Nghiên cứu thành phần hóa học cây cỏ mực (Eclipta Prostrata L., Asteraceae)
Abstract. Tổng quan về Eclipta prostrata L; thành phần hóa học của Eclipta
prostrata cũng như hoạt tính sinh học của Eclipta prostrata và các hợp chất thành
phần. Nghiên cứu quy trình chiết các hợp chất hữu cơ từ phần trên mặt đất cây Cỏ
mực (Eclipta prostrata L., Asteraceae). Phân tích sắc ký lớp mỏng các phần chiết để
định tính các phần chiết và xác định các hệ dung môi sắc ký điều chế thích hợp với
chất hấp phụ silica gel. Phân tách sắc ký và phân lập các hợp chất thành phần chính
đặc biệt là các hợp chất phân cực bằng các phương pháp sắc ký điều chế. Xác định
cấu trúc hóa học của các hợp chất được phân lập bằng phương pháp phổ. Đưa ra kết
quả thực nghiệm: điều chế các phần chiết từ cây Cỏ mực; phân tích sắc ký lớp mỏng
các phần chiết EA; phân tích sắc ký lớp mỏng các phần chiết EP; phân tách sắc ký
các phần chiết EA; hằng số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất được phân lập từ
EA; phân tách sắc ký các phần chiết EP; hằng số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp
chất được phân lập từ EP
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thành phần hóa học cây cỏ mực (Eclipta Prostrata L., Asteraceae)
Nghiên cứu thành phần hóa học cây cỏ mực (Eclipta Prostrata L., Asteraceae) Nguyễn Thị Thơi Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Khoa Hóa học Luận văn Thạc sĩ ngành: Hóa hữu cơ; Mã số: 60 44 27 Người hướng dẫn: PGS.TS. Phan Minh Giang Năm bảo vệ: 2011 Abstract. Tổng quan về Eclipta prostrata L; thành phần hóa học của Eclipta prostrata cũng như hoạt tính sinh học của Eclipta prostrata và các hợp chất thành phần. Nghiên cứu quy trình chiết các hợp chất hữu cơ từ phần trên mặt đất cây Cỏ mực (Eclipta prostrata L., Asteraceae). Phân tích sắc ký lớp mỏng các phần chiết để định tính các phần chiết và xác định các hệ dung môi sắc ký điều chế thích hợp với chất hấp phụ silica gel. Phân tách sắc ký và phân lập các hợp chất thành phần chính đặc biệt là các hợp chất phân cực bằng các phương pháp sắc ký điều chế. Xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất được phân lập bằng phương pháp phổ. Đưa ra kết quả thực nghiệm: điều chế các phần chiết từ cây Cỏ mực; phân tích sắc ký lớp mỏng các phần chiết EA; phân tích sắc ký lớp mỏng các phần chiết EP; phân tách sắc ký các phần chiết EA; hằng số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất được phân lập từ EA; phân tách sắc ký các phần chiết EP; hằng số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất được phân lập từ EP Keywords. Hóa hữu cơ; Hóa học; Cây cỏ mực; Thành phần hóa học Content Trong các nghiên cứu y dược hiện đại các hợp chất thiên nhiên từ các cây thuốc bao gồm các flavonoit, tecpenoit và ancoloit tiếp tục là nguồn cung cấp các hợp chất có tiềm năng cho các thử nghiệm hoạt tính sinh học. Eclipta prostrata L., syn. Eclipta alba L. (Asteraceae) là cây thuốc dùng phổ biến trong Y học cổ truyền Việt Nam và một số nước trên thế giới. Các nghiên cứu hóa học các loài Eclipta prostrata của Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ đã xác định được các nhóm hợp chất tritecpen (oleanan và taraxastan) glycozit, các flavonoit, các coumarin, các ancaloit-steroit và các thiophen polyacetylen trong các bộ phận của cây Eclipta prostrata. Dựa trên các kiến thức dược lý học dân tộc và các hoạt tính sinh học của các phần chiết nhiều hoạt chất có tác dụng chống ung thư, kháng viêm và chống HIV của các chất được phân lập từ Eclipta prostrata đã được phát hiện. Sự đa dạng về các nhóm cấu trúc lý thú của Eclipta prostrata, sự tương quan của các cấu trúc này với nhiều hoạt tính sinh học quan trọng và ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc đặt cơ sở khoa học cho việc sử dụng cây thuốc Cỏ mực (Eclipta prostrata L., Asteraceae) của Việt Nam đã thúc đẩy chúng tôi tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống về hóa thực vật của cây Cỏ mực. Luận văn này đặt mục tiêu nghiên cứu phân lập sắc ký và xác định cấu trúc các thành phần hóa học đặc biệt là các hợp chất phân cực từ phần trên mặt đất của cây Cỏ mực của Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu theo hướng này sẽ là các bước đầu tiên trong các chương trình hiện đại hóa Y học cổ truyền Việt Nam. Các hợp chất phân cực chưa được xác định trong một số nghiên cứu trước đã được phân lập trong nghiên cứu này sử dụng các phương pháp sắc ký hiện đại. Họ Cúc (danh pháp khoa học: Asteraceae hay Compositae), còn gọi là họ Hướng dương, họ Cúc tây, là một họ thực vật có hoa hai lá mầm. Họ Asteraceae phân bố rộng khắp thế giới, nhưng phổ biến nhất tại các khu vực ôn đới và miền núi nhiệt đới. Các chi trong họ này được chia thành 13 tông. Chỉ có một trong số 13 tông này là Lactuceae, có thể là có đủ khác biệt để có thể coi là một phân họ (phân họ Cichorioideae), các tông còn lại, phần lớn là chồng ghép lẫn nhau, được đưa vào phân họ Asteroideae. Các loài thuộc về họ Cúc có các đặc trưng sau: cụm hoa dạng đầu, bao phấn hữu tính, tức là với các nhị hoa kết hợp lại với nhau tại các gờ của chúng bởi các bao phấn, tạo thành ống, bầu nhụy với sự phân bổ cơ bản của các noãn hoa, các noãn hoa trên một bầu nhụy, mào lông (chùm lông trên quả), quả là loại quả bế (tạo thành từ một lá noãn và không nẻ ra khi chín). Eclipta prostrata L. (syn. Eclipta alba L.), họ Cúc (Asteraceae), có tên thông dụng ở Việt Nam là Cỏ mực, Cỏ nhọ nồi, Nhọ nồi, hạn liên thảo, mặc hạn liên, kim lăng thảo. Cỏ mực thuộc loại cây thân thảo hằng niên, cao từ 10-60 cm, mọc bò hoặc có khi gần như thẳng đứng, có lông trắng, cứng, thưa. Thân màu lục hay màu nâu nhạt hay hơi đỏ tía. Lá mọc đối, phiến lá dài và hẹp cỡ 2,5 1,2 cm. Mép lá nguyên hay có răng cưa cạn, hai mặt đều có lông. Hoa trắng tập hợp thành đầu ở nách lá hay đầu cành, các hoa cái hình lưỡi ở ngoài, các hoa lưỡng tính hình ống ở giữa. Qủa bế dẹt có 3 cạnh, có cánh dài 3 mm. Vùng phân bố của cây Cỏ mực trên thế giới khá rộng vì nó là loài cây nhiệt đới, mọc hoang ở chỗ ẩm mát. Cỏ mực được dùng để điều trị các bệnh như: nôn ra máu từ dạ dày, chảy máu cam, đái ra máu, xuất huyết tử cung, viêm gan mãn tính, viêm ruột, lỵ, trẻ em suy dinh dưỡng, ù tai, rụng tóc do đẻ non, suy nhược thần kinh, nấm da, ezecma, vết loét, bị thương, chảy máu, viêm da. Ngoài ra Cỏ mực còn được dùng làm thuốc sát trùng trong bệnh ho lao, viêm cổ họng, ban chẩn, lở ngứa, đau mắt, sưng răng, đau dạ dày, bệnh nấm ngoài da gây rụng tóc. Cách dùng: dùng tươi hay giã lấy nước uống, hoặc sao cháy đen với liều 15-30 g sắc uống. Dùng riêng hoặc phối hợp với ngó sen, lá trắc bá. Trong trường hợp sát trùng cũng dùng sắc uống hoặc giã tươi lấy nước uống, bã đắp. Có thể dùng tươi xoa tay chữa rát do vôi, chữa nấm ngoài da và nhuộm tóc có màu tím đen. Viện chống lao Trung ương và Bệnh viện lao K71 đã pha chế thành thuốc tiêm cầm máu, tiêm bắp thịt, mỗi ngày 1-3 ống (2 ml). Có nơi đã sản xuất thành công dạng cao nén thành viên dùng cầm máu. β-Sitosterol (chất I) Hợp chất I được phân lập dưới dạng tinh thể hình kim không màu, Rf = 0,38 (TLC, silica gel, n-hexan-axeton 6:1, v/v), hiện màu tím với thuốc thử vanilin/H2SO4 đặc 1%. Chất I được nhận dạng là β-sitosterol trên cơ sở so sánh TLC và co-TLC với chất chuẩn β-sitosterol. Metyl gallat (chất II) Hợp chất II được phân lập dưới dạng tinh thể hình kim màu trắng, Rf = 0,70 (TLC, silica gel, n-hexan-etyl axetat-axit fomic 10:10:1, v/v/v), vệt chất hiện màu vàng với thuốc thử vanillin/H2SO4 đặc 1%, hiện màu xanh thẫm với thuốc thử FeCl3 5%. Phổ 1H-NMR (CD3OD) của II cho thấy sự có mặt của hai nhóm tín hiệu cộng hưởng từ proton, trong đó tín hiệu ở δH 3,83 (3H, s) của 3 proton của một nhóm metoxy và tín hiệu ở δH 7,06 (2H, s) của 2 proton vòng thơm tương đương. Phổ 13C-NMR và DEPT (CD3OD) của II chỉ ra sự có mặt của các nhóm sau: một nhóm cacbonyl este ở δC 169,1 (s), 4 cacbon sp 2 (4C) của một vòng benzen thế 4 lần trong đó có có 3 cacbon liên kết với oxi [δC 146,5 (s), 139,8 (2 s) và 121,5 (s)] và 2 nhóm metin sp 2 (2CH) của vòng benzen thế [δC 110,1 (2 d)] và một nhóm metoxy ở δC 52,3 (q). Các dữ kiện phổ NMR cho thấy II có cấu trúc của metyl gallat phù hợp với các dữ kiện phổ của chất chuẩn metyl gallat. Eclalbasaponin I (chất III) Hợp chất III được phân lập dưới dạng bột vô định hình màu trắng, Rf = 0,66 (TLC, silica gel, CH2Cl2-MeOH 2:1, v/v), vệt chất hiện màu đen với thuốc thử vanillin/H2SO4 đặc 1%. Phổ ESI-MS (+) của III cho pic giả ion phân tử ở m/z 819,2 ([M + Na]+) cho giả thiết về một công thức phân tử C42H68O14 của chất III. Phổ 1H-NMR (CD3OD) của III cho thấy sự có mặt của 7 nhóm metyl bậc ba dưới dạng singlet (7s) ở δH 0,80, 0,86, 0,89, 0,97, 0,98, 1,07 và 1,38; một nhóm oxymetin ở δH 3,0 (1H, dd, J = 14,5 Hz, 4,0 Hz), một proton olefinic của một nối đôi thế ba lần ở δH 5,33 (1H, t, J = 3,0 Hz) và hai proton anomeric của 2 nhóm glucopyranosyl ở δH 4,34 (1H, d, J = 7,5 Hz) và 5,36 (1H, d, J = 8,0 Hz). Phổ 13C-NMR và DEPT (CD3OD) của III bao gồm 42 cacbon trong số đó có 30 cacbon của một khung tritecpenoit và 12 cacbon của 2 nhóm glucopyranosyl. Tritecpenoit sapogenin chứa 7 nhóm metyl (7q) ở δC 33,3, 28,6, 27,3, 25,1, 17,8, 17,0 và 16,1; 9 nhóm metylen (9t) ở δC 47,8, 40,2, 36,4, 36,3, 34,2, 31,6, 27,1, 24,5 và 19,3; 5 nhóm metin (5d) ở δC 90,9, 74,0, 57,2, 48,2 và 42,2 trong số đó có 2 nhóm oxymetin (δC 90,9 và 74,0); 6 C bậc bốn (6s) 50,1, 42,7, 40,9, 39,9, 37,9 và 31,3; một nối đôi thế 3 lần ở δC 123,7 (d) và 144,6 (s) và một nhóm cacbonyl este ở δC 177,3 (s). Các tín hiệu cộng hưởng từ cacbon 13 của hai nhóm glucopyranosyl xuất hiện ở δC 106,7 (d), 78,7 (d), 78,2 (d), 75,7 (d), 71,7 (d) và 62,8 (t) và 95,8 (d), 78,3 (d), 77,7 (d), 74,9 (d), 71,2 (d) và 62,5 (t). Các cấu hình của 2 nhóm glucopyranosyl được xác định dựa trên hằng số tương tác (J = 7,5 Hz và 8,0 Hz) của các proton anomeric. Các dữ kiện phổ NMR của chất III xác định một cấu trúc glycozit của một axit olean-12-en-28-oic. Các nhóm -D-glucopyranosyl được giả thiết là liên kết với C-3 và C-28 dựa vào các giá trị δC-3 và δC-28 và hóa lập thể H-3 đã được xác định nhờ hằng số tương tác J = 14,5 Hz của H-3. Các dữ kiện phổ NMR của chất III hoàn toàn phù hợp với cấu trúc của saponin tritecpenoit eclalbasaponin I [12]. Hợp chất này đã được phân lập lần đầu tiên từ cây Eclipta alba của Nhật Bản. Eclalbasaponin II (chất IV) Hợp chất IV được phân lập dưới dạng bột vô định hình màu trắng, Rf = 0,65 (TLC, silica gel Merck, hệ dung môi EtOAc-H2O-HCOOH 85:15:10, v/v/v), vệt chất hiện màu tím với thuốc thử vanillin/H2SO4 đặc Phổ ESI-MS (+) của IV cho các pic giả ion phân tử ở m/z 635,3 ([M + H]+) và 657,0 ([M + Na] + ) cho giả thiết về một công thức phân tử C36H58O9 của IV. Phổ 1H-NMR (CD3OD) của IV cho thấy sự có mặt của 7 nhóm metyl bậc ba dưới dạng singlet (7s) ở δH 0,80, 0,87, 0,90, 0,98, 0,99, 1,08 và 1,39; 2 nhóm oxymetin ở δH 3,03 (1H, d, J = 14,5 Hz, 4,0 Hz) và 4,56 (1H, s br); một proton olefinic của một nối đôi thế ba lần ở δH 5,32 (1H, t, J = 3,5 Hz) và một proton anomeric của một nhóm glucopyranosyl ở δH 4,34 (1H, d, J = 7,5 Hz). Phổ 13C-NMR và DEPT (CD3OD) của IV bao gồm 36 cacbon trong số đó có 30 cacbon của một khung tritecpenoit và 6 cacbon của một nhóm glucopyranosyl. Tritecpenoit sapogenin chứa 7 nhóm metyl (7q) ở δC 33,4, 28,6, 27,3, 24,9, 17,8, 17,0 và 16,1; 9 nhóm metylen (9t) ở δC 47,7, 39,9, 36,6, 36,3, 34,3, 32,6, 27,1, 24,5 và 19,3; 5 nhóm metin (5d) ở δC 90,8, 75,3, 57,2, 48,2 và 42,1 trong số đó có 2 nhóm oxymetin (δC 90,8 và 75,3); 6 C bậc bốn (6s) ở δC 49,8, 42,7, 40,7, 40,2, 37,9 và 31,4; một nối đôi thế 3 lần ở δC 123,5 (d) và 145,1 (s) và một nhóm cacbonyl axit cacboxylic ở δC 181,5 (s). Các tín hiệu cộng hưởng từ cacbon 13 của nhóm glucopyranosyl xuất hiện ở δC 106,7 (d), 78,3 (d), 77,7 (d), 75,7 (d), 71,7 (d) và 62,9 (t). Cấu hình của nhóm D-glucopyranosyl được xác định dựa trên hằng số tương tác (J = 7,5 Hz) của proton anomeric. Sự phù hợp của các dữ kiện phổ NMR thuộc khung tritecpenoit của chất IV với của eclalbasaponin I (III) và sự xuất hiện của một nhóm axit cacboxylic (δC 181,5) cho thấy nhóm glucopyranosyl duy nhất của IV phải ở vị trí C-3. Trên cơ sở các phân tích độ chuyển dịch hóa học và hằng số tương tác (J = 14,5 Hz và 4,0 Hz) hóa lập thể ở C-3 và C-16 của hợp chất này phù hợp với của chất eclalbasaponin I. Các dữ kiện phổ này hoàn toàn phù hợp với cấu trúc của saponin tritecpenoit eclalbasaponin II [12]. Hợp chất này đã được phân lập lần đầu tiên từ cây Eclipta alba của Nhật Bản. Chất này cũng được thông báo là có trong cây Cỏ mực trồng ở miền Nam [2]. Norwedelolactone (chất V) Hợp chất V nhận được dưới dạng bột vô định hình màu trắng, Rf = 0,21 (TLC, silica gel Merck, hệ dung môi EtOAc-H2O-HCOOH 85:15:10, v/v/v), vệt chất hiện màu vàng với thuốc thử vanillin/H2SO4 đặc 1%. Phổ 1H-NMR (CD3OD) của V cho thấy sự xuất hiện các tín hiệu cộng hưởng của 2 proton vòng thơm tương tác octo (J = 2,0 Hz) ở δH 6,88 (1H, d, J = 2,0 Hz) và 6,97 (1H, d, J = 2,0 Hz) và 2 proton vòng thơm ở vị trí para ở δH 7,18 (1H, s) và 7,36 (1H, s). Phổ 13C-NMR và DEPT (CD3OD) của V cho thấy có 15 tín hiệu cacbon sp 2 của một chất coumestan với các tín hiệu của bốn nhóm metin (4d) ở δC 99,6, 101,8, 105,2 và 106,1 phù hợp với các dữ kiện phổ 1H-NMR; 12 tín hiệu cộng hưởng còn lại là của các tín hiệu cacbon singlet (12s) ở δC 100,9, 104,6, 115,6, 145,5, 147,0, 151,4, 155,8, 155,9, 156,9 và 160,6 và nhóm cacbonyl lacton ở δC 160,7 (s). Các dữ kiện phổ NMR khi được so sánh với các dữ kiện phổ của một số chất benzofuran [14] đã xác định được cấu trúc 1,3,8,9-tetrahydroxycoumestan (norwedelolacton) của chất V. Các dữ kiện phổ NMR của V hoàn toàn phù hợp với tài liệu đã công bố cho norwedelolacton [15]. Hesperidin (Hespentin 7-O-rutinosid) (chất VI) Hesperidin được phân lập dưới dạng bột vô định hình màu trắng Rf = 0,33 (TLC, silica gel Merck, hệ dung môi EtOAc-H2O-HCOOH 85:15:10), vệt chất hiện màu đen với thuốc thử vanillin/H2SO4 đặc 1%. Phổ 1H-NMR (DMSO-d6) của chất VI cho các tín hiệu của 2 proton tương tác octo của vòng thơm ở δH 6,13 (1H, d, J = 2,0 Hz) và 6,14 (1H, d, J = 2,0 Hz), một vòng benzen thế ba lần với 3 tín hiệu proton cộng hưởng ở δH 6,90-6,96 (3H, m), và một nhóm oxymetin ở δH 5,50 (1H, d, J = 12,0 Hz, 3,0 Hz) liên kết với một nhóm metylen ở vị trí của một nhóm cacbonyl ở δH 2,78 (1H, dd, J = 17,0 Hz, 3,0 Hz) và 3,12-3,83 (1H, m). Các tín hiệu cộng hưởng từ proton này xác định một cấu trúc flavanon cho chất VI. Các tín hiệu khác thuộc về hai gốc đường với các proton anomeric ở δH 4,53 (1H, s) và 4,97 (1H, d, J = 7,5 Hz) và một nhóm metoxy ở δH 3,78 (3H, s). Phổ 13C-NMR (DMSO-d6) của chất VI khẳng định cấu trúc flavanon với các tín hiệu cộng hưởng từ cacbon 13 đáng chú ý nhất của vòng A thế đioxy 5,7 [δC 95,6 (d, C-8), 96,5 (d, C-6), 103,4 (d, C-10), 162,6 (s, C-9), 163,1 (s, C-5) và 165,2 (s, C-7)], vòng B thế đioxi 3,4 [δC 112,2 (d, C-5 ), 114,2 (d, C-2 ), 117,9 (d, C-6 ), 131,0 (s, C-1 ), 146,5 (s, C-3 ) và 148,0 (s, C-4 )], và vòng C của một flavanon với nhóm –CH2 CHO [δC 78,4 (d, C-2) và 42,1 (t, C-3)] và nhóm cacbonyl C-4 [δC 196,9 (s, C-4)]. Độ chuyển dịch hóa học (δC 196,9) của nhóm cacbonyl cho thấy nhóm này liên kết với nhóm 5-OH qua một liên kết hiđro, trong trường hợp không có liên kết hiđro δC-4 < 180. Các tín hiệu cacbon 13 còn lại phù hợp với của một nhóm glucopyranosyl [δC 66,1 (t, C-6), 68,3 (d, C-5), 70,8 (d, C-4), 75,6 (d, C-3), 76,3 (d, C-5), 99,6 (d, C-1)] và một nhóm rhamnopyranosyl [δC 17,8 (q, C-6 ), 70,3 (d, C- 2 ), 70,7 (d, C-3 ), 72,1 (d, C-4 ) và 100,6 (d, C-1 )]. Nhóm rhamnopyranosyl liên kết với nhóm glucopyranosyl ở vị trí C-6 gây ra sự chuyển dịch về phía trường thấp của C-6 (δC 66,1). Các cấu hình cho nhóm rhamnopyranosyl và cho glucopyranosyl đã được xác định từ hằng số tương tác của các proton anomeric (J tương ứng là br s và 7,5 Hz). Vị trí của các nhóm rutinozit (-L-rhmanopyranosyl(1 6)--D-glucopyranosyl) và metoxi [δC 55,8 (q)] đã được xác định là ở C-7 và C-4 qua sự so sánh các dữ kiện phổ NMR với các hợp chất flavanon glycozit. Do đó, cấu trúc của chất đã được xác định là hesperetin 7-O-rutinozit (hesperidin) [9]. Các dữ kiện phổ 13C-NMR còn chứng minh sự tồn tại của đồng phân epime 2R của hesperidin (epime 2S). Các epime này trong thực tế không khác biết nhiều về các dữ kiện phổ 1 H-NMR [9], tuy nhiên sự phân tích kỹ lưỡng các tín hiệu phổ cacbon 13 cho thấy một số tín hiệu xuất hiện ở dạng kép (doublet) cho phép nhận dạng sự tồn tại của epime 2R đặc biệt là các tín hiệu cộng hưởng ở vòng B [δC 112,1 (d, C-5 ), 114,1 (d, C-2 ), 117,8 (d, C-6 ), 130,96 (s, C-1 ), 146,48 (C-3 ) và 147,98 (s, C-4 )], các tín hiệu ở vòng A [δC 162,5 (s, C-9), 163,0 (s, C-5) và 165,1 (s, C-7)] và một số tín hiệu của các nhóm đường [δC 66,07 (t, C-6), 69,7 (d, C-2 ), 73,0 (d, C-4), 99,5 (d, C-1)]. Sự xuất hiện của các chất chuyển hóa thứ cấp trong thiên nhiên thường được cho là theo các con đường đặc thù về lập thể vì sự tham gia của các enzym trong các bước của con đường sinh tổng hợp. Tuy nhiên các đồng phân lập thể vẫn có thể cùng xuất hiện như ví dụ về các đồng phân epimeric 2R và 2S của các flavanon do là sản phẩm phụ của các qua trình gây bởi các enzym nhất định và cần có các phương pháp để nhận biết các chất này.Trong trường hợp của hesperidin (dạng 2S) và epime 2R F. Maltese sử dụng phổ 1H-NMR để nhận biết giữa 2 đồng phân epime này [9]. Tuy nhiên, các giá trị δH chỉ phân biệt nhau ở đơn vị 0,01 ppm và không phân giải tốt trong trường hợp các chất của Luận văn này. Phổ 13C-NMR đã được xác định trong trường hợp của hesperidin (epime 2S) là phương pháp nhanh để nhận biết chất này và epime 2R của nó. Luận văn tốt nghiệp “Nghiên cứu thành phần cây Cỏ mực (Eclipta prostrata L., Asteraceae)” thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu phân lập và xác định cấu trúc các hợp chất từ cây Cỏ mực. Luận văn đã đạt được các kết quả nghiên cứu sau : 1. Đã xây dựng được qui trình chiết và phân tách để điều chế được các phần chiết n-hexan, điclometan, etyl axetat và phần chiết nước chứa các hợp chất phân cực từ phần trên mặt đất cây Cỏ mực. 2. Đã phân tích sắc ký lớp mỏng (TLC) các phần chiết n-hexan, điclometan và etyl axetat để xác định điều kiện sắc ký định tính và xác định các hệ dung môi thích hợp cho phân tách sắc ký gradient các phần chiết này. 3. Bằng các phương pháp sắc ký cột gradient đã phân lập được 4 hợp chất β- sitosterol, metyl gallat, eclalbasaponin II và hesperidin từ các phần chiết n-hexan, điclometan và etyl axetat và 3 chất eclalbasaponin I, norwedelolacton và hesperidin từ phần chiết nước. 4. Cấu trúc của các hợp chất được phân lập đã được xác định bằng cách kết hợp các phương pháp phổ hiện đại: ESI-MS, 1H-NMR, 13C-NMR và DEPT. 5. Nghiên cứu của Luận văn đã dẫn đến các phát hiện lý thú. β-Sitosterol đã được xác định là thành phần chính trong các phần chiết n-hexan và điclometan. Các saponin tritecpenoit eclalbasaponin I và II cùng với chất coumarin norwedelolacton và flavanon rutinozit hesperidin có chủ yếu trong các phần chiết phân cực (etyl axetat và nước). Eclalbasaponin I và eclalbasaponin II là các hoạt chất saponin tecpenoit quan trọng của cây Cỏ mực ; chúng đã lần đầu tiên được tìm thấy trong cây Cỏ mực trồng ở miền Bắc Việt Nam. Metyl gallat và hesperidin đã được phân lập lần đầu tiên từ cây Eclipta prostrata L.. Sự xuất hiện đồng thời của hỗn hợp epimeric 2R và 2S (hesperidin) của chất 3 ,5,7- trihydroxy-4 -metoxyflavanon 7-O-rutinozit đã được phát hiện và nghiên cứu đã chứng tỏ là có thể xác định nhanh hỗn hợp này bằng phổ 13C-NMR. References Tiếng Việt 1. Võ Văn Chi (1997), Từ điển cây thuốc Việt Nam, NXB Y học, Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Trần Vũ Thiên, Phùng Văn Trung, Nguyễn Ngọc Hạnh (2009) “Phân lập echino cystic axit và eclabasapnin II từ cây Cỏ mực Eclipta prostrata. Họ cúc (Asteraceae)”, Tạp chí Khoa học, 11, 278-283. Tiếng Anh 3. Abdel-Kader M. S., Bahler B. D., Malone S., Werkhoven M. C. M., Troon F., David, Wisse J. H., Bursuker I., Neddermann K., Mamber S. W., Kington D. G. I. (1998), “DNA-damaging steroidal alkaloids from Eclipta alba from the Suriname rainforest”, J. Nat. Prod., 61, 1202-1208. 4. Govindachari T. R., Premila M. S. (1985), “The benzofuran norwedelic acid from Wedelia calendulaceae”, Phytochemistry, 24, 3068-3069. 5. Krishnaswamy N. R., Seehadri T. R., Sharma B. R. (1966), “The structure of a new polythienyl from Eclipta alba”, Tetrahedron Letters, 35, 4227-4230. 6. Lee M. K., Ha N. R., Yang H., Sung S. H., Kim G. H., Kim Y. C. (2008), “Antiproliferative activity of triterpenoids from Eclipta prostrata on hepatic stellate cells”, Phytomedicine, 15, 775-780. 7. Lee M. K., Ha N. R., Yang H., Sung S. H., Kim Y. C. (2009), “Stimulatory constituent of Eclipta prostrata on mouse osteoblast differentiation”, Phytother. Res., 23, 129-131. 8. Li C. C., Xie Z. X., Zhang Y. D., Chen J. H., Yang Z. (2003), “Total synthesis of wedelolactone”, J. Org. Chem., 68, 8500-8504. 9. Maltese F., Erkelans C., Vander Kooy F., Choi Y. H., Verpoorte R. (2009), “Identification of natural epimeric flavanone glycosides by NMR spectroscopy”, Food Chemistry, 116, 575-579. 10. Michels M. G., Bertolini L. C. T., Esteves A. F., Moreira P., S. Franca C. (2010), “Anticoccidial effects of coumestans from Eclipta alba for sustainable control of Eimeria tenella parasitosis in poultry production”, Veterinary Parasitology, 1873- 2550. 11. Sing P., Sharma A. K., Joshi K. C., Bohlmann F. (1985), “A futher dithienylacetylene from Eclipta erecta”, Phytochemistry, 24, 615-616. 12. Sing P., Bhargava S. (1992), “A dithienylacetylene ester from Eclipta erecta”, Phytochemistry, 31, 2883-2884. 13. Tewtrakul S., Subhadhirasakul S., Cheenpracha S., Karalai C. (2007), “HIV-1 protease and HIV-1 integrase inhibitory substances from Eclipta prostrata”, Phytother. Res., 21, 1092-1095. 14. Tewtrakul S., Subhadhirasakul S., Tansakul P., Cheenpracha S., Karalai C. (2011), “Antiinflammatory constituents from Eclipta prostrata using RAW264.7 macrophage cells”, Phytother. Res.,25, 1313-1316. 15. Yahara S., Ding N., Nohara T. (1994), “Oleanane glycosides from Eclipta alba”, Chem. Pharm. Bull., 42, 1336-1338. 16. Yahara S., Ding N., Nohara T., Masuda K., Ageta H. (1997), “Taraxastane glycosides from Eclipta alba”, Phytochemistry, 44, 131-135.
File đính kèm:
- nghien_cuu_thanh_phan_hoa_hoc_cay_co_muc_eclipta_prostrata_l.pdf