Nghiên cứu áp dụng thuốc Clonidin trong điều trị hội chứng cai chất dạng thuốc phiện
Nghiên cứu 171 bệnh nhân nghiện heroin có hội chứng cai điều trị bằng thuốc Clonidine tại viện Sức khoẻ Tâm thần bệnh, viện Bạch Mai nhằm đánh giá hiệu quả của thuốc Clonidine trong điều trị hội chứng cai Heroin, mô tả tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của thuốc clonidine. Phương pháp mô tả lâm sàng cắt ngang, so sánh trước sau điều trị 7 - 10 ngày. Kết quả cho thấy thuốc clonidin làm thuyên giảm hội chứng cai rõ rệt từ ngày thứ 3 - 6: từ ngày thứ 1, ngáp (77,7%), mất ngủ (62,8%), thèm (62,8%), đau cơ (49,5), đến ngày thứ 6, ngáp chỉ còn 1,7%, mất ngủ (14,8%), thèm (0,8%) và đau cơ (21,6%). Hội chứng cai mất dần từ ngày thứ 7 và mất hết vào ngày thứ 10, người bệnh trở lại trạng thái bình thường. Tác dụng không mong muốn ít gặp (đau đầu, chóng mặt), xuất hiện từ ngày thứ 2, thứ 3, chủ yếu với liều cao 0,9 - 1,2mg (18%), 1,5 - 1,8mg (26,6%) và chóng mất đi sau một tuần điều trị
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu áp dụng thuốc Clonidin trong điều trị hội chứng cai chất dạng thuốc phiện
TCNCYH 82 (2) - 2013 127 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG THUỐC CLONIDIN TRONG ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN Trần Nguyễn Ngọc, Trần Hữu Bình Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu 171 bệnh nhân nghiện heroin có hội chứng cai điều trị bằng thuốc Clonidine tại viện Sức khoẻ Tâm thần bệnh, viện Bạch Mai nhằm đánh giá hiệu quả của thuốc Clonidine trong điều trị hội chứng cai Heroin, mô tả tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của thuốc clonidine. Phương pháp mô tả lâm sàng cắt ngang, so sánh trước sau điều trị 7 - 10 ngày. Kết quả cho thấy thuốc clonidin làm thuyên giảm hội chứng cai rõ rệt từ ngày thứ 3 - 6: từ ngày thứ 1, ngáp (77,7%), mất ngủ (62,8%), thèm (62,8%), đau cơ (49,5), đến ngày thứ 6, ngáp chỉ còn 1,7%, mất ngủ (14,8%), thèm (0,8%) và đau cơ (21,6%). Hội chứng cai mất dần từ ngày thứ 7 và mất hết vào ngày thứ 10, người bệnh trở lại trạng thái bình thường. Tác dụng không mong muốn ít gặp (đau đầu, chóng mặt), xuất hiện từ ngày thứ 2, thứ 3, chủ yếu với liều cao 0,9 - 1,2mg (18%), 1,5 - 1,8mg (26,6%) và chóng mất đi sau một tuần điều trị. Từ khoá: Clonidine, hội chứng cai Địa chỉ liên hệ: Trần Nguyễn Ngọc, Bộ môn Tâm thần, Trường Đại học Y Hà Nội Email: pgstranhuubinh@gmail.com Ngày nhận: 06/01/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghiện ma tuý đã và đang là vấn đề bức xúc của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, nghiện ma tuý chủ yếu là nghiện các chất dạng thuốc phiện và các chất kích thích dạng amphetamine (ATS), đang lan tràn với tốc độ nhanh. Số người nghiện chủ yếu ở lứa tuổi thanh thiếu niên, trong đó, tiêm chích ma tuý chiếm tỷ lệ đáng kể (86,3 - 90%), là nguy cơ lây truyền HIV/AIDS [1; 2; 3; 4]. Nghiện ma tuý liên quan đến các tội phạm xã hội, an ninh quốc phòng, gây rối loạn tâm thần, hành vi, làm suy sụp nghiêm trọng về sức khỏe và kinh tế. Việc nghiên cứu điều trị nghiện heroin đã được Bộ Y tế triển khai từ nhiều năm nay với nhiều phương pháp khác nhau, nhưng cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về điều trị hội chứng cai bằng thuốc clonidin; do vậy, nghiên cứu điều trị hội chứng cai bằng clonidin ở bệnh nhân nghiện heroin sẽ đóng góp có ý nghĩa trong công cuộc phòng chống ma túy hiện nay ở Việt Nam. Đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu: 1. Đánh giá hiệu quả của thuốc Clonidine trong điều trị hội chứng cai Heroin ở bệnh nhân nội trú tại viện Sức khoẻ Tâm thần bệnh viện Bạch Mai. 2. Mô tả tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của thuốc clonidine. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng - Nghiên cứu 171 bệnh nhân được chẩn đoán nghiện heroin có hội chứng cai theo tiêu chuẩn phân loại bệnh Quốc tế (ICD - 10,1992) [4], tự nguyện điều trị tại viện Sức khoẻ Tâm thần, bệnh viện Bạch Mai. - Các bệnh nhân nghiên cứu xét nghiệm nước tiểu có Opiates; được điều trị bằng clonidin; tuân thủ nội quy, quy chế điều trị. Loại ra khỏi nghiên cứu những bệnh nhân có bệnh tim mạch, có xét nghiệm HIV dương tính, suy gan, thận, đang mắc các bệnh cơ thể và tâm thần nặng; phụ nữ có thai và đang cho 128 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC con bú, bệnh nhân không tuân thủ điều trị: bỏ thuốc hơn 1 ngày hoặc sử dụng heroin trong thời gian điều trị. 2. Phương pháp - Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, so sánh trước sau điều trị (một đợt điều trị 7 - 10 ngày) ở bệnh nhân sử dụng heroin có hội chứng cai. - Theo dõi diễn biến các biểu hiện lâm sàng hội chứng cai từng ngày và các rối loạn tâm thần, hành vi kèm theo. - Theo dõi các tác dụng không mong muốn của thuốc. - Xét nghiệm tìm chất ma tuý trong nước tiểu 2 ngày/lần. 3. Xử lý số liệu + Số liệu được nhập và xử lý theo phương pháp thống kê toán học trong y học SPSS 13.0. III. KẾT QUẢ Bảng 1. Phân bố tuổi ở bệnh nhân nghiên cứu Lứa tuổi n % 18 - 25 34 19,9 26 - 35 87 50,9 36 - 45 37 21,6 > 45 13 7,6 X ± SD 32,11 ± 7,2 Kết quả nghiên cứu cho thấy, người nghiện ma túy gặp độ tuổi từ 18 - 50, trong đó, 26 - 35 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (50,9%), 18 - 25 tuổi chiếm 19,9%, ít gặp ở tuổi > 45 (7,6%). Bảng 2. Thời gian nghiện, mức độ nghiện Thời gian nghiện n % < 5 năm 79 45,6 5 - 10 năm 78 46,2 > 10 năm 14 8,2 Mức độ nghiện TS % Nhẹ 4 2,3 Trung bình 35 20,5 Nặng 132 77,2 Số bệnh nhân nghiện từ 5 - 10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (46,2%); nghiên cứu còn phát hiện 8,2% người nghiện > 10 năm. Phần lớn bệnh nhân nghiện mức độ nặng (77,2%) và 20,5% bệnh nhân nghiện mức độ trung bình. TCNCYH 82 (2) - 2013 129 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 3. Liều lượng thuốc clonidin trong điều trị hội chứng cai Liều 1 2 3 4 5 6 mg Ʃ % Ʃ % Ʃ % Ʃ % Ʃ % Ʃ % Ʃ % 0,3 - 0,6 95 55,5 0 0 0 0 0 0 69 40,3 109 63,7 117 68,4 0,9 - 1,2 76 44,4 119 65,9 112 65,5 112 65,5 81 47,4 59 34,5 54 31,6 1,5 - 1,8 0 0 0 0 47 27,5 26 152 21 12,7 3 1,75 0 0 7 Thuốc clonidin làm thuyên giảm và mất hội chứng cai phần lớn tập trung ở liều 0,9 - 1,2 mg từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 (47,4%); từ ngày thứ 7, liều điều trị của thuốc giảm xuống 0,3 - 0,6 mg (68,4%). Bảng 4. Diễn biến hội chứng cai Triệu chứng Ngày 1 Ngày 2 Ngày 3 Ngày 4 Ngày 5 Ngày 6 Ngày 7 Ngáp 72,7 71 66,1 42,1 17,4 1,7 0 Thèm 62,8 57 47,9 33,8 19 0,8 0 Chảy nước mắt,nước mũi 38,8 53,7 44,6 29,7 23,9 3,3 0 Đau khớp 49,5 66,9 62,8 53,7 40,5 21,6 6,6 Mất ngủ 62,8 72,7 71,9 57,8 40,4 14,8 7,4 Toát mồ hôi 45,4 64,4 62,8 49,6 33,1 6,7 0 Buồn nôn, nôn 25,6 19,8 21,4 14,8 6,6 1,6 0,8 Tiêu chảy 7,4 8,3 5,8 2,4 2,4 0 0 Dãn đồng tử 13,2 4,9 41 0 0 0 0 Tăng thân nhiệt 20 33,5 30 23,3 13,3 6,7 0 Dị cảm 8,2 6,7 0 0 0 0 0 Mạch nhanh 37,2 43 34,7 25,6 15,7 5,8 0 Số liệu thu được từ bảng 4 cho thấy các triệu chứng của hội chứng cai thuyên giảm rõ từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 và mất dần vào ngày thứ 7 đến ngày thứ 10. Số liệu thu được từ bảng 5 cho thấy, các tác dụng không mong muốn của thuốc như đau đầu, chóng mặt xảy ra vào ngày thứ 3 ở các liều khác nhau. Tuy nhiên, tần suất xuất hiện nhiều ở liều cao 1,5 - 2,1 mg (bảng 5). 130 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Liều (mg) Đau đầu Chóng mặt Co giật Dị ứng Phù nề Tác dụng khác 0,3 – 0,6 5 (3) 2 (3) - - - - 0,9 – 1,2 15 (2) 12 (3) - - - - 1,5 - 2,1 20 (3) 20 (3) - - - - Tổng số 41 (33,8%) 34 (28,0%) Bảng 5. Tác dụng không mong muốn của thuốc clonidin điều trị hội chứng cai IV. BÀN LUẬN Đặc điểm chung bệnh nhân nghiên cứu: Tuổi của đối tượng nghiên cứu: trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm tuổi gặp nhiều nhất là từ 26 - 35 tuổi, chiếm 50,9%. Một bộ phận tuổi từ 36 - 45 chiếm tỷ lệ thấp hơn 21,6%. Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là 32,11 ± 7,2. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Lý Trần Tình (2008), Trần Văn Cường (2010), lứa tuổi gặp trung bình của đối tượng nghiên cứu là 33,06 ± 7,61 [1; 3]. Tương tự, theo báo cáo tình hình và kết quả phòng chống ma tuý năm 2009 của Bộ Công an, 54,2% người nghiện ma tuý ở độ tuổi từ 30 đến 45 tuổi. Thời gian và mức độ nghiện: trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, thời gian nghiện 5 - 10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (46,2%), thời gian nghiện dưới 5 năm chiếm tỷ lệ thấp hơn (45,6%). Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu Trần Văn Cường, Trần Viết Nghị (2010), thời gian nghiện 6 - 10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 43,13% [1, 2]; theo Walter Ling và cộng sự, thời gian nghiện chủ yếu từ 7 - 10 năm. Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện được 77,2% bệnh nhân nghiện mức độ nặng, 20,5% người nghiện mức trung bình, và 2,3% người nghiện ở mức độ nhẹ. Từ số liệu thu thập được cho thấy thời gian nghiện càng lâu thì mức độ nghiện càng nặng. Kết quả điều trị hội chứng cai heroin bằng clonidine: Đặc điểm bệnh nhân điều trị: chúng tôi nghiên cứu 171 bệnh nhân nghiện heroin có hội chứng cai được điều trị bằng thuốc clonidin, trong đó, có 150 bệnh nhân được điều trị đơn thuần bằng thuốc clonidin (chiếm tỷ lệ 87,72%) và 21 bệnh nhân từ ngày thứ 3 phải điều trị phối hợp với các thuốc an thần kinh (tisercin, haloperidon) mới làm ổn định hội chứng cai chiếm tỷ lệ 12,28%. Công trình chỉ đi sâu phân tích các số liệu thu nhận được từ 150 bệnh nhân được điều trị đơn thuần bằng thuốc clonidin. Diễn biến hội chứng cai trên bệnh nhân nghiên cứu được điều trị đơn thuần bằng clonidine: số liệu thu thập trong quá trình điều trị được trình bày ở bảng 4, phản ánh diễn biến hội chứng cai dưới tác dụng của clonidin điều trị đơn thuần trên bệnh nhân nghiên cứu. Các triệu chứng ngáp, thèm chất ma túy, chảy nước mắt, nước mũi, đau mỏi nhức khớp, rối loạn giấc ngủ và toát mồ hôi; các triệu chứng buồn nôn, nôn, tiêu chảy, dãn đồng tử, tăng thân nhiệt, dị cảm, mạch nhanh đều có xu hướng giảm dần về cường độ từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu. Từ ngày thứ 1, bệnh nhân có biểu hiện nhiều và thường xuyên các triệu chứng ngáp (77,7%), mất ngủ, thèm chất ma túy (62,8%), đau cơ bắp (49,5%) , nhưng đến ngày thứ 6, các triệu chứng giảm đi rõ rệt, ngáp chỉ còn 1,7%, thèm 0,8%, mất TCNCYH 82 (2) - 2013 131 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ngủ 14,8%, đau khớp 21,6%. Đến ngày thứ 7 hầu hết các triệu chứng giảm đi đáng kể, và từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 10, các triệu chứng của hội chứng cai trên bệnh nhân điều trị đơn thuần clonidin đó được thanh toán hoàn toàn. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Trần Văn Cường (2010), Lý Trần Tình (2009) [1; 3]. Theo Taschner KL (1986), clonidin có hiệu quả trong việc kiểm soát các triệu chứng toát mồ hôi, nóng bừng, đánh trống ngực và buồn nôn [3]. Tác dụng không mong muốn trên lâm sang: Thuốc clonidine điều trị hội chứng cai ít có tác dụng không mong muốn trên lâm sàng. Tác dụng không mong muốn là đau đầu (33,8%), chóng mặt (28%), xuất hiện ở các liều cao điều trị: 0,9 mg - 1,2 mg clonidin vào ngày thứ 2 (15 bệnh nhân), liều 1,5 mg - 2,1 mg vào ngày thứ 3 (20 bệnh nhân). Tuy nhiên, các tác dụng không mong muốn không có sự ảnh hưởng trầm trọng đến toàn trạng của người bệnh và chúng mất đi sau một tuần điều trị. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thế giới (Batey,1987; Angela L, 2009) [5, 6]. Trên lâm sang, chúng tôi không gặp bệnh nhân nào có biểu hiện hạ huyết áp, có thể do bệnh nhân được điều trị nội trú nên mọi chế độ chăm sóc, dinh dưỡng tốt hơn. V. KẾT LUẬN Nghiên cứu điều trị hội chứng cai bằng clonidin trên 171 bệnh nhân nghiện heroin tại viện Sức khoẻ Tâm thần, bệnh viện Bạch Mai, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: - Lứa tuổi người nghiện từ 18 - 50, tuổi trung bình 32,11 ± 7,2; trong đó, tuổi 26 - 35 chiếm tỷ lệ cao (50,9%), thời gian nghiện 5 - 10 năm (46,2%), mức độ nghiện nặng (77,2%). Thuốc clonidin có hiệu quả làm thuyên giảm cường độ triệu chứng của hội chứng cai rõ rệt từ ngày thứ 3 - 6. Phần lớn các triệu chứng mờ nhạt, không còn tác động mạnh mẽ, thường xuyên đến người bệnh: từ ngày thứ 1, ngáp (77,7%), mất ngủ (62,8%), thèm chất ma túy (62,8%), đau cơ (49,5); đến ngày thứ 6, ngáp chỉ còn 1,7%, mất ngủ (14,8%), thèm (0,8%), và đau cơ (21,6%). Hội chứng cai mất dần từ ngày thứ 7 và mất hết vào ngày thứ 10, người bệnh trở lại trạng thái bình thường. Tác dụng không mong muốn của thuốc clonidin ít gặp; đau đầu 33,8%, chóng mặt 28% từ ngày thứ 2, thứ 3, chủ yếu khi dùng clonidin liều cao 1,5 - 2,1 mg. Tác dụng không mong muốn không làm ảnh hưởng trầm trọng đến toàn trạng bệnh nhân và mất đi sau một tuần mà không cần cho thêm thuốc điều trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Văn Cường, Nguyễn Mạnh Hùng (2010). Nghiên cứu đánh giá hiệu lực và tính an toàn của Heantos 4 hỗ trợ cắt cơn nghiện ma tuý, Tài liệu tập huấn điều trị nghiện ma túy, viện Sức khoẻ Tâm thần, 1 - 15. 2. Trần Viết Nghị, Nguyễn Minh Tuấn (1995). Điều trị nghiện ma túy bằng thuốc hướng thần, Kỷ yếu Hội nghị khoa học về các phương pháp điều trị nghiện ma túy, Bộ Y tế, viện Sức khoẻ Tâm thần Hà Nội, 96 - 100. 3. Lý Trần Tình (2009). Kết quả điều trị nghiện ma tuý tại bệnh viện Tâm thần Hà Nội. Tài liệu tập huấn cập nhật và trao đổi kinh nghiệm về các phương pháp điều trị nghiện ma tuý, Viện Sức khoẻ Tâm thần, 1 - 8. 4. Tổ chức Y tế Thế giới (1992). Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất. Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi. Mô tả lâm sàng và nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán, Hà Nội, 1 - 10. 132 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 5. Angela L. Stotts, Carrie L. Dodrill, and Thomas R. Kosten (2009). Opioid Dependence Treatment: Options In Pharma- cotherapy. Expert Opin Pharmacother, USA, 10 (11), 1727 - 1740. 6. Batey R, Liddle C (1987). A placebo controlled trial of clonidine in the outpatient management of heroin withdrawal, Australian Drug and Alcohol Review 1987; 6(1), 11 - 14. 7. Taschner KL (1986). A controlled comparison of clonidine and doxepin in the treatment of the opiate withdrawal syndrome, New York Pharmacopsychiatry. 19(3), 91 - 95. Summary APPLICATION OF CLONIDINE IN TREATMENT OF OPIATE WITHDRAWAL SYNDROME The objectives of this study were to assess the effectiveness of clonidine in treatment of heroin withdrawal syndrome and to describe the side effects of clonidine. Methods: This study involved 171 in-patient opiate addicts who had withdrawal syndrome from opiate dependence treated at National Institute of Mental Health. This is a cross-sectional study comparing patients’ symptoms before and after 7-10 days of treatments. Results: The results showed that clonidine significantly reduces withdrawal symptoms after 3 - 6 day: In day 1, withdrawal symptoms such as yawn (77.7%), insomnia (62.8%), cravings (62.8), muscular pain (49.) were slightly reduced. In day 6 of treatment, withdrawal symptoms such as yawn (1.7%), insomnia (14.8%), cravings (0.8%), and muscular pain (21.6%) were significantly reduced. Withdrawal symptoms continued to decrease from 7 to day 10, where the withdrawal symptomatic decreasing trends stopped and the patients were completely recovered. There were few side effects in the effective low dosage. High dos- ages of clonidine (0.9 - 1.2 mg), 18% of the patients experienced some side effect but these side effects rapidly disappeared after a week of treatment. Conclusions: clonidine is an effective drug in treating opiate withdrawal syndrome. Keywords: clonidine, withdrawal syndrome
File đính kèm:
- nghien_cuu_ap_dung_thuoc_clonidin_trong_dieu_tri_hoi_chung_c.pdf