Nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy và thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA

Tóm tắt: Trên cơ sở các tài liệu chuyên môn kết hợp với thực nghiệm đã nghiên

cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy và thành phần sản phẩm cháy trên

bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-NGDINA. Kết quả nghiên cứu đạt được có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo dữ liệu

khoa học để khẳng định ảnh hưởng của áp suất đến tính chất, cơ chế cháy của

thuốc phóng, chứng minh khả năng sử dụng xúc tác cháy và hướng tới nghiên cứu

một số hiện tượng cháy xói mòn và sinh muội trong quá trình thuốc phóng cháy

pdf 9 trang yennguyen 840
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy và thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy và thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA

Nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy và thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 47, 02 - 2017 141
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ÁP SUẤT ĐẾN BỀ MẶT DẬP CHÁY 
VÀ THÀNH PHẦN SẢN PHẨM CHÁY TRÊN BỀ MẶT DẬP CHÁY 
CỦA THUỐC PHÓNG KEO BALLISTIC TRÊN NỀN NC-NG-DG VÀ 
NC-NG-DINA 
Lê Duy Bình1*, Nguyễn Việt Bắc2 
Tóm tắt: Trên cơ sở các tài liệu chuyên môn kết hợp với thực nghiệm đã nghiên 
cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy và thành phần sản phẩm cháy trên 
bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-NG-
DINA. Kết quả nghiên cứu đạt được có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo dữ liệu 
khoa học để khẳng định ảnh hưởng của áp suất đến tính chất, cơ chế cháy của 
thuốc phóng, chứng minh khả năng sử dụng xúc tác cháy và hướng tới nghiên cứu 
một số hiện tượng cháy xói mòn và sinh muội trong quá trình thuốc phóng cháy. 
Từ khóa: Thuốc phóng, NC-NG-DG, NC-NG-DINA, Bề mặt cháy, Thành phần, Sản phẩm cháy, Áp suất. 
1. MỞ ĐẦU 
Trên thế giới, việc nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt cháy và thành 
phần sản phẩm cháy đối với các loại vật liệu năng lượng nói chung đã có từ lâu [3, 4, 
5, 6]. Thực tế, các nghiên cứu cũng chỉ mới dừng lại ở một số nhóm thuốc phóng 
điển hình, trong khi có rất nhiều đối tượng khác nhau cần được làm sáng tỏ hơn. 
Ở trong nước, một vài công trình của nhóm tác giả đã công bố [1, 2] có đề cập đến 
bề mặt dập cháy và thành phần của sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy nhưng ở áp 
suất khí quyển. Để hiểu rõ bản chất hơn, cần có nghiên cứu ở các áp suất cháy khác 
nhau và trong điều kiện kín, chứa khí trơ. Khi đó, hệ được xem như tương đồng với 
điều kiện cháy thực tế của thuốc phóng trong động cơ hoặc buồng đốt của súng pháo. 
Ngày nay, xu hướng nghiên cứu tính chất cháy của vật liệu năng lượng nói 
chung và thuốc phóng nói riêng vẫn tiếp tục được tiến hành, việc nghiên cứu ảnh 
hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy và thành phần của sản phẩm cháy trên bề 
mặt dập cháy rất có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Một mặt để giải thích rõ hơn về 
cơ chế cháy của thuốc phóng, mặt khác, để nghiên cứu ứng dụng cũng như làm rõ 
vai trò của xúc tác cháy trong thuốc phóng, qua đó, điều chỉnh tốc độ cháy của 
thuốc phóng để đảm bảo đạt các tính năng xạ thuật theo yêu cầu. 
Tiếp nối các kết quả nghiên cứu từ các công trình đã công bố và một số nghiên 
cứu mới của nhóm tác giả đã đạt được trong thời gian gần đây, bài báo này trình bày 
một số kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy và thành 
phần của sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy đối với thuốc phóng keo ballistic trên 
nền nitratxenlulo - nitroglyxerin - đietylenglycolđinitrat (NC-NG-DG) và 
nitratxenlulo - nitroglyxerin - đietanolnitroaminđinitrat (NC-NG-DINA). 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
- Bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-
NG-DINA; 
Hóa học & Kỹ thuật môi trường 
L. D. Bình, N. V. Bắc, “Nghiên cứu ảnh hưởng trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA.” 142 
- Thành phần của sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo 
ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Phương pháp tạo mẫu 
- Tạo mẫu (thỏi) thuốc phóng: các hợp phần được phối trộn theo đơn thành phần 
đã xác định trên nền NC-NG-DG(1) và NC-NG-DINA(2) trong môi trường nước ở 
55oC, thời gian khuấy trộn không nhỏ hơn 2,5 giờ, mô đun bằng 6/1 [tỷ lệ nước so 
với hỗn hợp bán thành phẩm (nitromass) qui khô]. Nitromass sau công đoạn trộn 
được lọc loại bỏ nước (hàm lượng nước còn khoảng 40 đến 60 %), sau đó nó được 
định lượng (theo yêu cầu) để thêm các thành phần phụ gia, xúc tác cháy(3) (bảng 1). 
Mẫu không cho phụ gia xúc tác cháy được gọi là mẫu nền. Tiến hành cán keo hóa 
mẫu trên máy cán ở nhiệt độ khoảng 80 đến 95oC, đúc ép định hình ở 66 đến 76oC 
(tùy thuộc vào từng loại mẫu), các thỏi thuốc phóng sau khi nén ép định hình có 
kích thước Ф7 mm. 
Bảng 1. Đơn thành phần mẫu thuốc phóng trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA. 
TT Thành phần NC-NG-DG(1) NC-NG-DINA(2) Ghi chú(3) 
1 Nitratxenlulo (NC), % 58,0 ÷ 60,0 57,0 ÷ 59,0 
2 Nitroglyxerin (NG), % 15,8 ÷ 17,2 27,0 ÷ 29,0 
3 Đietylenglycoldinitrat (DG), % 14,5 ÷ 16,5 - 
4 Đietanolnitroamindinitrat (DINA), % - 8,0 ÷ 10,0 
5 Xentralit, % 2,0 ÷ 3,0 0,8 ÷ 1,6 
6 Điphenyl amin (DPA), % 0,0 ÷ 1,0 - 
7 Đinitro toluen (DNT), % 1,0 ÷ 3,0 - 
8 Chì (II) oxit (PbO), % 1,7 ÷ 2,3 0,5 ÷ 1,5 Xúc tác cháy 
9 Coban (II) oxit (CoO), % 0,3 ÷ 0,7 - Xúc tác cháy 
10 Canxi cacbonat (CaCO3), % 0,3 ÷ 0,7 1,5 ÷ 2,5 Ổn định cháy 
11 Cacbon kỹ thuật (Ckt), % - 0,0 ÷ 0,4 Phụ gia cháy 
12 Vazơlin, % 0,7 ÷ 1,3 0,3 ÷ 0,9 
- Tạo mẫu bề mặt cháy (hoặc bề mặt dập cháy): dựa trên nguyên lý cơ chế cháy 
của thuốc phóng, được chia làm 5 giai đoạn (vùng): vùng nung nóng, vùng chuyển 
pha (pha K), vùng ngọn lửa sơ cấp, vùng khoảng tối, vùng ngọn lửa thứ cấp và 
vùng các sản phẩm khí. Khi gắn thỏi thuốc phóng (hình trụ đường kính 7 mm, 
chiều cao 10 mm) bởi một lớp keo đặc biệt trên một cọc đồng nhẵn bóng và phẳng, 
cọc kim loại đồng có đặc tính lan truyền nhiệt nhanh. Khi đó, tại bề mặt tiếp xúc 
giữa thỏi thuốc phóng đã cháy hết và cọc kim loại sẽ hình thành nên vùng chuyển 
pha K, qua đó xác định được bề mặt dập cháy của thuốc phóng. 
- Phương pháp tạo bề mặt cháy tại các áp suất cháy khác nhau: ứng dụng thiết bị 
đo tốc độ cháy trong bom đo áp, ở môi trường khí trơ (khí nitơ), theo tiêu chuẩn 06 
TCN 888:2001. Nguyên lý của phương pháp được mô tả như sau: cọc đồng chứa 
thỏi thuốc phóng (hình 2) được gắn chắc chắn vào gá đo, trên mặt đầu của thỏi 
thuốc được đính một ít thuốc mồi, sau đó luồn dây may xo vào giữa lớp thuốc mồi, 
hai đầu dây may xo được nối với hai thanh điểm hỏa. Đặt gá đo vào bom đo 1 trên 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 47, 02 - 2017 143
hình 1, tiến hành lắp nắp bom đo và siết chặt, nối hai thanh điểm hỏa với hệ thiết bị 
điểm hỏa 6 hình 1. Kiểm tra thông mạch rồi tiến hành xả khí nitơ từ các bình nạp 
khí vào bom đo. Khi kim đồng hồ chỉ đến áp suất cần đo thì khóa van xả của bình 
nạp khí, sau đó mở van xả từ bình khí cân bằng để duy trì áp suất không đổi trong 
quá trình đo. Ấn nút điểm hỏa để đốt thỏi thuốc phóng, khi thỏi thuốc phóng cháy 
hết, tiến hành xả khí từ từ trong bom đo để các sản phẩm trên bề mặt cháy không bị 
cuốn theo khí xả ra ngoài môi trường. 
* Thiết bị, dụng cụ: Bom đo, bình cân bằng, đồng hồ đo áp, bình nạp khí (khí 
nitơ). Sơ đồ thiết bị được chỉ ra trên hình 1. 
1- Bom đo; 2- Bình cân bằng; 
3- Bình nạp; 4- Đồng hồ đo áp; 
5- Bộ gá mẫu; 6- Máy điểm hỏa; 
7- Máy đo thời gian; 8- Termostat. 
Hình 1. Thiết bị đốt tạo bề mặt dập cháy ở các áp suất không đổi khác nhau. 
Thỏi thuốc phóng trước và sau khi đốt cháy được trình bày trên các hình 2 và hình 3. 
Hình 2. Thỏi thuốc phóng trước khi cháy. Hình 3. Thỏi thuốc phóng sau khi cháy. 
2.2.2. Phương pháp đo đạc, kiểm tra mẫu 
+ Phương pháp xác định bề mặt dập cháy: sau khi thỏi thuốc phóng được kích 
cháy, mẫu lưu trên cọc đồng (hình 3) được đem đi soi chụp dưới kính hiển vi điện 
tử quét (SEM) để quan sát bề mặt dập cháy của sản phẩm cháy. 
+ Phương pháp xác định thành phần sản phẩm cháy: thành phần sản phẩm 
cháy trên bề mặt dập cháy được xác định bằng phương pháp EDX. 
2.3. Vật tư, hoá chất 
Nitratxenlulo số 3 (NC số 3) với hàm lượng nitơ = 11,94 %, nhà máy Z sản 
xuất; đietylenglycol đinitrat (DG), nitroglyxerin (NG) và đietanolnitraminđinitrat 
(DINA) do nhóm nghiên cứu tự tổng hợp; điphenylamin (DPA), đinitrotoluen 
(DNT), xentralit số 2 (Cent 2), canxicacbonat (CaCO3), vazơlin và stearat kẽm 
(Trung Quốc); carbon kỹ thuật (N220, Hàn Quốc); chì oxit và coban oxit, (Sigma-
Aldrich, Đức). 
Hóa học & Kỹ thuật môi trường 
L. D. Bình, N. V. Bắc, “Nghiên cứu ảnh hưởng trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA.” 144 
2.4. Thiết bị, máy móc 
- Trang thiết bị, dụng cụ tạo mẫu vật liệu: thiết bị trộn khuấy; bộ thiết bị lọc hút; 
máy cán keo hóa; thiết bị nén ép tạo hình (máy ép thủy lực 50 tấn, có điều khiển); hệ 
thống gia nhiệt; tủ sấy binder; cân điện tử với các cấp độ chính xác 10-2 ;10-3 và 10-4 
(gam); bình hút ẩm exicator; bình tia nước cất; cốc thủy tinh; giấy lọc và đũa thủy tinh; 
- Trang thiết bị, dụng cụ tạo mẫu và đo bề mặt dập cháy: dụng cụ tạo bề mặt dập 
cháy (cọc đồng kim loại), thiết bị chụp hình ảnh bề mặt dập cháy bằng kính hiển vi 
điện tử quét SEM, EDX. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy của sản phẩm cháy 
Trên cơ sở những kiến thức chuyên môn kết hợp với các công trình đã công bố 
trong thời gian gần đây, nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất 
đến bề mặt dập cháy của thuốc phóng trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA. Kết 
quả nghiên cứu được trình bày ở các hình 4, 5, 6 và 7 với độ phóng đại 100 lần. 
 p = 10 at p = 40 at p = 70 at p = 100 at 
Hình 4. Bề mặt dập cháy của mẫu nền NC-NG-DG không xúc tác, 
tại các áp suất khác nhau. 
 p = 10 at p = 40 at p = 70 at p = 100 at 
Hình 5. Bề mặt dập cháy của mẫu nền NC-NG-DG có xúc tác, 
tại các áp suất khác nhau. 
 p = 10 at p = 40 at p = 70 at p = 100 at 
Hình 6. Bề mặt dập cháy của mẫu nền NC-NG-DINA không xúc tác, 
tại các áp suất khác nhau. 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 47, 02 - 2017 145
 p = 10 at p = 40 at p = 70 at p = 100 at 
Hình 7. Bề mặt dập cháy của mẫu nền NC-NG-DINA có xúc tác, 
 tại các áp suất khác nhau 
Thuốc phóng keo ballistic là hỗn hợp gồm rất nhiều cấu tử (khoảng 10 cấu tử 
khác nhau), sự cháy không đồng đều giữa các cấu tử, đặc biệt đối với những cấu tử 
được xem như trơ, chẳng hạn như DNT, xentralit, dibutyl phtalat (DBP), 
vazơlin, khi có mặt trong thuốc phóng chúng có tốc độ cháy rất thấp so với các 
cấu tử chính như NC, NG, DG, DINA hay một số cấu tử mang năng lượng khác. 
Điều này chính là nguyên nhân gây ra muội trên bề mặt dập cháy của sản phẩm 
cháy. Mức độ tạo ra khung muội (độ cao, mật độ và cấu trúc) và độ bền của khung 
muội theo áp suất phụ thuộc vào bản chất, thành phần của các cấu tử có trong 
thuốc phóng. Thuốc phóng trền nền như nhau, khung muội và độ bền của chúng 
theo áp suất chủ yếu phụ thuộc vào thành phần của các chất phụ gia, xúc tác cháy. 
Quan sát kết quả nghiên cứu thu được ở trên các hình 4, 5, 6 và 7 có thể thấy: 
Bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo balistic trên nền NC-NG-DG và NC-NG-
DINA khi có xúc tác và không xúc tác đều hình thành nên khung muội cacbon 
trong sản phẩm cháy. Khung muội cacbon của mẫu không có xúc tác (mẫu nền) 
thường ít, mật độ thưa và thấp (quan sát trực tiếp trên ảnh SEM) hơn so với mẫu có 
xúc tác. Mặt khác, khi tăng áp suất cháy, khung muội cacbon có xu hướng giảm 
dần và vụn ra (dễ dàng quan sát được ở p = 100 at). 
Đối với mẫu nền (không có xúc tác cháy), tại áp suất 10 at, khung muội trên bề 
mặt dập cháy của thuốc phóng trên nền NC-NG-DG thường nhiều và dày hơn, trong 
khi ở các áp suất từ 40 đến 100 at thì có xu hướng ít và mật độ thưa hơn so với 
khung muội trên bề mặt dập cháy của thuốc trên nền NC-NG-DINA. Nguyên nhân 
có thể được giải thích: đối với mẫu thuốc phóng trên nền NC-NG-DG có chứa thêm 
phụ gia DNT. Theo các tài liệu [1, 2, 3, 4], bản thân DNT khi cháy vẫn có thể tạo ra 
khung muội cacbon gián tiếp trong quá trình cháy. Tuy nhiên, khung muội cacbon 
này thường “yếu ớt” hơn so với khung muội được tạo bởi cacbon kỹ thuật (Ckt, cấu 
tử ban đầu được bổ sung trực tiếp vào thành phần của thuốc phóng). Vì vậy, khung 
muội cacbon được tăng cường từ các sản phẩm cháy của DNT chỉ bền ở áp suất thấp 
(khoảng 10 at) nhưng lại dễ bị “bẻ gãy” ở áp suất cao (lớn hơn 40 at). 
Đối với các mẫu chứa xúc tác cháy thì lại có xu hướng ngược lại. Khung muội 
trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng trên nền NC-NG-DG có xu hướng nhiều và 
dày hơn (ở cùng áp suất) so với khung muội trên bề mặt cháy của thuốc phóng trên 
nền NC-NG-DINA. Điều này cho thấy, xúc tác cháy (PbO, CoO) tạo ra khung 
muội cacbon bền hơn so với khung muội cacbon được tạo bởi cacbon kỹ thuật có 
trong thành phần. 
Hóa học & Kỹ thuật môi trường 
L. D. Bình, N. V. Bắc, “Nghiên cứu ảnh hưởng trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA.” 146 
3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất và xúc tác cháy đến thành phần sản 
phẩm cháy trên bề mặt dập cháy 
Cơ chế cháy của thuốc phóng được chia làm 5 giai đoạn (vùng): vùng nung 
nóng, vùng chuyển pha (pha K), vùng ngọn lửa sơ cấp, vùng khoảng tối, vùng 
ngọn lửa thứ cấp và vùng các sản phẩm khí. 
Quá trình phân hủy của thuốc phóng bắt đầu từ sự đứt gãy, thu nhiệt của nhóm -
NO2 trong NC, NG hay các chất hóa dẻo nitroeste khác, sau đó chúng tham gia vào 
các phản ứng cháy với sản phẩm trung gian trong quá trình phân rã của các chất 
ban đầu. Theo tài liệu [4, 5, 6] năng lượng hoạt hóa của quá trình tách nhóm -NO2 
của các nitroeste vào khoảng 160 kJ/mol, còn quá trình oxy hóa sau đó vào khoảng 
80 kJ/mol. Trong quá trình cháy của thuốc phóng, các chất có độ bền nhiệt thấp 
nhất và có khả năng phản ứng cao (NC, NG) sẽ bị phân hủy trước, còn các thành 
phần trơ khác như DNT, DBP, xentralit, vazơlin, sẽ được chuyển hóa sang trạng 
thái lỏng hoặc khí, thậm chí, có thể không bị phân hủy ở pha rắn (đặc biệt là đối 
với một số loại thuốc phóng có nhiệt lượng trung bình và thấp hoặc thuốc phóng 
được tạo thành từ các thành phần tương đối khác nhau về độ bền nhiệt). Vì thế, từ 
bề mặt cháy của sản phẩm cháy, các thành phần này có thể vừa bị phân hủy, đồng 
thời cũng bị bay hơi hoặc phân tán bởi các luồng khí. Khi đó, trong một vài trường 
hợp chúng có thể không bị cháy hoàn toàn, kể cả ở trong vùng tiếp theo. Khi tăng 
áp suất thì nhiệt độ trên bề mặt cháy sẽ tăng, vận tốc phản ứng hóa học tăng trong 
pha rắn cùng với sự tham gia của các sản phẩm khí. 
Như vậy, bản chất của quá trình cháy thuốc phóng được qui định ở vùng chuyển 
pha (sản phẩm còn lại trên bề mặt dập cháy). Thành phần của các sản phẩm trung 
gian trong pha K phụ thuộc vào tính chất lý hóa của các cấu tử trong thuốc phóng, 
đồng thời phụ thuộc cả vào áp suất mà tại đó xảy ra quá trình cháy. 
Bằng thực nghiệm, nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất 
và xúc tác cháy đến thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy đối với thuốc 
phóng trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA. Kết quả nghiên cứu được trình bày 
ở các bảng 2, 3, 4 và 5. 
Bảng 2. Thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng trên 
nền NC-NG-DG (không xúc tác) theo áp suất. 
Áp suất 
Khối lượng, % 
C(K) O(K) Ca(K) Co(K) Pb(M) Tổng cộng 
10 78,49 21,51 - - - 100,0 
40 71,60 26.42 - - - 98,02 
70 57,12 39,88 - - - 97,00 
100 54,24 41,90 96,14 
Bảng 3. Thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng trên 
nền NC-NG-DG (có xúc tác) theo áp suất. 
Áp suất 
Khối lượng, % 
C(K) O(K) Ca(K) Co(K) Pb(M) Tổng cộng 
10 24,84 23,23 3,66 7,30 40,41 99,44 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 47, 02 - 2017 147
40 22,57 24,02 7,02 1,98 44,42 100,0 
70 24,49 25,35 5,85 7,87 36,45 100,0 
100 37,57 42,02 2,49 1,10 16,03 99,21 
Bảng 4. Thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng trên 
nền NC-NG-DINA (không xúc tác) theo áp suất. 
Áp suất 
Khối lượng, % 
C(K) O(K) Ca(K) Co(K) Pb(M) Tổng cộng 
10 66,38 30,18 - - - 96,56 
40 54,65 41,78 - - - 96,43 
70 44,07 47,84 - - - 91,91 
100 47,16 45,77 - - - 92,93 
Bảng 5. Thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng trên 
nền NC-NG-DINA (có xúc tác) theo áp suất. 
Áp suất 
Khối lượng, % 
C(K) O(K) Ca(K) Co(K) Pb(M) Tổng cộng 
10 29,17 37,19 19,77 - 13,32 99,45 
40 22,85 32,52 28,35 - 16,14 99,86 
70 31,48 32,27 15,14 - 18,69 97,58 
100 38,68 31,30 10,77 - 11,14 91,89 
Từ kết quả bảng 2, 3, 4 và 5 cho thấy: 
Khi tăng áp suất cháy (từ 10 đến 100 at), đối với mẫu không có xúc tác thì hàm 
lượng cacbon giảm dần từ 78,49 xuống 54,24 % (mẫu trên nền NC-NG-DG) và từ 
66,38 xuống 47,16 % (mẫu trên nền NC-NG-DINA). Trong khi hàm lượng oxi 
tăng dần từ 21,51 lên 41,90 % (mẫu trên nền NC-NG-DG) và từ 30,18 lên 45,77 % 
(mẫu trên nền NC-NG-DINA). Việc hàm lượng cacbon giảm và oxy tăng trong 
thành phần sản phẩm cháy có thể được giải thích, khi tăng áp suất cháy, quá trình 
cháy càng diễn ra hoàn toàn. Tuy nhiên, khi có xúc tác cháy, qui luật này có sự 
khác biệt tại những vùng áp suất cháy khác nhau, tại vùng áp suất từ 10 đến 40 at, 
đối với mẫu trên nền NC-NG-DG, hàm lượng cacbon giảm từ 24,84 xuống 22,57 
% và đối với mẫu trên nền NC-NG-DINA từ 29,17 xuống 22,85 %, tại vùng áp 
suất từ 40 đến 100 at thì hàm lượng cacbon của cả hai loại thuốc phóng này đều có 
xu hướng tăng, từ 22,57 lên 37,57 % (mẫu NC-NG-DG) và từ 22,85 lên 38,68 % 
(mẫu NC-NG-DINA). Riêng về hàm lượng oxy trong thành phần sản phẩm cháy 
của mẫu trên nền NC-NG-DG tăng lên từ 23,23 lên 42,02 %, trong khi, đối với 
mẫu trên nền NC-NG-DINA lại có xu hướng giảm từ 37,19 xuống 31,30 %. Mặt 
khác, tổng hàm lượng các chất rắn (Ca(K); Co(K) và Pb(M)) cũng tăng dần trong 
khoảng áp suất từ 10 đến 40 at, từ 51,37 lên 53,42 % (đối với mẫu trên nền NC-
NG-DG) và từ 33,09 lên 44,49 % (đối với mẫu trên nền NC-NG-DINA), nhưng 
sau đó có xu hướng giảm dần khi tăng áp suất, từ 53,42 xuống 19,62 (đối với mẫu 
trên nền NC-NG-DG, từ 44,49 xuống 21,91 % (đối với mẫu trên nền NC-NG-
DINA). So với mẫu trên nền NC-NG-DINA ta thấy, khi không có xúc tác cháy, 
hàm lượng cacbon trong mẫu trên nền NC-NG-DG cao hơn và hàm lượng oxy thấp 
Hóa học & Kỹ thuật môi trường 
L. D. Bình, N. V. Bắc, “Nghiên cứu ảnh hưởng trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA.” 148 
hơn nhưng khi có xúc tác cháy thì hàm lượng cacbon lại thấp hơn và hàm lượng 
oxy lại cao hơn. Bên cạnh đó, tổng hàm lượng sản phẩm cháy trên các mẫu cho 
thấy, mẫu trên nền NC-NG-DG khi có xúc tác cháy, quá trình cháy, hầu như không 
sinh thêm tạp chất khác, sản phẩm cháy chỉ còn lại C, O, Ca, Co và Pb với tổng 
gần 100 %, trong khi đối với các mẫu trên nền NC-NG-DG không có xúc tác, mẫu 
trên nền NC-NG-DINA kể cả có và không có xúc tác, quá trình vẫn sinh ra tạp chất 
khác, đặc biệt là đối với mẫu trên nền NC-NG-DINA không có xúc tác, tỷ lệ tạp 
chất chiếm gần 10 %. 
Các kết quả nghiên cứu và phân tích ở trên đã chứng tỏ rằng, hiệu quả xúc tác 
cháy của cặp PbO, CoO trong thuốc phóng trên nền NC-NG-DG tốt hơn so với 
hiệu quả xúc tác cháy của PbO trong thuốc phóng trên nền NC-NG-DINA. Mặt 
khác, khi có xúc tác cháy, hiệu quả xúc tác cháy tốt hơn so với mẫu không có xúc 
tác cháy. Ngoài ra, khi áp suất cháy càng cao, tỷ lệ sinh ra tạp chất khác càng lớn. 
Việc áp suất cháy càng lớn, càng sinh ra nhiều tạp chất được cho là khi đó những 
phản ứng có sự tương tác của các xúc tác cháy sẽ cho hiệu quả xúc tác cháy kém đi 
và thay vào đó là sẽ sinh ra một số phản ứng phụ khác. 
4. KẾT LUẬN 
Đã nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất đến bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo 
ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA, kết quả cho thấy, đối với mẫu nền 
khi không có xúc tác cháy, tại áp suất thấp (khoảng 10 at), khung muội cacbon trên 
bề mặt dập cháy của thuốc phóng trên nền NC-NG-DG thường nhiều và dày hơn, 
trong khi đó, ở các áp suất cao hơn (khoảng 40 đến 100 at) hiện tượng này có xu 
hướng ít và mật độ thưa hơn so với khung muội cacbon trên bề mặt dập cháy của 
thuốc trên nền NC-NG-DINA. Khi có xúc tác cháy, mức độ “tản vụn” của khung 
muội cacbon trên bề mặt dập cháy đối với thuốc phóng trên nền NC-NG-DINA sẽ 
nhanh hơn (theo áp suất) so với mẫu thuốc phóng trên nền NC-NG-DG. Điều này 
cho thấy, sự phụ thuộc của tốc độ cháy vào áp suất đối với mẫu thuốc phóng trên 
nền NC-NG-DINA lớn hơn (khi có xúc tác cháy) và nhỏ hơn (khi không có xúc tác 
cháy) so với mẫu thuốc phóng trên nền NC-NG-DG. 
Đã nghiên cứu ảnh hưởng của áp suất (tăng dần từ 10 đến 100 at) và xúc tác 
cháy đến thành phần sản phẩm cháy trên bề mặt dập cháy của thuốc phóng keo 
ballistic trên nền NC-NG-DG và NC-NG-DINA, nghiên cứu cho thấy, đối với mẫu 
nền, hàm lượng cacbon giảm dần và hàm lượng oxy tăng dần. Trong khi với mẫu 
có xúc tác, tại vùng áp suất từ 10 đến 40 at, hàm lượng cacbon giảm, tổng hàm 
lượng các chất rắn [Ca(K); Co(K) và Pb(M)] tăng và tại vùng áp suất từ 40 đến 100 at, 
hàm lượng cacbon tăng, tổng hàm lượng các chất rắn giảm. Riêng về hàm lượng 
oxy trong thành phần sản phẩm cháy của mẫu trên nền NC-NG-DG tăng theo áp 
suất, nhưng đối với mẫu trên nền NC-NG-DINA lại giảm theo áp suất. Mẫu trên 
nền NC-NG-DG khi có xúc tác, quá trình cháy, hầu như không sinh thêm tạp chất 
khác, trong khi đối với các mẫu trên nền NC-NG-DG không có xúc tác, mẫu trên 
nền NC-NG-DINA kể cả có và không có xúc tác, quá trình vẫn sinh ra tạp chất, 
đặc biệt, đối với mẫu trên nền NC-NG-DINA không có xúc tác. Khi áp suất cháy 
càng cao khả năng sinh tạp chất càng nhiều. 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 47, 02 - 2017 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Lê Duy Bình và cộng sự, “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số phụ gia đến tốc 
độ cháy của thuốc phóng keo ballistic trên nền NC-NG-DG”, Tạp chí Hóa 
học, số 53 (5e1), tr.48-53, 2015. 
[2]. Le Duy Binh and coworker, “Effect of catalyst on the burning rate of energy 
materials based on NC-NG-DINA”, The 4th academic conference on natural 
science for young scientists, master and PhD. Students from Asean countries, 
Bangkok, Thailand.15-18 December, pp230-239, 2015. 
[3]. Ньен Чан Аунг, “Влияние состава пороха на эффективность действия 
катализаторов горения”, Автореферат диссертации кандидата 
химических наук, Москва, Российский химико-технологический 
университет имю Д.Ию Менделеева, 2008. 
[4]. Денисюк А. П., Демидова Л. А., “Особенности влияния некоторых 
катализаторов на горение баллиститных порохов”, Физика горения и 
взрыва, Т. 40, № 3, С. 69-76, 2004. 
[5]. Денисюк А. П., Шепелев Ю. Г., Русин Д. Л., Шумский И. В. “Влияние 
гексогена и октогена на эффективность действия катализаторов 
горения баллиститных порохов”, Физика горения и взрыва, Т. 37, № 2, 
С. 77-8, 2001. 
[6]. Денисюк А. П, “Физико-химические свойства баллистических порохов и 
ракетных твердых топлив”, Российский химико-технологический 
университет им. Менделеева, Издательство Москва, 1994. 
ABSTRACT 
EFFECTS OF PRESSURE ON BURNING SURFACE OF BALLISTIC 
PROPELLANT BASED ON NC-NG-DG AND NC-NG-DINA 
Based on the specific materials combination with experimental works, 
effects of pressures on the burning surface and the composition of combustion 
products of ballitsic propellant based on NC-NG-DG and NC-NG-DINA was 
researched. The investigation results obtained are of important signification 
contributing to scientific data confirming the effect of pressure on properties 
and mechanism of propellant ignition, proving possibility of catalyst in 
propellant ignition, leading to investigation on the phenomenon of erosive 
burning and forming carbon black during burning process. 
Keywords: Propellants, NC-NG-DG, NC-NG-DINA, Burning surface, Composition, Burning product, 
Pressure. 
Nhận bài ngày 21 tháng 11 năm 2016 
Hoàn thiện ngày 14 tháng 01 năm 2017 
Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 02 năm 2017 
Địa chỉ: 1Viện Thuốc phóng thuốc nổ- TCCNQP; 
 2 Viện Hóa học – Vật liệu, Viện KH-CNQS; 
 *Email: binhld.12p7.pro@gmail.com. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_anh_huong_cua_ap_suat_den_be_mat_dap_chay_va_than.pdf