Sự cần thiết hình thành thị trường Các-bon tại Việt Nam

Tóm tắt: Hiện nay, việc phát triển thị trường các-bon được xem là yêu cầu cấp thiết, vừa góp phần những

giá trị kinh tế nhất định, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đất nước, đồng thời là sự kết nối hợp

tác để mở rộng quan hệ ngoại giao thông qua việc đầu tư khoa học, công nghệ và tài chính giữa các quốc

gia. Nghiên cứu chỉ ra một số mô hình thị trường các-bon tự nguyện điển hình trên thế giới, đồng thời đưa

ra những phân tích và nhận định về tiềm năng cho việc hình thành và phát triển thị trường các-bon tại Việt

Nam. Việc phân tích và đánh giá tổng quan về bối cảnh cấp thiết của quốc tế về thị trường các-bon cũng

như tình hình thực hiện và triển khai thị trường các-bon trong nước tại các quốc gia điển hình trên thế giới

kết hợp với những phân tích và nhận định về những điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển

thị trường các-bon tại Việt Nam sẽ là cơ sở quan trọng cho việc phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam.

pdf 8 trang yennguyen 5980
Bạn đang xem tài liệu "Sự cần thiết hình thành thị trường Các-bon tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự cần thiết hình thành thị trường Các-bon tại Việt Nam

Sự cần thiết hình thành thị trường Các-bon tại Việt Nam
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 6 - Tháng 6/2018 
71
SỰ CẦN THIẾT HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CÁC-BON TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Thị Liễu(1), Nguyễn Trung Anh(1), Vũ Đình Nam(2)
(1)Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
(2)Văn phòng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Ngày nhận bài 16/5/2018; ngày chuyển phản biện 17/5/2018; ngày chấp nhận đăng 27/6/2018
Tóm tắt: Hiện nay, việc phát triển thị trường các-bon được xem là yêu cầu cấp thiết, vừa góp phần những 
giá trị kinh tế nhất định, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đất nước, đồng thời là sự kết nối hợp 
tác để mở rộng quan hệ ngoại giao thông qua việc đầu tư khoa học, công nghệ và tài chính giữa các quốc 
gia. Nghiên cứu chỉ ra một số mô hình thị trường các-bon tự nguyện điển hình trên thế giới, đồng thời đưa 
ra những phân tích và nhận định về tiềm năng cho việc hình thành và phát triển thị trường các-bon tại Việt 
Nam. Việc phân tích và đánh giá tổng quan về bối cảnh cấp thiết của quốc tế về thị trường các-bon cũng 
như tình hình thực hiện và triển khai thị trường các-bon trong nước tại các quốc gia điển hình trên thế giới 
kết hợp với những phân tích và nhận định về những điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển 
thị trường các-bon tại Việt Nam sẽ là cơ sở quan trọng cho việc phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam.
Từ khóa: Thị trường các-bon, Nghị định thư Kyoto, Thỏa thuận Paris về BĐKH. 
1. Mở đầu
Theo Điều 17 của Nghị định thư Kyoto, thị 
trường các-bon được hiểu là việc cho phép các 
quốc gia có dư thừa quyền phát thải được bán 
cho hoặc mua từ các quốc gia phát thải nhiều 
hơn/ít hơn mục tiêu cam kết. Do đó, trên thế 
giới đã xuất hiện một loại hàng hóa mới, được 
tạo ra dưới dạng chứng chỉ giảm/hấp thụ phát 
thải khí nhà kính. Do CO
2
 là khí nhà kính (KNK) 
qui đổi tương đương của mọi KNK nên mọi 
người thường gọi đơn giản là mua bán, trao đổi 
các-bon. Việc mua bán các-bon hình thành nên 
thị trường các-bon (carbon market).
Từ khi Nghị định thư Kyoto ra đời, thị trường 
các-bon đã phát triển mạnh tại các quốc gia 
Châu Âu, Châu Mỹ và cả Châu Á với hai loại thị 
trường chính là thị trường các-bon bắt buộc và 
thị trường các-bon tự nguyện. Hiện nay, trong 
xu thế BĐKH toàn cầu, các quốc gia thông qua 
thỏa thuận Paris phải đệ trình Báo cáo Đóng góp 
do quốc gia tự quyết định(NDC), từ đó sẽ mở 
ra cơ hội lớn cho sự hình thành và phát triển 
thị trường các-bon trên thế giới nói chung cũng 
như thị trường các-bon tự nguyện nói riêng. 
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nhiều 
lợi thế cho phát triển thị trường các-bon tự 
nguyện, trước hết là việc Việt Nam đã thể hiện 
sự cam kết của mình về việc cắt giảm KNK trong 
NDC lên Ban thư ký Công ước khung của Liên 
hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) với 
lượng phát thải KNK khoảng 8% vào năm 2030 
so với kịch bản phát triển thông thường bằng 
nguồn lực trong nước và có thể lên đến 25% nếu 
nhận được hỗ trợ quốc tế. Ngoài ra, trong hợp 
tác quốc tế liên quan đến giảm nhẹ, Việt Nam 
cũng đã nhận được một số hỗ trợ trực tiếp từ 
các tổ chức quốc tế như ADP, WB, GZ, UNDP. 
Một vấn đề quan trọng nữa là hiện nay Chính 
phủ Việt Nam cũng đang có chủ trương chuyển 
đổi nền kinh tế theo hướng bền vững, phát triển 
các-bon thấp sẽ là tiền đề quan trọng để hỗ trợ 
cho việc phát triển thị trường các-bon. Việt Nam 
tham gia vào việc phát triển thị trường các-bon 
nội địa sẽ góp phần chung tay với thế giới trong 
mục tiêu giảm KNK và phát triển kinh tế đất 
nước theo hướng xanh và bền vững. 
2. Tổng quan về thị trường các-bon trên thế giới
Từ việc nhận định về thị trường các-bon trên 
thế giới, có thể hình dung rằng thị trường các-bon 
là một loại hình thị trường đặc thù, với hàng hóa 
được mua/bán trong thị trường là các đơn vị/
Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Liễu
Email: lieuminh2011@gmail.com
72 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 6 - Tháng 6/2018
chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải KNK theo các 
cơ chế khác nhau. Các đối tượng tham gia mua/
bán có thể là các doanh nghiệp và các quốc gia 
hoặc cũng có thể các tổ chức tài chính.
i. Thị trường bắt buộc (mandatory carbon 
market): là thị trường mà ở đó việc buôn bán 
các-bon dựa trên cam kết của các quốc gia trong 
UNFCCC để đạt được mục tiêu cắt giảm khí nhà 
kính. Thị trường này mang tính bắt buộc và chủ 
yếu dành cho các dự án trong cơ chế phát triển 
sạch (CDM) hoặc đồng thực hiện (JI)
ii. Thị trường tự nguyện (voluntary carbon 
market): thị trường này dựa trên cơ sở hợp tác 
thỏa thuận song phương hoặc đa phương giữa 
các tổ chức, công ty hoặc quốc gia
Nghị định thư Kyoto là đưa ra các mục tiêu 
mang tính bắt buộc đối với 37 nước công nghiệp 
trên thế giới và Liên minh Châu Âu (EU) về việc 
giảm lượng KNK. Theo đó, các nước này đến năm 
2012 phải giảm lượng phát thải KNK, chủ yếu là 
carbon dioxide, ít nhất 5% so với mức phát thải 
năm 1990. Mức giảm cụ thể áp dụng cho từng 
quốc gia thay đổi khác nhau. Ví dụ, các nước EU 
là 8%, Mỹ 7%, Nhật Bản 6%, Australia 8%, trong 
khi New Zealand, Nga và Ucraina được duy trì 
mức phát thải hiện tại. Riêng một số quốc gia 
vốn có lượng phát thải KNK thấp được phép 
tăng lượng phát thải, như Na Uy được tăng 1% 
hay Iceland 10%.
Các nước tham gia vào Nghị định thư Kyoto 
phải chịu sự giám sát và quản lý bởi các nguyên 
tắc của Liên Hiệp Quốc về lượng khí thải cắt 
giảm. Các quốc gia được chia làm hai nhóm: 
nhóm các nước phát triển thuộc Phụ lục I 
(Annex I) theo phân loại của UNFCCC, buộc phải 
có bản đệ trình thường niên về các hành động 
cắt giảm khí thải; và nhóm các nước đang phát 
triển không thuộc Phụ lục I (Non-Annex I) của 
UNFCCC, bao gồm đa số các nước đang phát 
triển và cả một số nền kinh tế lớn mới nổi như 
Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil. Những nước này ít 
chịu ràng buộc hơn so với các nước thuộc nhóm 
Annex I.
Trong giai đoạn cam kết đầu của Nghị định 
thư Kyoto, từ năm 2008 - 2012, thị trường cácbon 
hoạt động rất sôi nổi với Cơ chế tín chỉ chung 
(JCM). Tuy nhiên, trong giai đoạn từ 2013 - 
2020, số lượng các dự án CDM đăng ký mới trên 
thế giới đã giảm đi nhiều. Nguyên nhân chủ yếu 
do Bản sửa đổi, bổ sung Doha vào Nghị định thư 
Kyoto chưa có hiệu lực thi hành. Các nước phát 
triển (các quốc gia mua tín chỉ các-bon từ CDM) 
chưa bị bắt buộc giảm phát thải theo quy định. 
Mặc dù, đã có một số cơ chế mới được xây dựng 
và triển khai như JCM giữa Nhật Bản và một số 
đối tác nhưng các hoạt động mới chỉ ở giai đoạn 
thí điểm và tín chỉ các-bon thu được chưa thể 
giao dịch trên thị trường các-bon.
Tại COP21, các nước đã thông qua quy định 
về một cơ chế mới, cơ chế góp phần giảm nhẹ 
phát thải KNK và hỗ trợ phát triển bền vững. 
Theo đó, thị trường các-bon đang xu hướng 
phát triển mạnh mẽ toàn cầu và có nhiều đóng 
góp cho mục tiêu giảm phát thải của các quốc 
gia. Tính đến cuối năm 2016, thị trường các-bon 
(ETS) đã và đang được vận hành qua 4 lục địa, 
40 quốc gia, 13 bang/tỉnh,7 thành phố chiếm 
khoảng 40% GDP và ¼ phát thải toàn cầu. Tính 
đến thời điểm hiện tại đang có 17 hệ thống ETS 
đang được vận hành, đóng góp khoảng ½ tổng 
lượng phát thải, tương đương với 7 GtCO
2
tđ 
(chiếm 12% tổng lượng phát thải toàn cầu). 
Trong đó, Châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn 
Quốc là những quốc gia đi đầu trên thế giới về 
việc thành lập thị trường các-bon, và xem đây là 
chính sách chủ đạo về biến đổi khí hậu của quốc 
gia. Hiện nay Việt Nam đang nằm trong nhóm 
15 quốc gia trên thế giới đang xem xét, cân nhắc 
để xây dựng ETS. Chính vì vậy, việc nghiên cứu 
kinh nghiệm của các quốc gia đã và đang xây 
dựng, vận hành ETS sẽ rất quan trọng cung cấp 
các cơ sở thực tiễn trong việc nhìn nhận, đánh 
giá vài trò của ETS, cũng như nhận ra được các 
lỗ hổng về mặt lý thuyết và thực tiễn để làm căn 
cứ hoàn thiện cơ sở khoa học về ETS.
3. Tổng quan về thị trường các-bon tự nguyện 
tại một số quốc gia điền hình trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều quốc gia đã xây 
dựng và phát triển thị trường các-bon điển hình 
phải kể đến như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn 
Quốc và đã mang lại một số thành công nhất 
định trong việc cắt giảm lượng phát thải khí nhà 
kính và những lợi ích kinh tế nói chung.
3.1. Thị trường các-bon của Trung Quốc
Vào năm 2011, sau khi các quy định về thị 
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 6 - Tháng 6/2018 
73
trường các-bon theo Nghị định thư Kyoto được 
công bố, Trung Quốc công bố 7 thị trường các-bon 
thử nghiệm, bao gồm Bắc Kinh, Thượng Hải, 
Quảng Đông, Trùng Khánh, Thiên Tân, Hồ Bắc, 
và Quảng Tây. Các thị trường chịu sự quản lý vận 
hành của Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia 
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (NDRC) và được 
xây dựng bởi việc liên kết và phối hợp giữa các 
cơ quan cấp tỉnh, thành phố và thành lập các 
sàn giao dịch phát thải địa phương, cùng các 
lãnh đạo, chuyên gia tại các trường đại học và 
các viện nghiên cứu và có sự tham vấn ý kiến 
lãnh đạo cấp cao tại Bắc Kinh. 
NDRC đã đưa ra một quy trình phát triển 
các thị trường thử nghiệm, bao gồm ba giai 
đoạn: bắt đầu với việc xây dựng các trụ cột của 
hệ thống như hệ thống đăng ký, nền tảng giao 
dịch và hệ thống giám sát, báo cáo và thẩm 
định (MRV); giai đoạn hai là giai đoạn vận hành 
thử nghiệm và cuối cùng là thực hiện giao dịch 
chính thức. Cả 7 tỉnh thành đều thiết lập mục 
tiêu giảm cường độ phát thải trong các nhà máy 
từ 15-20% trong các giai đoạn với năm gốc 2010 
với mức độ giao động từ 17-20% so với năm gốc 
2010. Kể từ lúc bắt đầu thiết lập 7 thị trường thí 
điểm vào tháng 6/2013 đến nay, đã có 94 triệu 
tấn các-bon đã được mua bán. Tính đến quý 
2/2016, tổng giá trị giao dịch của thị trường đã 
lên tới 349 triệu USD với mức giá tín chỉ các-bon 
trung bình là 3,72 USD/tấn. Các giao dịch qua 
thị trường trực tuyến và OTC chiếm tỷ trọng lần 
lượt là 57% và 43% với giá trị giao dịch tương 
đương 56,7% và 34,3%.
Lựa chọn mô hình thiết kế các ETS thí điểm: 
Mỗi ETS được thiết kế khác nhau, tùy thuộc vào 
đặc điểm cụ thể của từng địa phương và được 
xây dựng bởi chính quyền địa phương với việc 
tư vấn thường xuyên với chính quyền trung 
ương ở Bắc Kinh.
Thiết lập hạn mức và phân bổ hạn mức phát 
thải cho phép: Các ETS ở Trung Quốc áp dụng kết 
hợp phân bổ hạn ngạch miễn phí và một phần 
được đưa ra đấu giá cho các doanh nghiệp tham 
gia dựa trên quá khứ phát thải của doanh nghiệp 
(giao động từ 3-10% tại các ETS và qua các năm 
khác nhau trong thời kỳ thực hiện). Sau đó, cho 
phép các doanh nghiệp đấu giá các hạn mức dư 
thừa/thiếu hụt của mình trên thị trường để có 
được hạn mức phát thải mong muốn bổ sung. 
Hạn ngạch phát thải là mức tuyệt đối được thiết 
lập cho cả thời kỳ.
Đấu giá và cơ chế kiểm soát giá: Việc đấu giá 
được thực hiện tại sàn giao dịch chứng khoán 
địa phương, trong khi cơ quan chịu trách nhiệm 
quản lý thuộc về Hội đồng phát triển và cải cách 
tại mỗi địa phương.
MRV và kiểm soát thị trường: Với mức độ 
phức tạp của các ETS khác nhau và nhiều ngành, 
loại doanh nghiệp được đưa vào hệ thống, tuy 
nhiên MRV của Trung Quốc hoạt động rất thành 
công với sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới và 
Chính quyền trung ương. Việc kiểm soát sẽ 
được thực hiện bởi chính các doanh nghiệp và 
được gửi đến hệ thống MRV của quốc gia, các 
chi phí kiểm soát và các phương pháp được xây 
dựng để kiểm roát là một trong những ưu tiên 
quan trọng của chính phủ. Các báo cáo của doanh 
nghiệp được thực hiện bởi doanh nghiệp và 
được xác nhận bởi một bên thứ ba độc lập, các 
báo cáo phải được đính kèm các tài liệu, dữ liệu 
và phải theo một quy trình nghiêm ngặt về thời 
gian thực hiện. Các doanh nghiệp không hoàn 
thành mục tiêu được quy định khác nhau giữa 
các hệ thống ETS, chủ yếu tập trung vào hình 
phạt tiền, với mức giao động từ €1.500 đến 
€7.000/mỗi lần vi phạm, trong một số trường 
hợp có thể gia hạn thời gian hoàn thành. Một 
số các trừng phạt vi phạm khác cũng được ban 
hành đối với các doanh nghiệp vi pham. Ví dụ 
ETS - Thượng hải sẽ cắt giảm các hỗ trợ ưu đãi, 
không cấp phép cho việc xây dựng dự án mới, bị 
tăng cường kiểm soát bởi cơ quan trung ương,
Thiết lập các điều khoản linh hoạt và cơ chế 
hỗ trợ thực hiện: Một số ETS đã cho phép doanh 
nghiệp sử dụng cơ chế gửi ngân hàng một lượng 
phát thải nhất định để sử dụng trong tương lai. 
Việc thiết lập các can thiệp về giá giao động rất 
lớn ở các ETS. Trong một số trường hợp, các can 
thiệp giá chỉ được sử dụng khi có biến động lớn 
về giá trên thị trường. Trung Quốc chỉ chấp nhận 
các tín chỉ phát thải chỉ được hình thành ở Trung 
Quốc (CCERs) từ năm 2015 với một mức giới 
hạn nhất định. 
3.2. Thị trường các-bon của Thái Lan
Trong INDC của Thái Lan có đề cập đến mục 
74 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 6 - Tháng 6/2018
tiêu cắt giảm phát thải khí nhà kính với mức 20% 
trong đóng góp dự kiến cho phép vào năm 2030, 
mức đóng góp này có thể tăng lên đến 25% tùy 
thuộc vào sự hỗ trợ tăng cường và phù hợp Thái 
Lan có được thông qua hiện định cân bằng toàn 
cầu. Thái Lan công nhận vai trò quan trọng của 
cơ chế thị trường nhằm tăng cường hiệu quả chi 
phí của các hành động giảm thiểu nên tiếp tục 
được khai phá tiềm năng và hiện nay ETS của 
Thái Lan và các cơ chế thị trường khác hiện vẫn 
chưa được đưa vào INDC.
Theo cơ quan Quản lý KNK Thái Lan (2017), 
tại Thái Lan, một số công cụ tạo động lực cho thị 
trường các-bon hiện nay phải kể đến:
- Chương trình giảm phát thải tự nguyện của 
Thái Lan (T-VER): Chương trình này được khởi 
công từ tháng 10/2013, hiện có 65 dự án, đây là 
cơ chế tạo tín chỉcác-bon trong nước dựa trên 
cách tiếp cận phát triển các dự án, sử dụng các 
phương pháp CDM, J-VER. Chương trình này có 
mục tiêu: (1) Khuyến khích phát triển các dự 
án giảm phát thải KNK với các khoản đồng lợi 
ích bằng các chứng chỉ tín chỉ các-bon; (2) Thúc 
đẩy thị trường các-bon nội địa của Thái Lan; (3) 
Nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu (BĐKH) 
và khuyến khích sự tham gia của khu vực Nhà 
nước và tư nhân.
- Chương trình trao đổi phát thải tự nguyện 
của Thái Lan (Thailand V-ETS): quy định về hệ 
thống mức trần và trao đổi tự nguyện được thử 
nghiệm nhằm kiểm tra hệ thống MRV và chu kỳ 
hoạt động từ tháng 10/2014;
- Chương trình cân đối bù trừ các-bon của 
Thái Lan (T-COP): được khởi động tháng 3/2013, 
nhằm sử dụng mức đóng góp của các bên tham 
gia hỗ trợ các hoạt động giảm phát thải khí nhà 
kính trong nước, đặc biệt là các dự án thuộc 
chương trình T-VER;
- Các dự án giảm phát thải tự nguyện (VER): 
tiêu chuẩn quốc tế.
Một số công cụ đề xuất khác hỗ trợ cho PMR 
của Thái Lan đó là:
- Chương trình chứng nhận hoạt động năng 
lượng (EPC): Chương trình nhằm mục tiêu 
đạt được hiệu suất năng lượng trong các tòa 
nhà và tòa nhà sử dụng nhiều năng lượng và 
nhằm xây dựng sự sẵn sàng của các hợp phần 
thị trường cốt lõi tạo nền móng xây dựng ETS 
trong tương lai. 
- Chương trình thành phố các-bon thấp 
(LCC): Cơ chế tín chỉKNK sẽ là một phần trong 
chương trình T-VER nhằm đạt được phát thải 
KNK do các thành phố và cộng đồng địa phương 
cùng thực hiện.
Kế hoạch thực hiện và triển khai Chương 
trình V-ETS của Thái Lan trải qua các giai ...  Theo PMR (2014) nhận 
định chế tài xử phạt là một con dao hai lưỡi trong 
thị trường tự nguyện Thái Lan. Cụ thể, chế tài xử 
phạt có thể giúp các cơ sở tham gia đúng theo 
quy định, tuy nhiên chế tài xử phạt cũng có thể 
ảnh hưởng tới mức độ tham gia của thị trường 
tự nguyện. Ngoài ra, e ngại xử phạt có thể khiến 
các doanh nghiệp đặt mục tiêu giảm thải “nhẹ 
nhàng”. Hiện nay, ở dự án thử nghiệm TVETS 
vẫn chưa có chế tài xử phạt nào được áp dụng: 
các cơ sở tham gia chỉ bị nhắc nhở để rút kinh 
nghiệm nhằm chuẩn bị tham gia hệ thống giao 
dịch phát thải bắt buộc vào năm 2020. Dù vậy, 
chế tài xử phạt được đề xuất hiện tại ở TVETS 
Thái Lan sẽ dựa theo Đạo luật Bảo tồn Năng 
lượng - đặt ra tiêu chuẩn và phương pháp hoạt 
động cũng như chế tài xử phạt cho các cơ sở sử 
dụng một lượng lớn năng lượng. Các cơ sởcó sai 
phạm trong báo cáo tiêu thụ năng lượng hoặc 
các quy trình liên quan tới sử dụng năng lượng. 
Tuy nhiên, khó khăn hiện tại Thái Lan đang gặp 
phải trong việc xây dựng mục tiêu và quy chuẩn 
bắt buộc là thiếu số lượng và hệ thống thông tin, 
cũng như một tiêu chuẩn thẩm định các dữ liệu 
thu được.
- Về những chính sách của Nhà nước đối với thị 
trường: Theo PMR (2013) và Sumetchoengprachaya 
(2014), nhà nước Thái Lan - thông qua Tổ chức 
Quản lý KNK Thái Lan (TGO) đã có những động 
thái hỗ trợ quá trình phát triển thị trường như sau: 
Ngoài việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu và vận 
hành thử nghiệm TVETS, năm 2014 nhà nước Thái 
Lan tiến hành áp mức trần phát thải tuyệt đối 
cho các cơ sở. Ngoài ra, nhà nước còn chịu trách 
nhiệm kiểm soát giá như trần giá và giá sàn. Do 
TVETS 2014 là dự án thử nghiệm, nhà nước Thái 
Lan hiện chưa có động thái kiểm soát các cơ sở 
tham gia hoặc xử phạt các trường hợp vi phạm 
hay can thiệp sâu vào giá thành. Nhà nước Thái 
Lan còn tổ chức một số hoạt động hỗ trợ TVETS 
như: Chương trình Đền bù các-bon Thái Lan 
(T-COP): trong đó mỗi cơ sở có thể tự nguyện 
tham gia. Đây được coi là một nền tảng giúp 
các cơ sở đền bù lượng phát thải KNK bằng cách 
đóng góp tài chính để thu lại tín chỉ các-bon; Chứng 
chỉ Sử dụng Năng lượng (EPC): một chương trình 
theo cơ chế mức trần và giao dịch nhằm giúp 
các nhà máy và tòa nhà thương mại nâng cao 
hiệu quả sử dụng năng lượng. Đối tượng tham 
gia bao gồm các cơ sở, nhà máy và tòa nhà có 
cường độ tiêu thụ năng lượng cao. Các cơ chế 
MRV hay thông tin dữ liệu hoặc hệ thống đăng 
ký tại EPC sẽ được sử dụng trong Hệ thống Giao 
dịch Phát thải Chính thức trong tương lai.
3.3. Thị trường các-bon Hàn Quốc
Năm 2011, Hàn Quốc phát hành thông tin về 
mức phát thải sử dụng làm kịch bản cơ sở Năm 
2011, Hàn Quốc phát hành thông tin về mức phát 
thải sử dụng làm kịch bản cơ sở và các mục tiêu 
giảm thải KNK cho mỗi lĩnh vực (GIR, 2011). Theo 
sau đó là Luật phân bổ và giao dịch hạn mức phát 
thải KNK vào năm 2012 (GIR, 2015) cho phép xây 
dựng và thực hiện thị trường các-bon. Năm 2014, 
Kế hoạch Chỉ đạo Xây dựng Hệ thống Giao dịch 
Phát thải và Pha 1 - Kế hoạch Phân phối Hạn ngạch 
76 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 6 - Tháng 6/2018
Quốc gia, cùng với Lộ trình Thực hiện Mục tiêu 
Giảm thiểu KNK Quốc gia (GIR, 2015). Dưới đây là 
một số mốc thời điểm quan trọng trong bối cảnh 
chính sách dẫn tới sự thành lập thị trường các-bon 
tại Hàn Quốc. Theo EDF (2015):
Năm 2009: Hàn Quốc tuyên thệ giảm 30% 
KNK so với mức của quốc gia năm 2020; Năm 
2010: Khung luật pháp về Phát triển xanh và 
các-bon thấp đi vào hoạt động; Năm 2011: Tuyên 
bố về mức phát thải trong kịch bản cơ sở; Năm 
2012: Đạo luật về Phân bố và giao dịch quyền 
phát thải KNK đi vào hoạt động; Năm 2014: 
Tuyên bố về kế hoạch phân bổ hạn mức cho 
phép phát thải quốc gia; Năm 2015: Thị trường 
giao dịch phát thải KNK đi vào hoạt động.
Theo EDF (2015), các cơ sở có lượng phát 
thải thường niên cao hơn 125.000 tấn CO
2
tđ, 
hoặc sở hữu cơ sở phát thải thường niên cao 
hơn 25.000 tấn CO
2
tđ phải tham gia Hệ thống 
giao dịch phát thải và nhập hạn ngạch của mỗi 
tấn CO
2
tđ sản xuất được. Đặc biệt, các cơ sở với 
mức phát thải cỡ trung và nhỏ được quyền tự 
nguyện tham gia Hệ thống giao dịch phát thải. 
Các loại khí nhà kính được phép giao dịch bao 
gồm CO
2
, N
2
O, HFC, PFC và SF6. Cũng theo tính 
toán của EDF (2015), pha hoạt động đầu tiên của 
Hệ thống Giao dịch Phát thải Hàn Quốc (2017 - 
2019) sẽ nhận được sự tham gia của 525 cơ sở 
ở 23 lĩnh vực nhỏ từ sản xuất thép, xi măng, hóa 
dầu, lọc dầu, năng lượng,
Cũng giống như các quốc gia khác, thị trường 
các-bon Hàn Quốc giao dịch theo mô hình “cap 
and trade”, các cơ sở tham gia hệ thống có 
quyền mua và bán tín chỉ phát thải trong trường 
hợp thừa hoặc thiếu tín chỉ phát thải. Các cơ sở 
tại Hàn Quốc cũng có quyền lấy tín chỉ từ các 
dự án Phát triển sạch (GIR, 2015). Ngoài ra, hệ 
thống giao dịch phát thải Hàn Quốc còn cho 
phép các cơ sở tham gia được quyền vay mượn 
tín chỉ từ cơ sở khác; tuy nhiên hiệu lực của việc 
vay mượn chỉ tồn tại trong 1 pha hoạt động 
(hiện nay là pha 1: 2017 - 2019). Từ 15/1/2014, 
sàn giao dịch Korea Exchange là cơ quan điều 
phối thị trường các-bon Hàn Quốc (KME, 2014). 
Các cơ sở tham gia được yêu cầu thực hiện kiểm 
kê KNK. Sau khi hoàn thành báo cáo kiểm kê 
do bên thứ 3 kiểm chứng và báo cáo chính phủ 
(Republic of Korea, 2012). Một khi báo cáo được 
cấp phép, các cơ sở được sắp xếp vào danh sách 
đăng ký hạn mức cho phép phát thải theo quy 
định của chính phủ (Republic of Korea, 2012). 
Ngoài ra các cơ sở tham gia cũng phải trừ hạn 
mức tương ứng với mức phát thải của năm 
trước đó (Republic of Korea, 2012). Cơ sở không 
tuân theo quy định của thị trường các-bon Hàn 
Quốc sẽ bị xử phạt không quá 3 lần mức giá mỗi 
tCO
2
tđ. Mức phạt tối đa là 10.000 won mỗi tấn 
CO
2
tđ, hoặc khoảng 91 USD/tCO
2
tđ (Republic of 
Korea, 2015).
Các doanh nghiệp sẽ nằm trong danh sách 
quản lý của Hệ thống quản lý mục tiêu khí nhà 
kính (TMS) nếu vượt qua các giới hạn sau đây: 
phát thải từ 50.000 tCO
2
tđ hoặc hơn mỗi năm và 
tiêu thụ hơn 200TJ năng lượng mỗi năm (đối với 
công ty), phát thải từ 15.000 tCO
2
tđ hoặc hơn 
mỗi năm và tiêu thụ hơn 80TJ năng lượng mỗi 
năm (đối với cơ sở) (Republic of Korea, 2011). 
Công ty hay cơ sở đủ chuẩn trong danh sách ETS 
sẽ không nằm trong danh sách của TMS (Republic 
of Korea, 2012).
Đối với các chính sách hỗ trợ thị trường: Trong 
quá khứ, Hàn Quốc từng ban hành chính sách hỗ 
trợ thuế và tài chính cho một số hoạt động giảm 
thiểu phát thải như chính sách khuyến khích giá 
năng lượng tái tạo từ năm 2002 và 2011. Vào 
năm 2012, mục tiêu phát triển năng lượng tái 
tạo được thay thế chính sách khuyến khích, trên 
14 ngành sản xuất năng lượng của Hàn Quốc 
có trách nhiệm gia tăng tỉ lệ năng lượng tái tạo, 
bao gồm năng lượng gió và mặt trời. Cũng trong 
năm 2012, mục tiêu phát triển năng lượng tái 
tạo chỉ ở mức 2%, sẽ tăng lên 10% vào năm 2022 
(Han, 2012). Hàn Quốc có kế hoạch xây dựng 
tiêu chuẩn kinh tế xăng dầu cho các phương tiện 
hạng nhẹ. Vào năm 2020, các tiêu chuẩn này sẽ 
giúp giảm 31,1% lượng KNK phát thải từ xe cộ, 
và 15,2% phát thải từ xe tải, so với mức phát 
thải năm 2013. Ngoài các chiến lược nêu trên, 
chính phủ Hàn Quốc còn xây dựng các mục tiêu 
giảm thiểu theo lĩnh vực, để đảm bảo đạt mục 
tiêu giảm thiểu chung và ở riêng từng lĩnh vực.
4. Những thuận lợi của Việt Nam khi tham gia 
phát triển thị trường các-bon nội địa
Đối với Việt Nam, khi tham gia vào các thỏa 
thuận và hiệp ước quốc tế trong ứng phó với 
BĐKH toàn cầu sẽ có điều kiện thúc đẩy hoạt 
động mua bán và trao đổi tín chỉ các-bon trong 
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 6 - Tháng 6/2018 
77
nước và quốc tế, do đó cùng với việc thực hiện 
CDM, tháng 11/2012, Thủ tướng Chính phủ 
đã ký Quyết định số 1775/QĐ-TTg phê duyệt 
Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà 
kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ 
các-bon ra thị trường thế giới với mục tiêu là 
quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính 
và quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ 
các-bon ra thế giới. Trong NDC đệ trình Ban 
Thư ký UNFCCC, Việt Nam đã cam kết đến năm 
2030 sẽ giảm 8% lượng phát thải KNK so với kịch 
bản phát triển thông thường và có thể giảm đến 
25% nếu nhận được hỗ trợ quốc tế. Đây là một 
hành động thiết thực của Việt Nam trong việc 
chung tay với thế giới để giảm lượng phát thải 
KNK, góp phần xây dựng Thỏa thuận Khí hậu 
toàn cầu mới, nhằm giữ cho nhiệt độ trái đất 
tăng dưới 2 độ C vào cuối thế kỷ 21 so với thời 
kỳ tiền công nghiệp, đồng thời là điều kiện quan 
trọng để thúc đẩy sự phát triển của thị trường 
các-bon tại Việt Nam.
Ngoài ra, Việt Nam cũng có thế mạnh đối 
với tạo tín chỉ các-bon, điều này được thể hiện 
trong tiềm năng về giảm phát thải khí nhà kính 
của Việt Nam trong NDC đó là việc ước tính tiềm 
năng giảm phát thải đối với lĩnh vực như: lĩnh 
vực năng lượng tiềm năng giảm phát thải từ 
các phương án (khoảng 76 triệu tấn CO
2
 tương 
đương); lĩnh vực nông nghiệp (khoảng 45 triệu 
tấn CO
2
 tương đương); lĩnh vực sử dụng đất, 
thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (khoảng 66 
triệu tấn CO
2
 tương đương); đối với lĩnh vực chất 
thải (khoảng 24 triệu tấn CO
2
 tương đương). 
Bên cạnh đó, các dự án về trồng rừng làm tăng 
khả năng hấp thụ khí nhà kính, các dự án CDM 
hay các các hành động giảm nhẹ BĐKH phù hợp 
với điều kiện quốc gia (NAMAs) khi được thực 
hiện cũng sẽ tạo một nguồn tín chỉ các-bon để 
thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và 
ngoài nước.
Những nỗ lực trong việc cam kết cắt giảm 
phát thải KNK của Việt Nam đã nhận được sự 
quan tâm của các đối tác phát triển, trong đó 
có sự hỗ trợ tích cực của 2 nhà tài trợ như Ngân 
hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á 
thông qua Dự án “Sẵn sàng tham gia thị trường 
các-bon” (PMR) triển khai trong 3 năm (2015 - 
2018). Dự án bao gồm 3 hợp phần: Xây dựng 
chính sách cho việc xây dựng thị trường các-bon 
trong nước và tham gia thị trường các-bon quốc 
tế; Thí điểm xây dựng thiết kế tạo tín chỉ các-bon 
trong lĩnh vực sản xuất thép và quản lý chất thải 
rắn; Nghiên cứu và tăng cường năng lực. Dự án 
do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì với sự 
tham gia của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài 
chính, Công Thương, Xây dựng và một số doanh 
nghiệp trong lĩnh vực sản xuất thép và quản lý 
chất thải rắn. Đây là một dự án thí điểm nhằm 
hướng tới phát triển của thị trường các-bon tại 
Việt Nam. Tuy nhiên, dự án đang triển khai ở giai 
đoạn đầu và hướng tới các dự án cụ thể, chưa đi 
sâu nghiên cứu và phân tích về cơ sở khoa học 
cho việc hình thành một thị trường các-bon nội 
địa tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, trong quá trình phát triển, các 
ngành kinh tế vẫn chủ yếu sử dụng các công 
nghệ tương đối lạc hậu so với thế giới nên khả 
năng cải tiến công nghệ để giảm thiểu phát 
thải KNK cũng rất lớn (chi phí giảm 1 tấn KNK 
sẽ thấp), đặc điểm này vừa tạo điều kiện cho 
thị trường các-bon vừa thúc đẩy hoạt động đầu 
tư với các doanh nghiệp nước ngoài. Ngoài ra, 
Chính phủ đang có chủ trương chuyển đổi cơ 
cấu kính tế theo hướng bền vững, có chú ý đến 
phát triển các ngành kinh tế ít các-bon cũng 
là yếu tố có lợi cho việc tham gia thị trường 
các-bon của Việt Nam. 
Như vậy, có thể thấy việc xây dựng thị trường 
các-bon tại Việt Nam có ý nghĩa thực tiễn rất 
lớn, sẽ góp phần giúp Việt Nam cùng với thế giới 
đạt được mục tiêu giảm khí nhà kính. Bên cạnh 
đó sẽ tranh thủ sự huy động nguồn tài chính 
quốc tế, trong nước, các doanh nghiệp, các nhà 
đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này, song song với 
nó là mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển 
bền vững. Tuy nhiên để thị trường các-bon hoạt 
động được một cách hiệu quả trước hết phải 
lưu ý một số điểm đó là: cần phải xác định được 
những ngành/lĩnh vực cụ thể có tiềm năng và dễ 
dàng sau này cho hệ thống MRV, một hệ thống 
bắt buộc để đảm bảo ETS có thể vận hành một 
cách minh bạch, rõ ràng. Bên cạnh đó, cần phải 
huy động mọi nguồn lực tham gia, đặc biêt là 
tạo ra động lực cho doanh nghiệp giảm phát 
thải và tạo ra cơ chế đồng có lợi cho các bên 
tham gia vào thị trường. Cơ chế tuân thủ cần 
phải có để đảm bảo tính công bằng cho sự hoạt 
động của thị trường,
78 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 6 - Tháng 6/2018
5. Kết luận 
Từ những phân tích ở trên có thể nhận thấy, 
trên thế giới nhu cầu về mua bán tín chỉ các-bon 
đã trở nên cấp thiết và bắt buộc khi có Nghị định 
thư Kyoto với việc hình thị trường các-bon bắt 
buộc và thị trường các-bon tự nguyện, đặc biệt 
hiện nay, trong xu thế BĐKH toàn cầu, với việc 
phải đệ trình và thực hiện NDC, đây được xem 
là một yếu tố cơ bản và quyết định đối với hoạt 
động của thị trường các-bon trên thế giới cũng 
như thị trường các-bon nội địa. Một số quốc gia 
đã thử nghiệm và vận hành mang lại một số hiệu 
quả nhất định phải kể đến như Trung Quốc, Thái 
Lan, Hàn Quốc. Tại Việt Nam. Việc phát triển thị 
trường các-bon nội địa sẽ góp phần mang lại 
một số thành tựu nhất định không chỉ ở mục 
tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính mà còn tận 
dụng được các cơ hội tài chính để phát triển 
kinh tế phục vụ mục tiêu bảo vệ mội trường và 
phát triển bền vững. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định, Nhà xuất bản 
Tài nguyên, Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.
2. Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2013), Hướng dẫn kỹ thuật xây dựng các các hành động giảm nhẹ 
biến đổi khí hậu phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMA), Nhà xuất bản Tài nguyên, Môi trường và 
Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.
3. Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2014), Dự án VNPMR của Chương trình “Hợp tác chuẩn bị sẵn sàng 
cho xây dựng thị trường các-bon” quốc tế.
4. Thủ tướng Chính phủ (2012), Đề án “Quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt 
động kinh doanh tín chỉ các bon ra thị trường thế giới” theo Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 21 
tháng 11 năm 2012. 
5. 
6. Y.G. Wang, China’s carbon emission trading scheme design research, Economic Management Press, 
Beijing (2011).
THE NEED FOR CARBON MARKET IN VIETNAM
Nguyen Thi Lieu(1), Nguyen Trung Anh(1), Vu Dinh Nam(2)
(1)Viet Nam Institute of Meteorology, Hydrology and Climate Change
(2)Ministry office, Ministry of Natural Resources and Environment
Received: 15 May 2018; Accepted: 26 June 2018
Abstract: Nowadays, development of carbon markets has been marked as an urgent need due to 
its corresponding economic gains, environmental protection merits, sustainable development goal, international 
relationship establishment via scientific, technology and financial investment activities. This research 
discusses voluntary carbon market model and its potential of application in Viet Nam. In addition, its 
general analysis and assessment of the international needs for carbon market, the current status of countries’ 
carbon market development, analysis and opinion on the advantages of Viet Nam’s context shall lend a 
strong ground for the country’s carbon market development.
Keywords: Carbon market, emission trading system, Kyoto Protocol, Paris Agreement.

File đính kèm:

  • pdfsu_can_thiet_hinh_thanh_thi_truong_cac_bon_tai_viet_nam.pdf