Phún xạ CuO lên bề mặt dây nanô SnO2 nhằm nâng cao tính chất nhạy khí H2S

Tóm tắt: Tính chất nhạy khí của vật liệu nanô oxit kim loại bán dẫn sẽ được cải

thiện đáng kể khi biến tính bề mặt. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày quy trình

mọc dây nanô SnO2 trực tiếp lên điện cực Pt bằng phương pháp bốc bay nhiệt ở

750oC và cách biến tính bề mặt dây nanô SnO2 bằng hạt nanô Cu bằng phương

pháp phún xạ. Dây nanô SnO2 được phún xạ trực tiếp Cu lên bề mặt trong một thời

gian nhất định. Hình thái và cấu trúc của vật liệu dây nanô SnO2 biến tính bởi Cu

được nghiên cứu bằng hiển vi điện tử quét phát xạ trường (FE-SEM) và hiển vi điện

tử truyền qua phân giải cao (HR-TEM). Kết quả khảo sát cho thấy hạt nanô Cu có

kích thước từ 40-50 nm bám trên bề mặt dây nanô SnO2. Kết quả khảo sát tính chất

nhạy khí chỉ ra rằng cảm biến trên cơ sở dây nanô SnO2 biến tính Cu bằng phương

pháp phún xạ có độ nhạy cao với khí H2S trong khoảng nồng độ rất thấp (0,25-2,5

ppm). Hơn nữa, thời gian đáp ứng, thời gian hồi phục, độ nhạy của cảm biến phụ

thuộc rõ rệt vào nhiệt độ và nồng độ khí H2S.

pdf 6 trang yennguyen 500
Bạn đang xem tài liệu "Phún xạ CuO lên bề mặt dây nanô SnO2 nhằm nâng cao tính chất nhạy khí H2S", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phún xạ CuO lên bề mặt dây nanô SnO2 nhằm nâng cao tính chất nhạy khí H2S

Phún xạ CuO lên bề mặt dây nanô SnO2 nhằm nâng cao tính chất nhạy khí H2S
Vật lý & Khoa học vật liệu 
 Đ. V. Thiên, , N. V. Hiếu, “Phún xạ CuO lên bề mặt dây  tính chất nhạy khí H2S.” 150 
PHÚN XẠ CuO LÊN BỀ MẶT DÂY NANÔ SnO2 
NHẰM NÂNG CAO TÍNH CHẤT NHẠY KHÍ H2S 
Đinh Văn Thiên1,*, Trương Thị Chinh2, Nguyễn Văn Duy3, Nguyễn Văn Hiếu3 
Tóm tắt: Tính chất nhạy khí của vật liệu nanô oxit kim loại bán dẫn sẽ được cải 
thiện đáng kể khi biến tính bề mặt. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày quy trình 
mọc dây nanô SnO2 trực tiếp lên điện cực Pt bằng phương pháp bốc bay nhiệt ở 
750oC và cách biến tính bề mặt dây nanô SnO2 bằng hạt nanô Cu bằng phương 
pháp phún xạ. Dây nanô SnO2 được phún xạ trực tiếp Cu lên bề mặt trong một thời 
gian nhất định. Hình thái và cấu trúc của vật liệu dây nanô SnO2 biến tính bởi Cu 
được nghiên cứu bằng hiển vi điện tử quét phát xạ trường (FE-SEM) và hiển vi điện 
tử truyền qua phân giải cao (HR-TEM). Kết quả khảo sát cho thấy hạt nanô Cu có 
kích thước từ 40-50 nm bám trên bề mặt dây nanô SnO2. Kết quả khảo sát tính chất 
nhạy khí chỉ ra rằng cảm biến trên cơ sở dây nanô SnO2 biến tính Cu bằng phương 
pháp phún xạ có độ nhạy cao với khí H2S trong khoảng nồng độ rất thấp (0,25-2,5 
ppm). Hơn nữa, thời gian đáp ứng, thời gian hồi phục, độ nhạy của cảm biến phụ 
thuộc rõ rệt vào nhiệt độ và nồng độ khí H2S. 
Từ khóa: Dây nanô SnO2; Biến tính bề mặt; Cảm biến khí H2S. 
1. GIỚI THIỆU 
Các nhà khoa học trên thế giới đã và đang quan tâm nghiên cứu vật liệu ôxít kim loại 
bán dẫn có kích thước nanô nhằm ứng dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như: cảm biến 
khí [1], pin năng lượng mặt trời [2], cảm biến sinh học [3], vật liệu quang xúc tác [4]. Vật 
liệu ôxít bán dẫn tiêu biểu như SnO2, ZnO, WO3 được nghiên cứu ứng dụng cho cảm biến 
khí bởi vì có khả năng đáp ứng với nhiều loại khí như H2S, NO2, H2, NH3, CO, CO2 và có 
hoạt tính xúc tác cao [5]. 
SnO2 là chất bán dẫn loại n, có độ rộng vùng cấm là 3,6eV tại nhiệt độ phòng. Gần 
đây, các nhà khoa học dành nhiều sự quan tâm tới các cấu trúc nanô của vật liệu SnO2 như 
dây nanô [6], thanh nanô [7], màng mỏng nanô [8], sợi nanô [9], nhằm ứng dụng cho cảm 
biến khí. Để tổng hợp dây nanô oxit kim loại, có nhiều phương pháp khác nhau như mọc 
từ pha hơi theo cơ chế hơi-lỏng-rắn (VLS) [10], hơi-rắn (VS) [11], và mọc trên cơ sở dung 
dịch [12]. Ở nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng một phương pháp rất hiệu quả trong việc 
mọc dây nanô là bốc bay nhiệt, nhằm tăng sự ổn định của cảm biến khí. 
Các nhà nghiên cứu thường pha tạp hoặc biến tính bề mặt vật liệu bằng các hạt nanô 
kim loại khác nhau tùy thuộc vào khí cần phát hiện để cải thiện đặc tính nhạy khí của vật 
liệu ôxít kim loại bán dẫn. Ví dụ như hạt nanô Pd và hạt nanô Ni được biến tính trên bề 
mặt dây nanô SnO2 giúp tăng cường độ nhạy khí NO2 và H2S của cảm biến [13, 14]. Trong 
bài báo này, chúng tôi biến tính bề mặt dây nanô SnO2 bằng hạt Cu có kích thước nanô 
nhờ phương pháp phún xạ DC nhằm nâng cao đặc tính nhạy khí H2S ở dải nồng độ thấp. 
2. THỰC NGHIỆM 
Dây nanô SnO2 đơn tinh thể được mọc trực tiếp lên điện cực bằng phương pháp bốc 
bay nhiệt sử dụng thiết bị bay hơi nhiệt nằm ngang. Vật liệu nguồn cho quá trình mọc là 
bột Sn vì nó cho phép mọc ở nhiệt độ thấp hơn so với bột SnO hoặc SnO2. 0,1gam bột Sn 
được cho vào thuyền nhôm đã rửa sạch và trải đều vật liệu trên bề mặt thuyền. Điện cực 
được sử dụng là Pt trên đế SiO2. Khí Argon được dùng để làm sạch lò trước khi hút chân 
không sâu cho quá trình mọc. Lò được gia nhiệt để nâng từ nhiệt độ phòng lên 750oC trong 
30 phút. Trong quá trình mọc, áp suất trong lò khoảng 1,5.10-2 – 1,7.10-2 Torr. Sau khi 
nhiệt độ lò đạt 750oC, thổi O2 với lưu lượng 0,5 sccm qua ống thạch anh trong 15 phút để 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san CBES2, 04 - 2018 151 
hơi thiếc được ôxi hóa và dây SnO2 được tạo thành. Khi kết thúc quá trình mọc vật liệu, để 
lò nguội tự nhiên về nhiệt độ phòng. Dây nanô SnO2 tạo thành trên đế có màu trắng. 
Nghiên cứu các công bố trước đây về cảm biến khí H2S, Cu là một trong những loại 
vật liệu xúc tác thường được sử dụng cho việc biến tính ôxít kim loại bán dẫn để tăng 
cường khả năng nhạy khí H2S. Cảm biến SnO2 được sử dụng trong nghiên cứu này là cảm 
biến dạng dây nanô được chế tạo theo quy trình như đã trình bày trên. Khi chưa biến tính 
bề mặt, cảm biến này nhạy kém với khí H2S. Do vậy, vật liệu này được chúng tôi biến tính 
bề mặt bằng phương pháp phún xạ DC với các bước như sau: Bước 1 là gắn điện cực Pt đã 
mọc dây SnO2 lên phiến Si 4 inch để chuẩn bị cho quá trình phún xạ Cu. Bước 2: chuẩn bị 
bia phún xạ (Cu 99,99%, đường kính của bia 5 cm, chiều dày bia 5 mm); Áp suất phún xạ: 
5.10
-3
 mBar; Khí: 50% Ar + 50% O2; Công suất phún xạ: 50 W; Thời gian phún xạ: mẫu 
được phún xạ trong 10 giây. Bước 3: mẫu sau khi phún xạ được ủ ở 600oC trong 4 giờ 
trong chân không sau đó hạ từ từ về nhiệt độ phòng. Bước 4: đem mẫu cảm biến trên đi 
khảo sát hình thái cấu trúc nhờ các thiết bị là kính ảnh hiện vi điện tử quét phát xạ trường 
(FE-SEM), hiển vi điện tử truyền qua phân giải cao (HR-TEM). Bước 5: khảo sát các đặc 
tính nhạy khí của cảm biến. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Hình thái và cấu trúc của dây nanô phún xạ Cu lên bề mặt được nghiên cứu bằng kính 
hiển vi điện tử quét phát xạ trường (FE-SEM), kính hiển vi điện tử truyền qua phân giải 
cao (HR-TEM) như được trình bày trên hình 1. Ta có thể thấy rằng, hạt nanô Cu rất nhỏ có 
kích thước từ 40-50 nm bám trên bề mặt dây nanô SnO2 (hình 1a, b). Ngoài ra, qua hình 
ảnh khảo sát nhờ kính hiển vi điện tử truyền qua phân giải cao ở trên hình (b), cho thấy hạt 
nanô CuO chỉ bám trên một mặt của dây nanô SnO2. Điều này được lý giải là do phương 
pháp phún xạ 1 chiều (DC), dưới tác dụng của điện trường, chỉ làm cho các hạt nanô Cu từ 
bia đến bám vào dây nanô trên một mặt tiết diện của dây, mặt đối diện của dây không thể 
nhận được các hạt Cu bay ra từ bia. 
 Hình 1. Ảnh FE-SEM (a) và HR-TEM (b) của dây nanô SnO2 phún xạ hạt nanô Cu. 
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát tính chất nhạy khí H2S với mẫu cảm biến SnO2 phún 
xạ Cu ở các nhiệt độ từ 150oC đến 400oC với bước nhiệt 50oC và các nồng độ khí lựa chọn 
để nghiên cứu từ 0,25 ppm đến 2,5 ppm. Các mẫu sau khi phún xạ để ở điều kiện thường, 
Cu đã được phún xạ lên bề mặt dây nanô SnO2 nhanh chóng bị ôxy hóa thành CuO. Kết 
quả nghiên cứu sự thay đổi của điện trở của các mẫu cảm biến SnO2-CuO được trình bày 
trên hình 2. Có thể nhận thấy rằng, điện trở (R(Ω)) của dây nanô SnO2-CuO giảm khi đáp 
ứng khí H2S và giảm càng mạnh khi nồng độ khí H2S càng cao. Điều này phù hợp với thực 
tế là dây nanô SnO2 phún xạ Cu là bán dẫn loại n và H2S là khí khử (cho điện tử). 
Vật lý & Khoa học vật liệu 
 Đ. V. Thiên, , N. V. Hiếu, “Phún xạ CuO lên bề mặt dây  tính chất nhạy khí H2S.” 152 
Hình 2. Mẫu SnO2-CuO –10 s đáp ứng khí H2S ở 150
o
C, 200
o
C, 250
o
C, 300
o
C, 350
o
C, 
400
oC ở nồng độ từ 0,25 ppm –2,5 ppm (a) và độ đáp ứng khí S(Ra/Rg) phụ thuộc vào nồng 
độ (b) và phụ thuộc vào nhiệt độ (c). 
Kết quả khảo sát đặc trưng đáp ứng khí H2S của cảm biến SnO2-CuO với mẫu phún 
xạ 10s ở trên, có thể thấy rằng độ đáp ứng S(Ra/Rg) tăng lên rất nhanh theo chiều tăng 
dần của nồng độ khí từ 250ppb đến 2,5ppm và chiều giảm dần của nhiệt độ đo từ 400oC 
đến 150oC. Với nhiệt độ từ 150oC trở xuống, cảm biến có dấu hiệu hồi phục rất chậm 
(hình 2a). Với nồng độ rất thấp 250 ppb cho độ đáp ứng lần lượt là S = 394 lần ở 150oC; 
2,65 lần ở 200oC; 2,1 lần ở 250oC; 1,8 lần; 1,6 lần và 1,5 lần ứng với các nhiệt độ 300oC, 
350
o
C và 400
o
C (hình 2c). Ở cùng một nhiệt độ, theo chiều tăng của nồng độ khí đo, độ 
đáp ứng khí của cảm biến tăng lên rõ rệt (hình 2b). Hơn nữa, khi nhiệt độ càng giảm thì 
độ đáp ứng càng tăng lên. Cụ thể ở nhiệt độ 200oC (hình 2b), độ đáp ứng của cảm biến 
lần lượt là 2,65 lần; 5,5 lần; 51,8 lần và 1219 lần ở các nồng độ lần lượt từ 250 ppb, 
500ppb, 1ppm đến 2,5ppm. 
Như vậy, có thể nói rằng, dây nanô SnO2 được phún xạ Cu lên bề mặt đã làm cải 
thiện độ đáp ứng của cảm biến một cách rõ rệt, hơn nữa nhiệt độ làm việc của cảm biến 
đạt giá trị 200-250oC. Vai trò xúc tác của Cu được thể hiện một cách rõ rệt trong việc làm 
tăng cường độ đáp ứng cho cảm biến cũng như làm cảm biến hoạt động theo quy luật. 
Các yếu tố để giải thích sự tăng cường độ đáp ứng của cảm biến SnO2-CuO với khí H2S 
đó là (i): Khí H2S phản ứng rất mạnh mẽ với CuO trong khi Cu có hoạt tính xúc tác làm các 
phân tử ôxy dễ dàng phân tách thành các ôxy nguyên tử hơn, do đó, Cu được phún xa trên bề 
mặt dây nanô sẽ làm cho số lượng ion ôxy hấp phụ trên bề mặt (O , O2
 và O
2 
) tăng lên. Lý 
giải này phù hợp với thực tế rằng các mẫu cảm biến dây nanô SnO2 phún xạ Cu có điện trở 
(a) 
(b) 
(c) 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san CBES2, 04 - 2018 153 
lớn hơn so với mẫu cảm biến chưa phún xạ; (ii): Lý do thứ hai là biến tính dây SnO2 bằng 
phún xạ Cu trên bề mặt sẽ tạo các tiếp xúc Schottky làm cho vùng nghèo điện tử mở rộng ở 
điểm có hạt nanô Cu gắn lên. Cơ chế nhạy khí được hiểu theo hai hướng: Cơ chế tràn spill-
over: dưới tác dụng nhiệt độ, các đơn nguyên tử H tách ra từ phân tử H2S sẽ phản ứng với 
oxi hấp phụ trên bề mặt SnO2 theo phản ứng: H2S + 3O
2-
 → SO2 + H2O + 6e
-
 (1). Cơ chế 
phản ứng hóa học của Cu và H2S: Cu bị oxi hóa tạo thành CuO là chất bán dẫn loại p. Một 
lớp chuyển tiếp p-n hình thành ở lớp tiếp xúc SnO2 và CuO. Khi có xung khí H2S, CuO phản 
ứng với khí H2S tạo thành CuS (H2S+CuO→CuS + H2O)
(2). Do CuS có tính dẫn điện tốt 
giống như kim loại cho nên vùng nghèo điện tử của chuyển tiếp p-n bị thu hẹp. Điện tử được 
trả lại cho dây nanô. Kết quả là điện trở của dây SnO2 giảm. Khi khí H2S bị ngắt, dưới tác 
động của nhiệt độ, CuS nhanh chóng phản ứng với ôxy trong không khí và chuyển về dạng 
CuO (CuS + 3/2O2 →CuO+SO2)
(3)
. Tuy nhiên, khi ở nhiệt độ càng thấp, có ba vấn đề được 
làm rõ: Thứ nhất là, phản ứng hóa học (1) giữa CuO và H2S xảy ra với tốc độ rất nhanh; 
Trong khi đó ôxy hấp phụ trên bề mặt rất ít nên gần như không có phản ứng (2). Do đó, ở 
nhiệt độ thấp, độ đáp ứng của cảm biến SnO2-CuO là rất lớn. Thứ hai là, thời gian hồi phục 
của cảm biến lại rất chậm. Nguyên nhân là do ở nhiệt độ thấp, tốc độ phản ứng giải hấp để 
khôi phục CuS về CuO (3) xảy ra rất chậm, nên điện trở của dây nanô rất lâu sau mới trở về 
giá trị nền. Cơ chế phản ứng ở nhiệt độ thấp gần như xảy ra theo một chiều. Thứ ba là, thời 
gian đáp ứng khí là rất lớn khi nồng độ khí thấp vì lượng khí không đủ để phản ứng hóa học 
(1) xảy ra một cách nhanh chóng. Hơn nữa, nếu tiếp tục cho cảm biến đáp ứng khí, độ đáp 
ứng tiếp tục còn tăng do các phân tử khí đi sâu vào trong bề mặt tiếp xúc SnO2-CuO và phản 
ứng tiếp tục xảy ra. Nhưng ở nồng độ khí cao, các phân tử khí nhanh chóng tiếp cận CuO ở 
bề mặt và ở sâu bên trong tiếp xúc SnO2-CuO nên các phản ứng hóa học xảy ra rất nhanh 
dẫn đến độ đáp ứng rất cao và thời gian đáp ứng rất nhanh. Khi nhiệt độ tăng cao, ôxy hấp 
phụ trên bề mặt (O , O2
 và O
2 
) rất nhiều, dẫn tới khi cảm biến được đáp ứng khí thì hai cơ 
chế phản ứng (1) và (2) để làm giảm điện trở mẫu cảm biến đồng thời xảy ra. Tuy vậy, phản 
ứng giải hấp (3) để hồi phục cảm biến cũng đồng thời xảy ra. Do đó, thời gian đáp ứng khí 
của cảm biến nhanh hơn nhiều dù nồng độ khí đáp ứng thấp. Một hệ quả nữa song song với 
việc thời gian đáp ứng nhanh là độ đáp ứng (S(Ra/Rg)) của cảm biến thấp. Cơ chế tương tác 
ở nhiệt độ cao có xu hướng xảy ra theo 2 chiều. Khi ngắt khí, phản ứng giải hấp (3) xảy ra 
rất nhanh, nên cảm biến nhanh chóng đạt được giá trị điện trở nền ban đầu và dẫn tới thời 
gian hồi phục rất nhanh. 
4. KẾT LUẬN 
Từ các kết quả nghiên cứu trên, một số kết luận được chúng tôi đưa ra gồm: (i): Đã 
chế tạo thành công vật liệu nanô SnO2 cấu trúc dây bằng phương pháp bốc bay nhiệt sử 
dụng vật liệu nguồn là bột Sn ở 750oC. (ii): Đã biến tính được bề mặt dây nanô bằng hạt 
nanô Cu nhờ phương pháp phún xạ DC với thời gian phún xạ là 10 s. (iii): Đã khảo sát tính 
chất nhạy khí H2S của cảm biến dây nanô SnO2-CuO với dải nồng độ từ 0,25-2,5 ppm và 
dải nhiệt độ từ 150-400oC. Đối với cảm biến dây nanô SnO2-CuO được phún xạ Cu lên bề 
mặt trong 10 s có nhiệt độ làm việc tối ưu là 200oC và độ đáp ứng với 2,5 ppm khí H2S là 
1219 lần ở 2,5 ppm. Cảm biến đã cải thiện độ nhạy khí H2S rất đáng kể khi được biến tính 
CuO. (iv): Cảm biến được chế tạo cho độ đáp ứng ở nồng độ rất thấp cỡ ppb. Đây là một 
trong những điểm mới của nghiên cứu. 
Vật lý & Khoa học vật liệu 
 Đ. V. Thiên, , N. V. Hiếu, “Phún xạ CuO lên bề mặt dây  tính chất nhạy khí H2S.” 154 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. X. Chen, P. Li, H. Tong, T. Kako, J. Ye, “Nanoarchitectonics of a Au nanoprism 
array on WO3 film for synergistic optoelectronic response” Sci. Technol. Adv. 
Mater. Vol. 12(4) (2011), p. 044604. 
[2]. P.R. Solanki, A. Kaushik, V.V. Agrawal, B.D. Malhotra, “Nanostructured metal 
oxide-based biosensors” NPG Asia Mater. Vol. 3, (2011), pp. 17-24. 
[3]. H.B. Wu, J.S. Chen, H.H. Hng and X.W.(D.) Lou, “Nanostructured metal oxide-
based materials as advanced anodes for lithium-ion batteries” Nanoscale Vol. 4(8) 
(2012), pp. 2526-2542. 
[4]. Y. Liang, Y. Li, H. Wang, J. Zhou, J. Wang, T. Regier, H. Dai, “Co3O4 
nanocrystals on graphene as a synergistic catalyst for oxygen reduction reaction” 
Nature Mater. Vol. 10 (2011), pp. 780-786. 
[5]. H.V. Han, N.D. Hoa, P.V. Tong, H. Nguyen, N.V. Hieu, “Single-crystal zinc oxide 
nanorods with nanovoids as highly sensitive NO2 nanosensors,” Materials 
Letters Vol. 94 (2013), pp. 41-43. 
[6]. A. Wisitsoraat, A. Tuantranont, T. Lomas, P. Chindaudom, “Ion-assisted e-beam 
evaporated gas sensor for environmental monitoring”, Sci. Technol. Adv. Mater. Vol. 
6, (2005), pp. 261-265. 
[7]. N.D. Hoa, V.V. Quang, N.V. Hieu, D. Kim, “General and scalable route to 
synthesize nanowire-structured semiconducting metal oxides for gas-sensor 
applications”, J. Alloys and Compounds Vol. 549 (2013), pp. 260-268. 
[8]. A. Kolmakov, Y. Zhang, G. Cheng, M. Moskovits, “Detection of CO and O2 using 
tin oxide nanowire sensors” Adv. Mater. Vol. 15 (2003), pp. 997-1000. 
[9]. D. Wang, X. Chu, M. Gong, “Gas-sensing properties of sensors based on single-
crystalline SnO2 nanorods prepared by a simple molten-salt method” Sens. 
Actuators B Vol. 117 (2006), pp. 183-187. 
[10]. M. Epifani, L. Francioso, P. Siciliano, A. Helwig, et al., “SnO2 thin films from 
metalorganic precursors: Synthesis, characterization, microelectronic processing 
and gas-sensing properties” Sen. Actuators B Vol. 124 (2007), pp. 217-226. 
[11]. E.M.A. Duraia, Z.A. Mansorov, S. Tokmolden, “Synthesis, characterization and 
photoluminescence of tin oxide nanoribbons and nanowires” Physica B Vol. 404 
(2009), pp. 3952-3956. 
[12]. S. Budak, G.X. Miao, M. Ozdemir, K.B. Chetry, A. Gupta, “Growth and 
characterization of single crystalline tin oxide (SnO2) nanowires” J. Crystal Growth 
Vol. 291 (2006), pp. 405-411. 
[13]. N.V. Duy, N.D. Hoa, N.V. Hieu, “Effective hydrogen gas nanosensor based on 
bead-like nanowires of platinum-decorated tin oxide” Sens. Actuators B Vol. 173 
(2012), pp. 211-217. 
[14]. H.-Y. Lai and C.-H. Chen, “Highly sensitive room-temperature CO gas sensors: Pt 
and Pd nanoparticle-decorated In2O3 flower-like nanobundles” J. Mater. Chem. 
Vol. 22 (2012), pp. 13204-13208. 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san CBES2, 04 - 2018 155 
ABSTRACT 
ENHANCING H2S GAS-SENSING PERFORMANCE BY SPUTTERING Cu 
NANOPARTICLES ON THE SURFACE OF SnO2 NANOWIRES 
Enhancing material characteristics, functionalization, and sensing abilities by 
decorating metal nanoparticles (NPs) on the surface of semiconducting metal oxide 
nanowires (NWs). In this study, an effective method for the decoration of Cu NPs on 
the surface of SnO2 NWs to enhance H2S gas-sensing performance is introduced. 
Single crystal SnO2 NWs were fabricated by chemical vapor deposition (CVD) at 
750oC, whereas Cu NPs were decorated on the surface of SnO2 NWs by sputtering 
method. Morphology and structure of SnO2 NWs which were decorated with Cu NPs 
were characterized by field emission scanning electron microscope (FE-SEM) and 
high resolution transmission electron microscopy (HR-TEM). The survey results 
showed that Cu NPs with size of 40-50 nm are attached on SnO2 NWs surface. The 
H2S sensing characteristics of SnO2 NWs decorated with Cu NPs were investigated 
at different temperatures from 150-400
o
C with step of 50
o
C. The H2S sensing 
characteristics survey results indicated that gas sensor based on SnO2 NWs 
decorated Cu exhibited excellent sensing performance to H2S at very low 
concentration (0,25-2,5 ppm). Further, response - recovery time, the sensitivity of 
the sensor depends markedly on temperature and H2S concentration. 
Keywords: SnO2 nanowires; H2S gas sensor; Cu nanoparticles. 
Nhận bài ngày 25 tháng 02 năm 2018 
Hoàn thiện ngày 13 tháng 3 năm 2018 
Chấp nhận đăng ngày 02 tháng 4 năm 2018 
Địa chỉ: 1 Khoa Khoa học cơ bản, Trường Đại học Mỏ - Địa chất; 
 2 Khoa Dầu khí, Trường Đại học Mỏ - Địa chất; 
 3 Viện Đào tạo quốc tế về Khoa học Vật liệu (Itims), Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. 
 * Email: dinhvanthien@humg.edu.vn. 

File đính kèm:

  • pdfphun_xa_cuo_len_be_mat_day_nano_sno2_nham_nang_cao_tinh_chat.pdf