ & Nguyễn Hữu 
Anh Tuấn (2013) nghiên cứu cơ 
chế truyền dẫn CSTT VN trong hai 
giai đoạn 1998-2006 và 2007-2012 
phát hiện thấy lạm phát ở VN nhạy 
cảm nhiều hơn với tỉ giá so với lãi 
suất. Tỉ giá gây hiệu ứng tức thời 
còn lãi suất có độ trễ.
Tỉ giá cố định có điều chỉnh 
theo biên độ vẫn là lựa chọn 
cho các quốc gia trong quá trình 
chuyển đổi. Theo Belke A., Vogel 
L. (2012), giới hạn độ linh hoạt 
của tỉ giá quan hệ thuận với tự do 
thương mại, tác động tích cực đến 
cải cách hành chính khu vực doanh 
nghiệp, tài chính và thị trường lao 
động. Bên cạnh đó, điều kiện vĩ mô 
thúc đẩy mạnh quy trình cải tổ hệ 
thống kinh tế.
2.4. Không áp dụng máy móc các 
mô hình chuyển đổi
Thực tiễn chuyển đổi nền kinh 
tế trên thế giới tồn tại nhiều bất cập 
mà hệ thống ngân hàng VN phải 
trù liệu. Holscher J. (2009) nhận 
xét rằng qua cuộc khủng hoảng tài 
chính 2008, các quốc gia chuyển 
đổi ở Đông Âu chưa hoàn toàn 
thành công, tự do và tư nhân hóa đã 
gây phí tổn lớn cho quốc gia trong 
quá trình chuyển đổi. Ba điều cần 
lưu ý: (1) Ngân hàng nước ngoài 
rút vốn để giải quyết thanh khoản 
cho ngân hàng mẹ; (2) Xuất hiện 
chủ nghĩa bảo hộ làm hạn chế tự do 
hóa thương mại; (3) Chênh lệch lớn 
về năng suất lao động giữa Tây Âu 
và các quốc gia chuyển đổi Đông 
Âu (do FDI giảm, trình độ giáo dục 
chưa bằng, chính sách cạnh tranh 
kém hiệu quả).
Tóm lại, hệ thống ngân hàng 
VN quan tâm tới việc quản lí dòng 
vốn đầu tư của những ngân hàng 
nước ngoài, điều chỉnh hành vi 
nhận rủi ro, tự do hóa hệ thống tài 
chính theo lộ trình, quản lí chặt chế 
độ tỉ giá cố định có điều chỉnh theo 
biên độ, vận dụng điều hành lạm 
pháp mục tiêu, hiệu quả hơn cơ chế 
điều hành CSTT. Có thể xem đây 
là thời điểm để hệ thống ngân hàng 
VN tận dụng cơ hội tăng khả năng 
sinh lời, tạo sự ổn định và phát triển 
bền vững khi CSTT ngày càng tích 
cực, hiệu quả và độc lập. 
3. Cấu trúc hệ thống ngân hàng 
VN vào năm 2020
3.1. Trong ngắn hạn VN làm được 
gì khi thế giới không ngừng cải tổ 
hệ thống ngân hàng?
Trong giai đoạn đầu thực hiện 
chuyển đổi 1990-1997, Ba Lan 
định hướng phát triển ngân hàng đa 
ngành phục vụ thị trường vốn dài 
hạn. Cho phép thành lập các ngân 
hàng đầu tư với các cổ đông chiến 
lược hướng đến thị trường vốn dài 
hạn. Những ngân hàng tập trung 
phát triển phân khúc khác của thị 
trường vốn dài hạn (quỹ đầu tư, 
quỹ hưu trí) đã triển khai thêm dịch 
vụ hỗ trợ (quản lí tài sản và thanh 
khoản). Những ngân hàng quốc 
doanh hỗ trợ thành lập các ngân 
hàng quy mô nhỏ phục vụ khách 
hàng SME. Tám bài học được rút 
ra: (1) Kiểm soát cú sốc khi chuyển 
đổi kinh tế; (2) Tái cấp vốn không 
giải quyết được hết nợ xấu; (3) Phát 
triển kinh tế vĩ mô, tiền tệ, kinh tế 
quốc nội; (4) Hệ thống ngân hàng 
chú trọng vào chất lượng; (5) Dựng 
rào cản gia nhập ngành; (6) Tư 
nhân hóa ngân hàng; (7) Thị phần 
tín dụng ngân hàng quốc doanh 
giảm sút; và (8) Cải cách và ổn 
định thị trường, theo Balcerowicz 
E., Bratkowski A. (2001). Để thực 
hiện tái cấu trúc ngành ngân hàng, 
VN nên tham khảo bài học số (4), 
(6), (7). Nổi bật nhất là bài học (6) 
khi các ngân hàng quốc doanh lựa 
chọn nhà đầu tư chiến lược trong 
quá trình cổ phần hóa.
Bài viết chuyên đề của 
Booz&Co (2009) về tái cấu trúc 
ngân hàng nhằm phục vụ mục tiêu 
Số 14 (24) - Tháng 01-02/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Hoạt Động NH Hướng Tới Hồi Phục & Hoàn Thiện
13
trung hạn khuyến cáo sử dụng bảy 
đòn bẩy để hệ thống ngân hàng 
tăng sức chịu đựng dẻo dai và ứng 
phó kịp thời: (1) Nguồn vốn; (2) 
Giải quyết nợ xấu; (3) Hướng đến 
nhiệm vụ dài hạn là tăng giá trị và 
ổn định ngân hàng; (4) Lược bỏ 
những tài sản ngân hàng không có 
lợi thế cạnh tranh cũng như những 
dòng vốn không thể hấp thu; (5) 
Giảm chi phí và tăng năng suất, gia 
tăng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô; 
(6) Thay đổi quan điểm quản lí rủi 
ro truyền thống khi dùng các chỉ 
tiêu đo lường ngắn hạn làm gia tăng 
động cơ nhận thêm rủi ro, chuyển 
sang tư duy quản lí rủi ro trung hạn 
và giảm nguy cơ rủi ro đạo đức; và 
(7) Tái định vị từng ngân hàng.
VN đã và đang thực hiện những 
đòn bẩy nào và thực hiện ra sao? 
Trong nghiên cứu của Nguyễn 
Thanh Dương (2013a), Nguồn 
vốn (đòn bẩy 1), các ngân hàng 
VN không thành công trong việc 
tăng vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận 
do phải xử lí nợ xấu và chịu áp lực 
phải duy trì đủ vốn để giữ tỉ lệ huy 
động/vốn chủ sở hữu từ 6-8 lần. 
Thời gian sắp tới các ngân hàng 
phải tập trung vào các nguồn vốn 
ngắn hạn nhằm duy trì liên tục 
nguồn vốn này để trở thành nguồn 
vốn dài hạn, đồng thời tranh thủ các 
nguồn vốn từ Chính phủ, phát hành 
trái phiếu và ODA như Vietinbank, 
BIDV và VDB. Về tư duy quản lí 
rủi ro lãi suất (đòn bẩy 6), xu thế 
mặt bằng lãi suất sẽ giảm trong 
trung và dài hạn khi mở cửa hoàn 
toàn thị trường tài chính vào năm 
2020. Các ngân hàng phải cơ cấu 
Tài sản nhạy cảm với lãi suất dần 
dần thấp hơn Nguồn vốn nhạy cảm 
với lãi suất nhằm gia tăng thu nhập 
lãi thuần. Việc chọn lọc tài sản và 
nguồn vốn (đòn bẩy 4), các ngân 
hàng phải điều chỉnh hành vi nhận 
rủi ro khoa học hơn để tăng niềm 
tin thị trường. Thêm vào đó trong 
nghiên cứu rộng hơn, Nguyễn 
Thanh Dương (2013b) đề xuất 
giải pháp mở rộng tín dụng đến 
khu vực tư nhân. Đối với việc xử 
lí nợ xấu (đòn bẩy 2) VN đang tích 
cực xử lí nợ xấu bằng nguồn dự 
phòng, trước mắt sẽ làm suy giảm 
lợi nhuận nhưng là cơ sở tạo nên sự 
ổn định. Về quản lí chi phí và năng 
suất (Đòn bẩy 5), các ngân hàng 
VN phải đa dạng hóa thu nhập để 
tối ưu chi phí và ổn định thu nhập 
từ hoạt động cho vay.
Kết luận: Trong ngắn hạn, hệ 
thống ngân hàng VN đang cố gắng 
thích ứng trước chuyển biến của tài 
chính quốc tế.
Điểm qua vai trò ngân hàng 
trong hoạt động tín dụng nông 
thôn. Khi một quốc gia đang phát 
triển chuyển đổi mô hình tăng 
trưởng kinh tế, hệ thống ngân hàng 
có vai trò thiết yếu trong sự nghiệp 
phát triển kinh tế nông thôn và 
thoát nghèo bền vững. Crouzille 
M. C., Banos L. J., Nys E., Sauviat 
A. (2005) phát hiện các ngân hàng 
nông thôn hiệu quả hơn ngân hàng 
thương mại trong việc tài trợ tín 
dụng thúc đẩy phát triển vùng kinh 
tế đang chuyển dịch cơ cấu từ nông 
nghiệp sang dịch vụ, vùng kinh tế 
công nghiệp và vùng kinh tế thuần 
nông ở Philippines. Vùng kinh tế 
đang chuyển dịch cơ cấu đặc biệt 
được hưởng lợi từ nhiều chính sách 
tài trợ cho nông dân, tiểu thương, 
giáo viên, xã viên, hộ kinh doanh 
cá thể và hộ nghèo. Tuy nhiên, chưa 
có kết luận về mối quan hệ giữa tài 
trợ cho vùng kinh tế với việc thúc 
đẩy phát triển kinh tế Philippines. 
Tại VN, Ngân hàng Chính sách 
Xã hội (31/08/1995 - 04/10/2003 là 
Ngân hàng Phục vụ Người nghèo), 
Ngân hàng Hợp tác xã, các Quỹ 
tín dụng nhân dân cơ sở đang thực 
hiện tài trợ phát triển nông nghiệp 
và thoát nghèo, phải nhắc đến Ngân 
hàng Agribank và BIDV đang tài 
trợ chủ lực cho khu vực nông thôn 
và hỗ trợ phát triển an sinh xã hội. 
Qua kinh nghiệm của Philippines, 
VN nênphân công lại hay thống 
nhất ai chủ đạo tài trợ tín dụng 
nông thôn giữa nhóm ngân hàng 
thương mại và nhóm ngân hàng 
thực hiện chính sách để hướng đến 
sự chuyên môn hóa. Agribank và 
BIDV có thể xem xét giảm vai trò 
trong việc tài trợ trực tiếp từng đối 
tượng để tập trung tài trợ phạm vi 
rộng hơn ví dụ: tài trợ cho ngành 
nông nghiệp chủ lực từng vùng 
kinh tế (không nhất thiết phục vụ 
xuất khẩu) và thúc đẩy nhanh quá 
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, 
hoặc giảm bớt thu hút tiền gửi từ 
khu vực nông thôn để dòng tiền gửi 
hướng về nhóm ngân hàng chính 
sách tạo nguồn vốn ổn định nhằm 
phục vụ tín dụng tại chỗ, hoặc tư 
vấn quản lí rủi ro tài chính cho 
những vùng kinh tế này. Phân công 
lại giúp Agribank và BIDV vững 
tâm theo đuổi chiến lược ngân 
hàng đa ngành. Tiếp tục giữ vai trò 
thiết yếu trên phân khúc tài chính 
nông thôn và hỗ trợ phát triển an 
sinh xã hội tại những vùng kinh tế 
khó khăn, có khả năng thành công 
như ngân hàng BAAC (Thái Lan) 
và ICICI (Ấn Độ). 
3.2. Cấu trúc hệ thống ngân hàng 
trong trung hạn
Với kinh nghiệm và xu thế phát 
triển ngân hàng trên thế giới, nhằm 
phục vụ thị trường vốn hiệu quả, 
cấu trúc hệ thống ngân hàng VN 
trong trung hạn được đề xuất như 
sau: 1 Ngân hàng trung ương; 2 
ngân hàng quốc doanh đa ngành, 
2 ngân hàng tư nhân đa ngành; 1 
ngân hàng quốc doanh đầu tư, 3-05 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 14 (24) - Tháng 01- 02/2014
Hoạt Động NH Hướng Tới Hồi Phục & Hoàn Thiện
14
ngân hàng tư nhân đầu tư trong đó 
có 1 hoặc 2 ngân hàng 100% vốn 
nước ngoài; 20-25 ngân hàng bán 
lẻ và phục vụ SME (ngân hàng tư 
nhân, liên doanh và 100% vốn nước 
ngoài); 1 Ngân hàng Phát triển VN; 
1 Ngân hàng Chính sách Xã hội; 1 
Ngân hàng Hợp tác xã; 01 Quỹ tín 
dụng nhân dân. Cho ra đời thêm 
quỹ (đầu tư, hưu trí, phòng vệ, tín 
thác, bảo hiểm) nhằm tạo môi 
trường hấp dẫn cho thị trường vốn 
dài hạn và kích thích sự phát triển 
nhómngân hàng đầu tư.
3.3. Hoàn thiện kiểm tra giám sát
Châu Âu đang gấp rút nâng 
tầm cấu trúc hệ thống ngân hàng, 
tập trung tăng cường cơ chế giám 
sát đảm bảo an toàn và hiệu quả 
hơn, EBRD (2012). Trong khi đó, 
VN: (1) Thiếu giám sát hiệu quả 
và cảnh báo sớm; (2) Hệ thống 
giám sát trong đó chỉ tiêu tài chính 
công chưa bao quát hết rủi ro; (3) 
Giám sát tuân thủ pháp luật trên thị 
trường chứng khoán chưa sát với 
thực tiễn; và (4) Thiếu cơ chế phối 
hợp giám sát liên ngành. Do vậy 
VN cần nhanh chóng hoàn thiện 
chức năng giám sát tài chính ngân 
hàng, ghi nhận của Mạnh Chung 
(2013).
3.4. Xây dựng cơ chế đồng thuận
Khủng hoảng tài chính thế giới 
2008, thể chế chính trị - kinh tế - 
xã hội của các quốc gia chuyển đổi 
biểu hiện nhiều bất cập. Dù hầu hết 
các quốc gia chuyển đổi chọn chế 
độ chính trị đa nguyên nhưng tồn 
tại vô vàn bất ổn chính trị -xã hội và 
biến động lớn tài chính (chủ yếu về 
nợ công). Họ cho rằng cơ chế chính 
trị như thế dễ tạo đồng thuận xã hội 
để thông qua các sách lược quốc 
gia, tuy nhiên cách thức đạt đồng 
thuận và triển khai thực hiện còn 
nhiều điều phải xem xét thấu đáo. 
Những nguy cơ tiềm tàng trong 
thể chế của họ sẽ gây những hậu 
quả khó lường khi áp dụng tại VN 
nếu chỉ mong đạt sự đồng thuận. 
Hơn nữa các công thức chuyển 
đổi kinh tế như tự do hóa hoàn 
toàn (Đồng thuận Washington) và 
chưa nhấn mạnh vai trò thị trường 
(Đồng thuận Bắc Kinh) không phù 
hợp với những chuyển biến kinh tế 
đang diễn tại VN. Rất nhiều vấn đề 
cần phải giải quyết liên quan đếnsử 
dụng hiệu quả tài nguyên, phân 
bổ hợp lí phúc lợi xã hội tương 
xứng với đóng góp sức lao động 
của người dân. Để việc tái cấu trúc 
hệ thống ngân hàng thành công, 
sự đồng thuận cần dựa trên cơ sở 
đặc trưng văn hóa, lí luận khoa học 
song hành với giám sát chặt chẽ. 
4. Lời kết
Hệ thống ngân hàng VN tiếp 
tục sáng tạo, luôn thích ứng trước 
những thay đổi trong nước và thế 
giới. Cấu trúc hệ thống ngân hàng 
vững chắc sẽ góp phần ổn định 
chính trị - kinh tế - xã hội, phát huy 
thế mạnh xuất khẩu. Dưới sự lãnh 
đạo của Đảng, Nhà nước cùng với 
Nhân dân hướng đến sự đồng thuận 
cao và hành động quyết liệt để xây 
dựng nền kinh tế tăng trưởng bền 
vững cho tương lail
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Archer D. (2005), Implications of Recent 
Changes in Banking for the Conduct 
of Monetary Policy, 
bppdf/bispap28f.pdf
Balcerowicz E., Bratkowski (2001), 
Restructuring &Development of the 
Banking Sector in Poland: Lessons to 
be learnt by Less Advanced Transition 
Countries, 
node/54960 
Barth R. J., Caprio G., Levine R. (2008), 
Bank Regulation Are Changing: for 
Better or Worse? 
sol3/papers.cfm?abstract_id=1149579
Belke A., Vogel L. (2012), Monetary 
Commitment and Structural Reforms: A 
Dynamic Panel Analysis for Transition 
Economies, 
papers.cfm?abstract_id=2111962
Bonin J., Hasan I., Wachtel (2008), Banking in 
Transition Countries, BOFIT Discusion 
Papers 12/2008, Bank of Finland.
Booz&Co (2009), Rapid Restructuring How 
Banks Need to Repond to the Financial 
Crisis, 
what-we-think/reports-white-papers/
article-display/rapid-restructuring-
banks-need-respond
Cull R., Soledad M., Peria M. (2007), 
Foreign Bank Participation & Crises 
in Developing Countries, http://
e l ib ra ry.wor ldbank .o rg /con ten t /
workingpaper/10.1596/1813-9450-4128
Crouzille M. C., Banos L. J., Nys E., 
Sauviat A. (2005), Contribution of 
Rural Banks to Regional Economic 
Development: Evidence from the 
Philippines,
publication/228275534_Contribution_
o f _ R u r a l _ B a n k s _ t o _ R e g i o n a l _
Economic_Development_Evidence_
from_the_Philippines
EBRD (2012), Transition Report 2012, http://
ebrd.com/pages/research/publications/
flagships/transition.shtml
Fang Y., Hasan I., Marton K. (2011), Bank 
Efficiency in Transition Econonies: 
Recent Evident from Southe-Eastern 
Europe, Discussion Paper, Bank of 
Finland Research.
Gardo S. (2010), Bank Gorvernance and 
Financial Stability in CESEE: A Review 
of the Literature, 
org/a/onb/oenbfi/y2010i1b1.html
Haselmann R., Wachtel P. (2006), Risk 
Taking by Banks in the Transition 
Coutries, 
papers.cfm?abstract_id=952949
Herreo G. A., Simon N. D. (2006), Foreign 
Banks & Financial Stability in the New 
Europe, 
org/journals_free/bbs/2006/BBS_
en_2006_01_Herrero.pdf
Holscher J. (2009), 20 Years of Economic 
Transition-Success and Failures, http://
econpapers.repec.org/article/cosepaper

File đính kèm:

  • pdfngan_hang_thich_ung_khi_chuyen_doi_kinh_te.pdf