Nghiên cứu tổng hợp nano Mn3O4 và khả năng quang xúc tác của chúng

Nano Mn3O4 particles were synthesized by the combustion of gel from polyvinyl acohol (PVA) and

tartaric acid (TA). Factors affecting on Mn3O4 formation such as the pH of solution, temperature of gel

formation, mole ratio of TA:PVA, mole ratio of Mn:(TA:PVA), temperature of calcination were

investigated. The structure of Mn3O4 particles were characterized by Differential Thermal Analysis, XRay Diffraction and Field Emission Scanning Electron Microscopy measurement. The results showed

that single-phase Mn3O4 was smaller than 60 nm of average grain size. The nanostructured Mn3O4 was

used to investigate the photocatalytic capacity under the visible light irradiation. The results indicated

that Mn3O4 catalysts showed a rather high photocatalytic ability to decompose the organophosphorous

pesticide: parathion. The intermediates coming from the photocatalytic degradation were identified by

gas chromatography – mass spectrometer. The results showed that the intermediates of degradation

reactions were not more toxic than the initial substances.

pdf 6 trang yennguyen 6420
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tổng hợp nano Mn3O4 và khả năng quang xúc tác của chúng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tổng hợp nano Mn3O4 và khả năng quang xúc tác của chúng

Nghiên cứu tổng hợp nano Mn3O4 và khả năng quang xúc tác của chúng
Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 24, Số 1/2019 
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP NANO Mn3O4 VÀ KHẢ NĂNG QUANG XÚC TÁC CỦA CHÚNG 
Đến tòa soạn 2-11-2018 
Nguyễn Vũ Ngọc Mai 
Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Khoa Hóa - Trường Đại học Quy Nhơn 
 Đoàn Trung Dũng 
Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Dương Thị Lịm 
Viện Địa Lý - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Đào Ngọc Nhiệm 
Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
SUMMARY 
SYNTHESIZE OF NANO OXIT Mn3O4 AND INVESTIGATE ITS 
PHOTOCATALYTIC PROPERTIES 
Nano Mn3O4 particles were synthesized by the combustion of gel from polyvinyl acohol (PVA) and 
tartaric acid (TA). Factors affecting on Mn3O4 formation such as the pH of solution, temperature of gel 
formation, mole ratio of TA:PVA, mole ratio of Mn:(TA:PVA), temperature of calcination were 
investigated. The structure of Mn3O4 particles were characterized by Differential Thermal Analysis, X- 
Ray Diffraction and Field Emission Scanning Electron Microscopy measurement. The results showed 
that single-phase Mn3O4 was smaller than 60 nm of average grain size. The nanostructured Mn3O4 was 
used to investigate the photocatalytic capacity under the visible light irradiation. The results indicated 
that Mn3O4 catalysts showed a rather high photocatalytic ability to decompose the organophosphorous 
pesticide: parathion. The intermediates coming from the photocatalytic degradation were identified by 
gas chromatography – mass spectrometer. The results showed that the intermediates of degradation 
reactions were not more toxic than the initial substances. 
Keywords: Nanostructured Mn3O4, tartaric acid, PVA, methyl organic, photocatalytic. 
1. MỞ ĐẦU 
Hiện nay, sự gia tăng dân số ngày càng nhanh 
đã tạo ra gánh nặng cho nền sản xuất nông 
nghiệp, vì cùng với một diện tích canh tác nhất 
định và đang có xu hướng bị thu hẹp lại phải 
cung cấp đủ số lượng lương thực cho số đầu 
người luôn gia tăng. Vì vậy, để tăng năng suất 
lao động, con người đã sử dụng nhiều biện 
pháp đan xen như: thâm canh tăng vụ, cải. tiến 
giống...trong đó, một trong những biện pháp 
không thể thiếu là sử dụng thuốc bảo vệ thực 
vật (BVTV). 
Mặc dù thuốc bảo vệ thực vật có vai trò rất 
quan trọng trong phát triển nông nghiệp, tuy 
nhiên, việc sử dụng thuốc BVTV không đúng 
nồng độ và liều lượng; không tuân thủ đúng 
thời gian cách ly; sử dụng thuốc BVTV không 
có trong danh mục thuốc BVTV được sử dụng 
[1-3] đã để lại dư lượng hóa chất này trong môi 
trường rất lớn, đặc biệt trong nguồn nước thải, 
147
 gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe con 
người và môi trường sinh thái. Các loại hóa 
chất tồn lưu này chủ yếu là các loại hóa chất 
độc hại thuộc nhóm chất hữu cơ khó phân hủy 
trong môi trường như: DDT, Lindan, Endrin, 
Dieldrin, Parathion Đồng thời, chúng có độc 
tính rất cao, rất dễ xâm nhập vào cơ thể qua 
con đường hô hấp, miệng và da, sau đó tồn trữ 
rất lâu trong các mô mỡ, gây tác động tới hệ 
thần kinh, đột biến di truyền và rất ít bị đào 
thải [4]. 
Hầu hết các loại thuốc trừ sâu cơ khó phân hủy 
đã bị cấm sử dụng trong sản xuất nông nghiệp 
như aldrin, chlordane, dieldrin, DDT, 
endrin...Cũng giống như các hóa chất BVTV 
trên, parathion đã từng được sử dụng rất nhiều 
trong nền nông nghiệp ở Việt Nam do đặc tính 
trừ sâu rất mạnh, phổ phòng trừ rộng, tuy nhiên 
nó cực độc với sinh vật và cả con người nên đã 
bị cấm sử dụng. Mặc dù vậy, theo một số 
nghiên cứu vẫn cho thấy sự tồn tại của dư 
lượng một số các loại thuốc trừ sâu đã bị cấm 
sử dụng này trong hoa màu, đất trồng trọt, trầm 
tích sông... [5-10]. Thêm vào đó là thói quen 
canh tác lạc hậu của người nông dân, sử dụng 
bừa bãi thuốc BVTV cũng như tính bền vững 
của chúng, dư lượng hóa chất BVTV nói chung 
và parathion nói riêng trong môi trường vẫn là 
một mối đe dọa đến sức khỏe con người. Vì 
vậy, việc nghiên cứu các phương pháp xử lý 
các hóa chất độc này trong đó có parathion là 
hết sức cần thiết. Có nhiều phương pháp xử lý 
parathion như phương pháp đông tụ, hấp phụ, 
sinh học  [11-13] trong đó phương pháp oxi 
hóa nâng cao là giải pháp công nghệ rất được 
quan tâm nghiên cứu và ứng dụng nhiều nhất 
trong những năm gần đây [14 -16] đã cho thấy 
khả năng xử lí tốt các chất hữu cơ khó phân 
hủy sinh học bao gồm cả parathion. 
Phương pháp oxi hóa nâng cao với quá trình 
quang xúc tác sử dụng chất xúc tác là các kim 
loại quý, các kim lại chuyển tiếp được quan 
tâm nghiên cứu [17, 18]. Trong số các oxit của 
kim loại chuyển tiếp được sử dụng như sắt 
oxit, titan oxit, kẽm oxitmangan oxit cho 
thấy được độ ổn định cũng như có hoạt tính 
xúc tác cao, chi phí thấp, thân thiện với môi 
trường [19]. Cùng với quá trình hình thành các 
gốc tự do hoạt động hydroxyl OH - một tác 
nhân oxi hóa mạnh được tạo ra ngay trong quá 
trình xử lý, có khả năng phân hủy oxi hóa 
không chọn lọc mọi hợp chất hữu cơ, dù là loại 
khó phân hủy nhất, biến chúng thành những 
hợp chất vô cơ (hay gọi là khoáng hóa) không 
độc hại như CO2, H2O, các axit vô cơ...[20]. 
2. THỰC NGHIỆM 
2.1. Hóa chất 
Các hóa chất dùng để tổng hợp vật liệu gồm: 
Mn(NO3)2 (50%), NH4OH, HNO3, polyvinyl 
acohol (PVA), axit tactaric (AT) đều có độ 
sạch phân tích. 
Parathion (O, O-diethyl-O-(4-nitrophenyl) 
phosphorothioate) (99.9 %), các hóa chất dùng 
cho phân tích GC/MS/MS như axeton, n – 
hexan, Na2SO4đều ở dạng tinh khiết phân 
tích. 
2.2. Thí nghiệm tổng hợp vật liệu 
Mẫu được tổng hợp bằng cách hòa tan một 
lượng hỗn hợp chất tạo gel (AT + PVA) vào 
nước ở một nhiệt độ thích hợp đến khi tan hết 
tạo thành hệ trong suốt. Cho một lượng 
Mn(NO3)2 vào hệ trên để tạo ra một hệ gel 
đồng nhất. Thay đổi các thông số ảnh hưởng 
đến quá trình hình thành đơn pha của nano oxit 
cần tổng hợp đến khi thu được sản phẩm mong 
muốn. 
2.3. Thí nghiệm quang xúc tác 
Các thí nghiệm được thực hiện trên hệ thiết bị 
quang xúc tác Ace (Mỹ) với đèn thủy ngân 450 
W có bước sóng trong vùng khả kiến (400 nm 
– 700 nm), khoảng cách từ tâm đèn đến bề mặt 
dung dịch là 15 cm được đặt tại Viện khoa học 
vật liệu. Dung dịch ban đầu chứa parathion với 
nồng độ xác định được cho vào hệ phản ứng có 
hàm lượng chất xúc tác là 0,1 g/L. Dung dịch 
được khuấy trong bóng tối 4 giờ để đạt được 
sự cân bằng hấp phụ và sự phân tán đồng đều 
của các hạt xúc tác. Phản ứng được tiến hành 
trong 90 phút. Sau thời gian phân hủy, các 
dung dịch được li tâm tách loại bột xúc tác để 
xác định hàm lượng parathion bằng 
GC/MS/MS. 
Hiệu suất của quá trình quang xúc tác phân hủy 
parathion được xác định theo công thức sau: 
148
Trong đó: 
Co: Nồng độ ban đầu của parathion (ppm) 
Ct: Nồng độ parathion sau thời gian phản ứng t 
(ppm) 
2.4. Phương pháp phân tích 
Giản đồ phân tích nhiệt được ghi trên máy 
Labsys TG/DSC - Setaram (Pháp) trong không 
khí với tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút. Giản đồ 
nhiễu xạ tia X được đo trên máy D8 
ADVANCE (Bruker, Đức) với bức xạ CuKα 
(bước sóng 0,15406 nm) với góc quét 2θ = 
20÷70o đặt tại Khoa Hóa – Đại học Khoa học 
tự nhiên. Ảnh hình thái học của vật liệu được 
chụp bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM) 
JEOL– 5300 (Nhật Bản) tại Viện Khoa học vật 
liệu. Parathion được phân tích bằng thiết bị 
GC/MS/MS 7000 Agilent (Nhật Bản) tại Viện 
Địa lí – Viện Khoa học và Công nghệ Việt 
Nam. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu gel 
Mẫu gel được tổng hợp ở các điều kiện sau: pH 
= 4, tỉ lệ AT/PVA = 1/1, tỉ lệ Mn2+/(AT/PVA) 
= 1:3, nhiệt độ tạo gel 80οC. Kết quả phân tích 
nhiệt của mẫu được trình bày ở hình 1. 
 Trên giản đồ phân tích nhiệt của mẫu cho 
thấy có một hiệu ứng giảm khối lượng 2,80 % 
trong khoảng nhiệt độ từ 50οC đến 100oC, sự 
giảm khối lượng này là do sự mất nước trên bề 
mặt mẫu gel. Tiếp theo là hiệu ứng giảm khối 
lượng 36,2 % trong khoảng nhiệt độ từ 100οC 
đến 250οC, tương ứng với píc tỏa nhiệt ở 
180,30 C trên đường DTA. 
Sample Temperature (°C)
8007006005004003002001000
TG
 (m
g)
0
-0.5
-1
-1.5
-2
-2.5
-3
-3.5
-4
-4.5
H
ea
tF
lo
w
 (m
W
) 150
100
50
0
-50
-100
T: 341.69 (°C)
Exo
T: 180.31 (°C)
Δm (mg) -0.134 
Δm (%) -2.845 
Δm (mg) -1.703 
Δm (%) -36.242 
Δm (mg) -2.564 
Δm (%) -54.561 
Hình 1. Giản đồ phân tích nhiệt của mẫu gel 
Sự giảm khối lượng này có thể là do sự phân 
hủy axit tactaric có trong mẫu. Trong khoảng 
nhiệt độ từ 250οC đến 500οC, xuất hiện píc tỏa 
nhiệt 341,70οC trên đường DTA với hiệu ứng 
giảm khối lượng 54,6 % trên đường TG. Hiệu 
ứng này có thể là do phản ứng cháy của PVA 
có trong mẫu gel. Khi nhiệt độ lớn hơn 500oC, 
khối lượng của mẫu gần như không thay đổi, 
lúc này có thể sản phẩm nano oxit mangan 
được tạo thành. 
3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung đến quá 
trình hình thành pha oxit mangan 
Từ giản đồ phân tích nhiệt cho thấy các hiệu 
ứng nhiệt tương ứng để tạo thành các chuyển 
pha sản phẩm rõ hơn trong quá trình nung. 
Mẫu gel tổng hợp được nung ở các nhiệt độ 
khác nhau ở 300οC, 400οC, 450οC, 500οC, 
600οC trong 2 giờ. Kết quả phân tích sự hình 
thành pha của các mẫu được nung ở nhiệt độ 
khác nhau được phân tích trên máy D8 
ADVANCE và ghi lại ở hình 2. 
Dựa vào hình 2 ta thấy ở nhiệt độ nung 300 οC 
đã bắt đầu hình thành pha của Mn3O4 nhưng 
các pic chưa rõ nét. Khi tăng nhiệt độ lên 
400οC ÷500οC, các pic đơn pha của oxit 
mangan Mn3O4 xuất hiện rõ ràng. Khi nung 
mẫu ở 600oC ngoài pha oxit mangan Mn3O4 
còn xuất hiện thêm pic lẫn của Mn2O3. Vì vậy, 
trong các thí nghiệm tiếp theo đã chọn giá trị 
của nhiệt độ nung là 500οC. 
Hình 2. Giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu 
nung ở nhiệt độ khác nhau 
3.3. Ảnh hưởng của pH 
Tổng hợp mẫu ở các điều kiện như sau: nhiệt 
độ tạo gel 80oC, tỉ lệ AT/PVA = 1:1, tỉ lệ 
Mn2+/(AT+PVA) = 1/3, giá trị nhiệt độ nung 
149
 được chọn là 500οC ở thí nghiệm trên, thay đổi 
giá trị pH = 1, 2, 3, 4. Giản đồ nhiễu xạ tia X 
của các mẫu được chỉ ra trong hình 3. 
Hình 3. Giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu ở 
pH khác nhau 
Dựa vào kết quả hình 3 cho thấy ở các pH khác 
nhau đều hình thành đơn pha Mn3O4. Ở đây 
chọn giá trị pH = 4 vì ở giá trị pH này các pic 
của Mn3O4 hình thành rõ ràng. 
3.4. Ảnh hưởng của tỉ lệ AT và PVA 
Tổng hợp mẫu ở các điều kiện như sau: nhiệt 
độ tạo gel 80oC, pH = 4, tỉ lệ Mn2+/(AT+PVA) 
= 1:3, nhiệt độ nung là 500οC, thay đổi giá trị tỉ 
lệ AT/PVA = 6:1, 3:1, 1:1, 1:3, 1:6. Giản đồ 
nhiễu xạ tia X của các mẫu được chỉ ra trong 
hình 4. 
Hình 4. Giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu ở 
các tỉ lệ AT/PVA khác nhau 
Ở các tỉ lệ khác nhau về chất tạo gel AT và 
PVA không ảnh hưởng đến khả năng hình 
thành pha của Mn3O4. Ở đây giá trị được chọn 
là 1:1. 
3.5. Ảnh hưởng của tỉ lệ Mn2+/(AT+PVA) 
Tổng hợp mẫu ở các điều kiện như sau: nhiệt 
độ tạo gel 80 oC, pH 4, tỉ lệ AT/PVA 
Mn2+/(AT+PVA) = 1:3, nhiệt độ nung là 500 
οC, thay đổi giá trị tỉ lệ AT/PVA = 6:1, 3:1, 
1:1, 1:3, 1:6. Giản đồ nhiễu xạ tia X của các 
mẫu được chỉ ra trong hình 5. 
Hình 5. Giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu ở 
các tỉ lệ Mn2+/(AT+PVA) khác nhau 
Kết quả hình 5 cho thấy, ở các tỉ lệ 
Mn2+/(AT+PVA) = 6:1, 3:1, 1:1 hình thành 
đơn pha của Mn2O3. Muốn tổng hợp được đơn 
pha của Mn3O4 tỉ lệ này phải thay đổi là 1:3 
hoặc 1:6. Ở đây chọn tỉ lệ Mn2+/(AT+PVA) = 
1:3 để tổng hợp đơn pha của Mn3O4. 
3.6. Ảnh hưởng của nhiệt độ tạo gel 
Mẫu được tổng hợp ở các điều kiện thích hợp 
được lựa chọn trong các thí nghiệm ở trên về 
giá trị nhiệt độ nung là 500οC, pH 4, tỉ lệ 
AT/PVA Mn2+/(AT+PVA) = 1:3, tỉ lệ AT/PVA 
= 1:1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu 
được chỉ ra trong hình 6. 
Hình 6. Giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu ở 
các giá trị nhiệt độ tạo gel khác nhau 
Kết quả hình 6 cho thấy ở nhiệt độ 40οC – 80 
οC đều hình thành đơn pha của Mn3O4, tuy 
nhiên khi tổng hợp mẫu ở nhiệt độ tạo gel thấp 
thời gian phản ứng dài ( ở 40οC là 8 giờ, 60οC: 
4 giờ). Tiếp tục tăng nhiệt độ lên 100oC, xuất 
hiện thêm pha nhiễu của Mn2O3. Vì vậy, ta 
chọn nhiệt độ tạo gel 80οC với thời gian tổng 
hợp mẫu 2 giờ để tạo sản phẩm là các hạt nano 
đơn pha Mn3O4. 
150
Vật liệu nano mangan oxit tổng hợp ở điều 
kiện thích hợp về nhiệt độ nung (500οC), pH 4, 
tỉ lệ AT/PVA (1:1), tỉ lệ Mn2+/(AT+PVA) 
(1:3), nhiệt độ tạo gel (80οC) được đem xác 
định vi hình thái học. Kết quả ảnh SEM của 
mẫu được tổng hợp ở điều kiện khảo sát hình 7 
cho thấy vật liệu thu được cho các hạt hình cầu 
có kích thước cỡ hạt khoảng < 60 nm. 
Hình 7. Ảnh SEM của vật liệu Mn3O4 ở các 
điều kiện thích hợp 
3.7. Quá trình quang xúc tác phân hủy 
parathion của vật liệu Mn3O4 
Parathion có nồng độ ban đầu 1,2 ppm được 
cho vào hệ thiết bị phản ứng như mục 2.3 với 
thể tích 250 mL. Sau các thời gian phản ứng 
khác nhau 0, 15, 30, 60 và 90 phút. Nồng độ 
trước và sau phản ứng được đem đi phân tích 
trên thiết bị GC/MS/MS 7000 Agilent. Kết quả 
phân tích và tính toán hiệu suất phân hủy 
parathion của vật liệu nano Mn3O4 được ghi lại 
ở hình 8. 
Hình 8. Hiệu suất xử lí parathion của quá trình 
quang xúc tác với nano Mn3O4 theo thời gian 
Kết quả phân tích cho thấy ở các thời gian 
phản ứng hiệu suất phân hủy parathion khá cao 
( > 90 %). Các chất trung gian hình thành trong 
quá trình phân hủy parathion bằng cách cắt 
mạch tạo thành các gốc tự do như CH3*, CH3-
CH2*, CH3-CH2-O*(Hình 9) quá trình mở 
vòng,sau đó các gốc tự do này kết hợp với 
nhau tạo thành các chất bền. Quá trình quang 
xúc tác phân hủy parathion của các hạt nano 
Mn3O4 ở thời gian ngắn với hiệu suất phân hủy 
cao (> 90 %) các sản phẩm trung gian hình 
thành có cấu trúc đơn giản hơn ít ô nhiễm hơn 
chất ban đầu, tạo điều kiện thuận lợi cho quá 
trình khoáng hóa hoàn toàn parathion. Các chất 
trung gian hình thành được phân tích bằng 
GC/MS/MS có thể bao gồm: 3 – decanol (rt = 
4,769 phút), butanoic acid 2,3-dimethyl-methyl 
ester (rt = 5,487 phút), tripropyl phosphate (rt 
= 10,269 phút), E-8-methyl – 9 – tetradecen -1- 
olacetate (rt = 12,337 phút), 4-Heptanol 4-
propyl (rt =9,512 phút) (hình 10). 
Hình 9. Cấu trúc của parathion (đường nét đứt 
chỉ con đường có thể phân hủy) 
Hình 10. GC/MS/MS của a. parathion ban đầu 
và b. sau 90 phút phản ứng 
4. KẾT LUẬN 
Đã tổng hợp thành công các hạt nano Mn3O4 
bằng phương pháp sol gel với chất tạo gel là 
AT và PVA. Các hạt nano oxit tạo ra có kích 
thước tương đối đồng đều với cỡ hạt < 60 nm. 
(a) 
(b) 
151
 Quá trình quang xúc tác phân hủy parathion 
của các hạt nano Mn3O4 ở thời gian ngắn với 
hiệu suất phân hủy cao (> 90 %) các sản phẩm 
trung gian hình thành có cấu trúc đơn giản hơn 
ít ô nhiễm hơn chất ban đầu, tạo điều kiện 
thuận lợi cho quá trình khoáng hóa hoàn toàn 
parathion. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Phan Nhân, Bùi Thị Nga, Phạm 
Văn Toàn (2015). Sử dụng thuốc bảo vệ thực 
vật và quản lí bao bì chứa thuốc trong canh tác 
lúa tại tỉnh Hậu Giang. Tạp chí Khoa học 
Trường Đại học Cần Thơ, số chuyên đề: môi 
trường và biến đổi khí hậu, 41 – 49. 
2. Lê Văn Cường, Ngô Thị Thuận (2017). Sự 
tuân thủ nguyên tắc sử dụng thuốc BVTV của 
nông dân trong sản xuất rau trên địa bàn thành 
phố Thanh Hóa. Tạp chí Khoa học Nông 
nghiệp Việt Nam, 15, 689 – 698. 
3. Phạm Văn Toàn (2013). Thực trạng sử 
dụng thuốc bảo vệ thực vật và một số giải pháp 
giảm thiểu việc sử dụng thuốc không hợp lý 
trong sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu 
Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần 
Thơ, 28, 47 – 53. 
4. Tổng cục môi trường (2015). Hiện trạng ô 
nhiễm môi trường do hóa chất bảo vệ thực vật 
tồn lưu thuộc nhóm chất hữu cơ khó phân hủy 
tại Việt Nam. 
5. Nguyễn Phan Nhân, Bùi Thị Nga, Phạm 
Văn Toàn và Trần Trung Bảy (2016). Dư 
lượng hoạt chất propiconazole trong đất ruộng 
và trong bùn đáy trên kênh nội đồng tại tỉnh 
Hậu Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học 
Cần Thơ, 47a, 32-39. 
6. N.D.G.Chau, Z. Sebesvari, W. Amelung 
and F.G. Renaud (2015). Pesticide pollution of 
multiple drinking water sources in the Mekong 
Delta, Vietnam: evidence from two provinces. 
Environmental Science and Pollution 
Research, 22 (12): 9042 – 9058. 
7. Trịnh Thị Thắm, Trần Mạnh Trí, Hoàng 
Quốc Anh, Trần Đăng Quy, Đặng Văn Đoàn, 
Nguyễn Đức Huệ, Từ Bình Minh (2016). Mức 
độ ô nhiễm và sự phân bố của một số hóa chất 
bảo vệ thực vật clo hữu cơ trong trầm tích tại 
vùng biển ngoài khơi từ Hà Tĩnh đến Thừa 
Thiên – Huế, Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại 
học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Tự nhiên và 
Công nghệ, 32 (3), 6-11. 
8. Lê Văn Thiện (2009). Dư lượng thuốc bảo 
vệ thực vật trong môi trường nước và trầm tích 
đáy vùng chuyên canh hoa xã Tây Tựu, huyện 
Từ Liêm, Hà Nội. Tạp chí Khoa học trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội, 5, 3-12. 
9. Takuro Nishina, Chu Ngoc Kien, Nguyen 
Van Noi, Ha Minh Ngoc, Chul-sa Kim, Sota 
Tanaka, Kozo Iwasaki. (2010). Pesticide 
residues in agricultural soils from the Red 
River Delta, northern Vietnam. Environmental 
Monitoring and Assesssment, 169, 285 – 297. 
10. Nhan, D. D., Am, N. M., Hoi, N. C., Dieu, 
L. V., Carvalho, F. P., Villeneuve, J-P., and 
Cattini, C. (1998). Organochlorine pesticides 
and PCBs in the Red River Delta, Northern 
Vietnam. Marine Pollution Bulletin, 36, 742-
749. 
11. Konstantinos V. Plakas, Anastasios J. 
Karabelas (2012). Removal of pesticides from 
water by NF and RO membranes – A review, 
Desalination, 287, 255 – 265. 
12. Phạm Thị Lệ Hà, Trần Thị Thủy, Nguyễn 
Duy Hạng (2006). Sử dụng nguyên tố đồng vị 
phóng xạ để nghiên cứu khả năng phân giải 
thuốc trừ sâu lân hữu cơ (dimetoat) của vi 
khuẩn. Tạp chí Sinh học, 28 (2), 68 – 76. 
13. Nguyễn Thanh Hải, Nguyễn Đức Hùng, Võ 
Thành Vinh, Đỗ Đăng Hưng (2015). Khảo sát 
khả năng phân hủy 2,4D và 2,4,5T của dung 
dịch nano Cuo điều chế bằng phương pháp 
điện hóa, Tạp chí Nghiên cứu khoa học và 
công nghệ quân sự, số Đặc san Viện Hóa học – 
Vật liệu. 
14. Cruz-Alcalde A, Sans C, Esplugas S 
(2018). Priority pesticide dichlorvos removal 
from water by ozonation process: Reactivity, 
transformation products and associated 
toxicity. Separation and Purification 
Technology, 192, 123-129. 
(xem tiếp tr. 146)
152

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tong_hop_nano_mn3o4_va_kha_nang_quang_xuc_tac_cua.pdf