Nghiên cứu hiệu quả của Moxifloxacin (Vigamox 0,5%) trong điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của Moxifloxacin (Vigamox 0,5%) trong điều trị viêm loét giác mạc

(VLGM) do vi khuẩn (VK). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành trên 21 bệnh nhân

(BN) tuổi từ 18 - 83 với 3 mức độ bệnh: nhẹ - 8 BN, vừa - 6 BN, nặng - 7 BN. Tất cả BN được điều trị theo

cùng một phác đồ: giai đoạn nhiễm trùng: tra Vigamox 0,5% 15-20 phút/lần, Atropin 1% x 2 lần/ngày; giai

đoạn nhiễm trùng bắt đầu rút: giảm số lần tra kháng sinh (4 – 6 lần/ngày), bổ sung thuốc tăng cường dinh

dưỡng giúp tái tạo biểu mô giác mạc. BN được khám 3 ngày/lần cho đến khi khỏi bệnh chủ yếu dựa theo

sự tiến triển của thâm nhiễm và quá trình biểu mô hóa của giác mạc. Kết quả: 100% BN đều có kết quả

soi nhuộm (+): một loại vi khuẩn (cầu hoặc trực khuẩn gram âm hoặc dương) hoặc phối hợp cả hai loại vi

khuẩn. 100% bệnh đều khỏi bệnh. Thời gian thâm nhiễm rút hoàn toàn dài hơn thời gian giác mạc biểu mô

hóa hoàn toàn. Kết luận: Vigamox 0,5% có hiệu quả trong điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn. Không

thấy tác dụng phụ của thuốc trên BN nghiên cứu

pdf 7 trang yennguyen 3620
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu hiệu quả của Moxifloxacin (Vigamox 0,5%) trong điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu hiệu quả của Moxifloxacin (Vigamox 0,5%) trong điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn

Nghiên cứu hiệu quả của Moxifloxacin (Vigamox 0,5%) trong điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn
12 Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
VLGM nhiễm trùng là bệnh thường gặp ở 
những nước có khí hậu nóng ẩm. VLGM là nguyên 
nhân chính gây mù lòa do bệnh lí giác mạc (3, 4, 
6). Tại Mỹ, hàng năm có khoảng 30.000 ca VLGM 
do VK. Tại Nam Ấn Độ, VLGM do nấm (47,1%) 
và do VK (46,8%) chiếm phần lớn tỉ lệ các loại 
VLGM thường gặp (tdt 1). Tại Việt Nam, theo một 
số nghiên cứu gần đây thì tỉ lệ VLGM do VK và 
nấm chiếm đa số trong các loại VLGM (1,2).
Kháng sinh điều trị VLGM do VK rất đa dạng, 
tuy nhiên tỉ lệ kháng kháng sinh ngày càng cao do 
đặc điểm của VK cũng như do cách dùng thuốc. 
Trong những năm gần đây, Fluoroquinolone thế hệ 
IV ra đời với ưu điểm vượt trội là tỉ lệ kháng thuốc 
hầu như chưa xuất hiện, thuốc có tác dụng tốt với cả 
VK gram (+) và (-). Để đánh giá hiệu quả của kháng 
sinh nhóm Fluoroquinolone thế hệ IV với đại diện là 
Moxifloxacin (Vigamox), chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu đề tài này với mục tiêu là đánh giá hiệu quả 
của Vigamox 0,5% trong điều trị VLGM do VK ở các 
mức độ (nhẹ, vừa, nặng).
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Nghiên cứu mô tả tiến cứu các ca bệnh với 
tiêu chuẩn lựa chọn là những BN VLGM do VK ở 
3 mức độ: nhẹ, vừa, nặng và có kết quả soi nhuộm 
VK (+). Tất cả các BN đều được khai thác bệnh sử 
(tác nhân, thời gian mắc bệnh, đã điều trị gì trước 
khi đến bệnh viện). Tiến hành khám và đánh giá tổn 
thương (đo thị lực, xác định kích thước, độ sâu của 
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ 
CỦA MOXIFLOXACIN (VIGAMOX 0,5%) 
TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM LOÉT GIÁC MẠC DO VI KHUẨN
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của Moxifloxacin (Vigamox 0,5%) trong điều trị viêm loét giác mạc 
(VLGM) do vi khuẩn (VK). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành trên 21 bệnh nhân 
(BN) tuổi từ 18 - 83 với 3 mức độ bệnh: nhẹ - 8 BN, vừa - 6 BN, nặng - 7 BN. Tất cả BN được điều trị theo 
cùng một phác đồ: giai đoạn nhiễm trùng: tra Vigamox 0,5% 15-20 phút/lần, Atropin 1% x 2 lần/ngày; giai 
đoạn nhiễm trùng bắt đầu rút: giảm số lần tra kháng sinh (4 – 6 lần/ngày), bổ sung thuốc tăng cường dinh 
dưỡng giúp tái tạo biểu mô giác mạc. BN được khám 3 ngày/lần cho đến khi khỏi bệnh chủ yếu dựa theo 
sự tiến triển của thâm nhiễm và quá trình biểu mô hóa của giác mạc. Kết quả: 100% BN đều có kết quả 
soi nhuộm (+): một loại vi khuẩn (cầu hoặc trực khuẩn gram âm hoặc dương) hoặc phối hợp cả hai loại vi 
khuẩn. 100% bệnh đều khỏi bệnh. Thời gian thâm nhiễm rút hoàn toàn dài hơn thời gian giác mạc biểu mô 
hóa hoàn toàn. Kết luận: Vigamox 0,5% có hiệu quả trong điều trị viêm loét giác mạc do vi khuẩn. Không 
thấy tác dụng phụ của thuốc trên BN nghiên cứu.
Phạm Thị Khánh Vân*, Vũ Thị Tuệ Khanh**, Lê Thị Ngọc Lan**, 
Đặng Thị Minh Tuệ**, Hoàng Thị Minh Châu ** 
* Trường Đại học Y Hà Nội,
** Bệnh viện Mắt Trung ương
13Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ổ loét, mức độ thâm nhiễm, mủ tiền phòng) để phân 
định mức độ bệnh. Mức độ bệnh được phân định 
theo độ thâm nhiễm giác mạc và mức độ mủ tiền 
phòng. Mức độ thâm nhiễm giác mạc: độ 1 - thâm 
nhiễm 1/3 trước; độ 2 – thâm nhiễm 2/3 bề dày giác 
mạc; độ 3 – thâm nhiễm toàn bộ giác mạc. Mức độ 
mủ tiền phòng: nhẹ - không có mủ; vừa – mủ tiền 
phòng = 1 - 2mm.
Tất cả BN đều được lấy bệnh phẩm (chất nạo 
ổ loét giác mạc) để làm xét nghiệm soi nhuộm, nuôi 
cấy và KSĐ. 
Chúng tôi tiến hành điều trị BN theo phác 
đồ sau:
- Tra Vigamox 0,5% 15 - 20 phút/lần.
- Tra Atropin 1% - 2 lần/ngày.
- Khi quá trình nhiễm trùng bắt đầu rút và 
giác mạc bắt đầu biểu mô hóa: tra thêm thuốc tăng 
cường dinh dưỡng tái tạo biểu mô giác mạc.
BN được khám 3 ngày/lần cho đến khi khỏi bệnh.
Các tiêu chí để đánh giá kết quả: thị lực khi 
ra viện, thời gian giác mạc bắt đầu biểu mô hóa và 
biểu mô hóa hoàn toàn, thời gian thâm nhiễm bắt 
đầu rút và rút hoàn toàn.
III. KẾT QUẢ
21 BN (21 mắt) VLGM do VK trong nghiên 
cứu ở 3 mức độ bệnh: nhóm BN ở mức độ nhẹ 
là 8; mức độ vừa là 6 BN, mức độ nặng là 7 BN. 
Chúng tôi tiến hành phân tích kết quả trên từng 
nhóm BN. 
Kết quả khám và điều trị của BN ở mức độ 
nhẹ được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1. Kết quả khám và điều trị nhóm BN ở mức độ nhẹ
TT Tuổi/
giới
Tiền 
sử CT
Tiền sử 
dùng 
thuốc
Thời 
gian 
mắc 
bệnh
(ngày)
TL vào TL ra Kích 
thước ổ 
loét
(mm)
Thâm 
nhiễm
Thời 
gian
GM 
bắt đầu 
BMH
(ngày)
Thời 
gian 
GM
BMH 
hoàn 
toàn
Soi 
nhuộm
Nuôi 
cấy
1 56/F Không KS 60 0,3 0,3 3,1x2,5 1 2 7 
2 44/M Bụi KS 0,5 0,6 2,3x2,7 1 2 5 TKgr(+)
CKgr(+)
_
3 34/F Côn 
trùng
KS 5 0,9 1,0 2x1,8 1 2 12 TKgr(+) _
4 46/F Rơm KS 5 0,5 0,5 2,2x2,5 1 2 5 TKgr(-)
CKgr(+)
_
5 51/F Không KS 14 Đnt3m
Đnt
5m 2,8x3,2 1 4 12
TKgr(+)
CKgr(+)
_
6 32/F Lá lúa KS 5 0,15 0,6 2,1x3,2 1 2 4 Tkgr(-) _
7 15/F Gai KS 6 0,7 0,8 1,5x2,8 1 2 5 TKgr(-)
CKgr(+)
_
8 Không Không 5 2,1x1,8 1 2 3
GMBĐ - Giác mạc bắt đầu. GMBMH – giác mạc biểu mô hóa
14 Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Qua bảng nhận thấy đa số BN đều ở lứa tuổi lao động, đa số đều có tiền sử chấn thương và đều 
dùng kháng sinh trước khi đến viện. 6/8 BN có kết quả soi nhuộm (+), tuy nhiên không có BN nào có 
kết quả nuôi cấy (+). Thời gian giác mạc bắt đầu biểu mô hóa: 2 - 4 ngày và thời gian giác mạc biểu 
mô hóa hoàn toàn ở đa số BN (6/8) là từ 3 -7 ngày, 2/8 BN có tới 12 ngày giác mạc mới biểu mô hóa 
hoàn toàn.
Nhóm BN ở mức độ vừa được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2. Kết quả khám và điều trị nhóm BN ở mức độ vừa
TT Tuổi/
giới
Tiền sử 
chấn 
thương
Tiền sử 
dùng 
thuốc
Thời 
gian 
mắc 
bệnh
(ngày)
TL vào TL ra Kích 
thước ổ 
loét
(mm)
Thâm 
nhiễm
Mủ 
TP
Thời 
gian
GMBĐ 
biểu 
mô hóa
(ngày)
T/gM
BMH 
ht
Soi 
nhuộm
Nuôi 
cấy
1 18/M Thóc polydex 2 dnt 0,2 3,5x4,2 2 0 3 10 TKgr(-) _
2 61/F Lá cây KS 3 0,1 0,3 5,2x4,3 2 0 4 10 TKgr(-) TKMX
3 83/F Không KS 10 Bbt Bbt 4,8x5,1 1 0 2 8 TKgr(-) _
4 33/M Không KS 7 0,2 0,6 2,2x3,5 1 0 2 3 Tkgr(-)
Ckgr(+)
 _
5 35/M Thóc KS 2 Đnt 2m 0,3 5,3x6,2 2 0 3 8 Tkgr(-) _
6 65/F Không KS 30 Đnt 5m Đnt4m 4,5x5,3 2 2 3 10 Ckgr(+) _
Kết quả bảng trên cho thấy, đa số BN (4/6) đều có tiền sử chấn thương và 6/6 BN đều dùng thuốc trước 
khi đến viện. 6/6 BN đều có kết quả soi nhuộm (+), nhưng chỉ có 1/6 BN có kết quả nuôi cấy (+): trực khuẩn 
mủ xanh. Kết quả điều trị cho thấy giác mạc bắt đầu biểu mô hóa từ 2 - 4 ngày, thời gian biểu mô hóa hoàn 
toàn dao động từ 8 - 10 ngày.
BN ở mức độ nặng được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3. Kết quả khám và điều trị nhóm BN ở mức độ nặng
TT Tuổi/
Giới
Tiền 
sử 
chấn 
thương
Tiền
sử
dùng 
thuốc
Thời 
gian 
mắc 
bệnh
(ngày)
TL
vào
TL
ra
Kích
thước
ổ loét
(mm)
Thâm
nhiễm
Mủ
TP
Thời 
gian
GMBĐ 
biểu mô 
hóa
(ngày)
Thời gian 
GMBMH 
hoàn toàn
(ngày)
Soi 
nhuộm
Nuôi 
cấy
1 25/F Thóc KS 3 Bbt Bbt 6,2x7,5 2 0 5 14 TKgr(-) _
2 15/M Que KS 5 Bbt Bbt 5,4x6,2 2 0 6 7 Tkgr (+)
Ckgr
 _
3 30/M Không KS 30 Đnt2m
Đnt
5m - 3 2,5 5 18 TKgr(-)
TK
MX
15Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Phân tích kết quả ở bảng trên, chúng tôi thấy 
tất cả 7 BN đều ở độ tuổi lao động, trẻ, đều có tiền 
sử chấn thương và đã dùng kháng sinh trước khi 
đến viện. 7/7 BN có kết quả soi nhuộm (+), 5/7 BN 
có kết quả nuôi cấy (+) và đều là trực khuẩn mủ 
xanh. Kết quả điều trị cho thấy, thời gian giác mạc 
bắt đầu biểu mô hóa từ 4 - 6 ngày và thời gian giác 
mạc biểu mô hóa hoàn toàn > 7 ngày, trong đó có 
một trường hợp phải phối hợp khâu cò mi và một 
trường hợp phải phối hợp ghép màng ối.
Để phân tích kĩ hơn về diễn biến và thời gian 
khỏi bệnh, chúng tôi đã phân tích kết quả về diễn 
biến của thâm nhiễm và quá trình giác mạc biểu mô 
hóa. Kết quả được thể hiện ở bảng sau:
TT Tuổi/
Giới
Tiền 
sử 
chấn 
thương
Tiền
sử
dùng 
thuốc
Thời 
gian 
mắc 
bệnh
(ngày)
TL
vào
TL
ra
Kích
thước
ổ loét
(mm)
Thâm
nhiễm
Mủ
TP
Thời 
gian
GMBĐ 
biểu mô 
hóa
(ngày)
Thời gian 
GMBMH 
hoàn toàn
(ngày)
Soi 
nhuộm
Nuôi 
cấy
4 38/M Bụi KS 30 Đnt3m
Đnt
3m 5,8x6,5 3 1,5 5 20 TKgr(-)
TK
MX
5 35/M Cành
Cây
KS 30 Đnt1m
Đnt
1m 6,2x7,5 3 2,2 5 25 TKgr(-)
TK
MX
6 36/M Thóc KS 14 ST
(+)
 - 6,8x7,2 3 1,5 6 * TKgr(-) TK
MX
7 20/M Bụi KS 30 Đnt1m
Đnt
1m 5,5x4,8 3 1,5 4 18 TKgr(-)
TK
MX
Bảng 4. Thời gian thâm nhiễm rút và giác mạc biểu mô hóa ở nhóm BN nhẹ
BN
Thời gian thâm 
nhiễm bắt đầu rút 
(ngày)
Thời gian thâm 
nhiễm rút 
hoàn toàn 
(ngày)
Thời gian giác mạc 
bắt đầu biểu 
mô hóa 
(ngày)
Thời gian giác mạc 
biểu mô hóa 
hoàn toàn 
(ngày)
1 2 7 2 7
2 2 6 2 5
3 2 12 2 12
4 2 6 2 5
5 4 12 4 12
6 2 10 2 4
7 2 2 2 5
8 2 10 2 5
Bảng trên cho thấy thời gian thâm nhiễm rút và giác mạc biểu mô hóa là gần như nhau.
16 Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Kết quả bảng 6 cho thấy, thời gian thâm nhiễm 
bắt đầu rút và giác mạc bắt đầu biểu mô hóa là 4 – 8 
ngày, thời gian giác mạc biểu mô hóa hoàn toàn là 
5 – 20 ngày, trong khi đó thời gian thâm nhiễm rút 
hoàn toàn đều > 19 ngày. Có 2 trường hợp phải điều 
trị phối hợp: khâu cò mi và ghép màng ối.
IV. BÀN LUẬN
VLGM gặp ở cả hai giới, đa số đều ở lứa tuổi 
lao động nên có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, 
công việc của bản thân người bệnh, gia đình và xã 
hội. Đây là đặc điểm đã được các nghiên cứu khác 
khẳng định (1).
Ở tất cả 3 nhóm BN nghiên cứu, chúng tôi 
thấy đa số có tiền sử chấn thương và đều dùng 
kháng sinh trước khi đến viện. Theo y văn, bình 
thường giác mạc có hệ thống bảo vệ tự nhiên nên vi 
sinh vật không có khả năng xâm nhập và gây bệnh. 
Khi các yếu tố bảo vệ này yếu đi, VLGM rất dễ phát 
triển. Theo nghiên cứu của các nhà nhãn khoa tại 
New Zealand thì 65,4% BN VLGM có các yếu tố 
nguy cơ thường gặp nhất là chấn thương, tiếp đó là 
Bảng 5. Thời gian thâm nhiễm rút và giác mạc biểu mô hóa ở nhóm BN mức độ vừa
 Bệnh nhân
Thời gian thâm 
nhiễm bắt đầu rút 
(ngày)
Thời gian thâm 
nhiễm rút hoàn 
toàn (ngày)
Thời gian giác mạc 
bắt đầu biểu mô 
hóa (ngày)
Thời gian giác mạc 
biểu mô hóa hoàn 
toàn (ngày)
1 3 15 3 10
2 5 15 4 10
3 3 10 2 8
4 2 7 2 3
5 3 15 3 8
6 3 18 3 10
 Kết quả bảng trên cho thấy thời gian thâm nhiễm bắt đầu rút và giác mạc bắt đầu biểu mô hóa từ 2 
- 5 ngày. Thời gian thâm nhiễm rút hoàn toàn dài hơn (7 - 18 ngày). Thời gian giác mạc biểu mô hóa hoàn 
toàn (3 – 10 ngày).
Bảng 6. Thời gian thâm nhiễm rút và giác mạc biểu mô hóa ở nhóm BN mức độ nặng
Bệnh nhân
Thời gian thâm 
nhiễm bắt đầu rút 
(ngày)
Thời gian thâm 
nhiễm rút 
hoàn toàn 
(ngày)
Thời gian giác mạc 
bắt đầu biểu 
mô hóa 
(ngày)
Thời gian giác mạc 
biểu mô hóa 
hoàn toàn 
(ngày)
1 5 19 5 14
2 8 20 6 7
3 5 25 5 18
4 5 25 5 20
5 7 30 5 25+ cò mi
6 6 30 6 AMT
7 4 25 2 5
17Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
sử dụng kính tiếp xúc, thuốc có cocticosteroid, các 
phẫu thuật tại mắt, một số bệnh lí mắt,  (5).
21 BN trong nghiên cứu được làm xét 
nghiệm soi nhuộm và nuôi cấy đều có kết quả soi 
nhuộm (+) với một loại VK (cầu khuẩn hoặc trực 
khuẩn gram dương/âm) hoặc phối hợp cả 2 VK. 
Kết quả nuôi cấy (+) gặp ở 6/21 trường hợp và 
đều là trực khuẩn mủ xanh. Kết quả này có thấp 
hơn kết quả trong nghiên cứu của H. N. Trọng 
(tỉ lệ TKMX là 64,3%) (tdt1). Ở các trường hợp 
còn lại (15/21 BN) thì mặc dù kết quả soi nhuộm 
(+) nhưng kết quả nuôi cấy (-). Điều này có thể 
lí giải là: có thể do BN đã tự dùng nhiều thuốc 
trước khi đến viện, cũng có thể do cách lấy bệnh 
phẩm hoặc do đặc tính của vi khuẩn đã thay đổi 
và vì vậy đòi hỏi phải có một môi trường nuôi 
cấy phù hợp hơn.
Tất cả 21 BN đều được điều trị theo cùng 
một phác đồ: giai đoạn nhiễm trùng BN được tra 
Vigamox 0,5% x 15 - 20 phút/lần và Atropin 1% 
x 2 lần/ngày. Khi quá trình nhiễm trùng giảm, BN 
được tra bổ xung thuốc tăng cường dinh dưỡng 
giúp biểu mô giác mạc tái tạo nhanh. 21 BN đều 
khỏi và giác mạc làm sẹo sau 4 – 25 ngày điều trị 
tùy mức độ bệnh. Chỉ có 2 BN có số ngày điều trị 
dài hơn và phải điều trị bổ sung bằng khâu cò mi 
(1 BN) và ghép màng ối (1 BN). Qua đây, chúng 
tôi muốn nhấn mạnh rằng để điều trị VLGM nhiễm 
trùng nói chung và do VK nói riêng ở giai đoạn đầu 
khi quá trình nhiễm trùng đang phát triển mạnh thì 
nên chỉ dùng thuốc kháng sinh đặc hiệu tra tại chỗ 
với cách tra đúng phương pháp, không nên quá lạm 
dụng thuốc (dùng nhiều loại thuốc cùng một lúc) 
khi không cần thiết. Trong nghiên cứu, chúng tôi 
hoàn toàn không dùng kháng sinh đường uống cho 
cả 3 nhóm BN và thấy điều này cũng không ảnh 
hưởng đến kết quả điều trị. Như vậy có thể đưa ra 
nhận xét rằng, đối với những bệnh bề mặt nhãn cầu 
chỉ nên dùng thuốc tra tại chỗ, thuốc dùng toàn thân 
chỉ dùng khi có nguy cơ viêm nội nhãn.
Bàn luận về thời gian giác mạc biểu mô hóa 
hoàn toàn và thâm nhiễm rút hoàn toàn (bảng 4, 
5, 6), chúng tôi nhận thấy thời gian thâm nhiễm 
rút hoàn toàn dài hơn thời gian giác mạc biểu mô 
hóa hoàn toàn ở cả 3 mức độ bệnh. Điều này nói 
lên việc xác định VLGM khỏi hoàn toàn cần phải 
dựa vào sự rút lui của thâm nhiễm giác mạc. Như 
vậy, cần phải tiếp tục theo dõi BN sát sao sau khi 
giác mạc đã biểu mô hóa cho đến khi thâm nhiễm 
rút hoàn toàn để tránh trường hợp quá trình nhiễm 
trùng có thể phát triển trở lại.
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đánh giá, phân tích bệnh cảnh 
lâm sàng và kết quả điều trị 21 BN VLGM do VK 
bằng Vigamox 0,5%, chúng tôi có thể rút ra một số 
kết luận sau:
- Vigamox 0,5% có hiệu quả trong điều trị 
VLGM do VK gram (+) và gram (-). Không thấy 
tác dụng phụ của thuốc.
- Thời gian thâm nhiễm rút hoàn toàn dài hơn 
thời gian giác mạc biểu mô hóa hoàn toàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PHẠM NGỌC ĐÔNG, HOÀNG THỊ 
MINH CHÂU: “Đặc điểm viêm loét giác mạc 
nhiễm trùng tại Bệnh viện Mắt Trung ương”, Tạp 
chí NCYH, Vol. 50, N4, 2007, tr. 92-97.
2. TRẦN THU HƯƠNG: “Nhận xét tình hình 
viêm loét giác mạc nhiễm trùng tại Bệnh viện Mắt 
Trung ương năm 2008”, Khóa luận tốt nghiệp bác 
sỹ Y khoa, 2009, Đại học Y Hà Nội.
3. M. SRINIVASAN, CHRISTINE A. GON-
ZALES, CELINE GEORGE, VICKY CEVALLOS, 
JEENA M. MASACARENHAS, B. ASOKAN, 
JOHN WILKINS, GILBERT SMOLIN, JOHN P. 
18 Nhãn khoa Việt Nam (Số 20 - 2010)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
WHITCHER: “Epidemiology and aetilogical diagno-
sis of corneal ulceration in Mandurai”, south India, Br. 
J. Ophthalmol.; 1997; 81: 965-971.
4. FRÉDÉRIC SCHAEFER, OLIVIER 
BRUTTIN, LÉONIDAS ZOGRAFOS; YAN 
GUEX-CROSIER: “Bacterial keratitis: a pro-
spective clinical and microbiological study”; 
.J.Ophthalmol., 2001, 85: 842-847.
5. T. WRONG, S. ORMONDE, G. GAM-
BLE, C.N.J. MCGHEE: “Severe infective kerati-
tis leading to hospital admission in New Zealand”, 
Br.J.Ophthalmol., 2003, 87: 1103-1108.
6. ANDREW JW HUANG, PONGMAS 
WICHIENSIN, MEI - CHUAN YANG: “Bacterial 
keratitis In Corrnea”, Elsevier Mosby, 2005, 
1005 – 1034.
SUMMARY
EVALUATION OF EFFECTIVENESS OF MOXIFLOXACIN (VIGAMOX 0.5%) IN TREATMENT OF 
BACTERIAL CORNEAL ULCER
Objective: To evaluate the efficacy of topical Moxifloxacin (Vigamox 0.5%) in treatment of bacterial 
corneal ulcer. 
Methods: 21 patients age 18 - 83 were diagnosed bacterial corneal ulcer and divided into 3 groups: 
group 1: 8 patients at mild level; group 2: 6 patients at moderate level and group 3: 7 patients with serious 
ulcers. All patients received moxifloxacin 0.5% (ophthalmic solution) every 15 – 20 minutes and Atropin 
1% solution until the infection decreases. Then, the administration was reduced to 4 -6 times per day and 
solution Sanlein added. The patient were followed up every 3 days until the signs for disappeared. 
Results: Corneal scrapings were possitive in 100% of patients: there were gram (+) or gram (-). All 
of them were treated successfully. The time of total infiltration reduction reduction is longer than that of 
corneal epithelization. 
Conclusion: Vigamox 0.5% is good for the treatment of bacterial corneal ulcer. Without any side effect.R

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_hieu_qua_cua_moxifloxacin_vigamox_05_trong_dieu_t.pdf