Nhân tố hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ
Tóm tắt: Vai trò kiến trúc trong xã hội chúng ta là hết sức quan trọng. Thiết kế và xây dựng
các công trình luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi cá nhân, mọi tầng lớp, tổ chức xã
hội, nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần, đồng thời thúc đẩy quá trình phát triển
xã hội. Kiến trúc Việt hình thành và phát triển trong suốt một thời gian dài của lịch sử, là một
di sản văn hoá quí báu cho các thế hệ lưu giữ, tìm hiểu, nghiên cứu để kế thừa và phát huy
trên con đường xây dựng nền kiến trúc đương đại. Mục tiêu cơ bản của bài viết về "Nhân tố
hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ" là tìm hiểu sự dung hoà và tiếp
biến những sắc thái dân gian trong các thực thể kiến trúc khu vực miền Nam Trung Bộ. Qua
đó liên hệ, đúc kết những nhận định về thực tiễn của công tác bảo tồn trùng tu các công trình
kiến trúc dân gian xưa và khuynh hướng phát triển của kiến trúc này trong thời đại mới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân tố hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 68 NHÂN TỐ HÌNH THÀNH SẮC THÁI KIẾN TRÚC DÂN GIAN VÙNG NAM TRUNG BỘ (Tiểu vùng ba tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa) ThS. NCS. kts. Trần Văn Hiến Phó Khoa Kiến trúc, trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Vai trò kiến trúc trong xã hội chúng ta là hết sức quan trọng. Thiết kế và xây dựng các công trình luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi cá nhân, mọi tầng lớp, tổ chức xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần, đồng thời thúc đẩy quá trình phát triển xã hội. Kiến trúc Việt hình thành và phát triển trong suốt một thời gian dài của lịch sử, là một di sản văn hoá quí báu cho các thế hệ lưu giữ, tìm hiểu, nghiên cứu để kế thừa và phát huy trên con đường xây dựng nền kiến trúc đương đại. Mục tiêu cơ bản của bài viết về "Nhân tố hình thành sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ" là tìm hiểu sự dung hoà và tiếp biến những sắc thái dân gian trong các thực thể kiến trúc khu vực miền Nam Trung Bộ. Qua đó liên hệ, đúc kết những nhận định về thực tiễn của công tác bảo tồn trùng tu các công trình kiến trúc dân gian xưa và khuynh hướng phát triển của kiến trúc này trong thời đại mới. 1. Sắc thái kiến trúc dân gian vùng Nam Trung Bộ Việc tổ chức kiến trúc ngôi nhà dân gian được bắt đầu từ việc chuẩn bị đất xây dựng sau đó mới tới hình thức kiến trúc, vật liệu và kỹ thuật xây dựng. 1.1. Phong thủy nhà dân gian Quan điểm chủ đạo trong việc chọn vị trí đất và nhà dân gian trong xây dựng là theo những nguyên tắc của phong thủy. Mảnh đất xây nhà được chọn lựa rất kỹ để phù hợp với chủ nhân của nó về tuổi tác, cung mệnh. Người đứng ra xây dựng nhà trước tiên tìm tới các thầy "địa" để xem phong thủy, địa cuộc đất đai rồi chọn thợ, xem ngày cúng tế rồi mới cho động thổ khởi công. Nhà theo phong thủy phải có thế đất đẹp: “Minh đường thủy tụ” tức là trước nhà có nước tụ trong sáng như gương để nuôi dưỡng khí mạch của đất. Vì thế nếu không có sự tụ thủy tự nhiên, người ta thường đào ao trước nhà hoặc xây hòn non bộ để tượng trưng cho yếu tố này. Nhà có thế đất “tả phù hữu bật” tức là hai bên tả có Thanh long, hữu có Bạch hổ thì gia chủ sẽ phát tài, nhiều lộc, đông con trai gái. Cổng và cửa chính của nhà thường lệch nhau không nằm trên một trục. Người ta cũng tổ chức lối đi riêng, tách biệt cho người và gia súc (trâu, bò). Nhà dân gian xưa có vị trí hài hòa trong khu đất, trước và sau nhà đều có sân vườn nhiều hoa, cây xanh. Sân trước dùng để sinh hoạt và kết hợp làm không gian sản suất phụ, phơi nông sản sau mùa thu hoạch. Các loại cây được chọn trồng sân trước nhà thường là cây và bụi hoa thấp. Đặc biệt cây cau, dừa tuy cao nhưng được trồng nhiều, vì có tán lá ở trên cao nên vừa không che tầm nhìn, gió mát, vừa che bớt nắng khi mặt trời lên cao, bên cạnh đó nó góp phần cải thiện kinh tế và phù hợp tập tục ăn trầu cau ở địa phương. Vườn sau nhà trồng chuối vì có nhiều cái lợi, chuối là loại trái cây được ưa chuộng. Chuối thấp có lá to nên có thể cản được gió lạnh, lại có thân cây mềm nên dù có đổ cũng không thể làm hỏng nhà được. 1.2. Hình thức kiến trúc xây dựng nhà dân gian Công trình nhà dân gian thường có xu hướng trải dài để đón gió mát từ hướng Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 69 Nam, Đông Nam. Nhà có cao trình thấp nhưng xây trên nền đất cao ráo, có số gian lẻ một, ba, năm, và thường có hai chái ở trước, sau nhà. Chái nhà trước rộng rãi và là nơi sinh hoạt chính của gia đình: ăn uống, hóng gió, tiếp bà con hàng xóm, Ở đây, không gian được tổ chức đơn giản và cởi mở nhưng lại thành nét văn hóa đặc trưng cho ngôi nhà Việt. Gian nhà chính là không gian linh thiêng nên được đặt bàn thờ tổ tiên và chỉ tiếp khách quan trọng. Đàn ông trong gia đình thì ở bên trái, buồng phụ nữ thì ở bên phải gắn với khu phụ, bếp núc trong nhà. Trong bố cục nhà dân gian thường xuất hiện hai khối kiến trúc đó là: gian nhà chính và nhà Đông bên phải kết hợp với nhau trên mặt bằng thành hình chữ “L”. Thể loại nhà này rất phù hợp với kiểu khí hậu Nam Trung Bộ và tập quán sinh hoạt của người dân. Về thể loại nhà ở Nam Trung Bộ thì đa dạng phong phú theo chủng loại vật liệu, gồm có: nhà xây dựng bằng gỗ, gạch ngói, tranh tre vách đất, mái lá, Đối với loại nhà gỗ xưa thì nhà rường cột (nhà rường) là một loại chính thường được xây dựng. Nhà rường phổ biến, phân bố khắp vùng vì có nhiều ưu điểm. Theo thư tịch cổ thì “Rường” có nghĩa là ràng lại, trên là xuyên trính dưới là đá (ngạch), chân cột kê trên đá. Tất cả hợp thành một bộ khung vững chắc, đây là cách thiết kế có tác dụng thích ứng với tự nhiên thường mưa bão, nắng hạn. Trước khi dùng người ta phải chọn lựa, xử lý gỗ rất kỹ. Nhà gỗ cũng có sự kết hợp giữa vật liệu gạch để xây tường bảo vệ bên ngoài. Nhà rường gỗ dân gian của vùng thường được lợp mái bằng lá. Loại lá thường gặp nhất và phổ biến là lá tranh, có đôi khi người ta cũng dùng lá dừa, rơm (cây lúa sau khi gặt) để thay thế. Thể loại nhà Mái Lá này trở một loại nhà dân gian đặc sắc trong vùng. Đây là một sự sáng tạo và dung hợp văn hóa giữa người Việt (Nam tiến) với người Chăm địa phương trong việc thiết kế và ứng xử với môi trường sống nhằm phục vụ nhu cầu ở. Quan hệ giữa gia chủ với ngôi nhà thể hiện qua thước tầm, một loại thước đo khá đặc biệt. Khi làm nhà cho ai người thợ cả lấy chiều dài đốt út của chủ nhân làm đơn vị cơ bản cho cái thước. 1.3. Hình thức trang trí Các chi tiết cấu tạo kiến trúc với các hoa văn hình học tinh xảo và chạm khắc gỗ thường thấy là hình các con vật, đồ vật dân dã như: phụng, rùa, sóc, cá, nai, các loại cây như: trúc, lan, cúc, lựu, bát bửu, ốc, binh, tù và, cái tán, hoa sen, với kỹ thuật khá điêu luyện. Nghệ thuật chạm khắc thể hiện triết lý làm người, tinh thần mong ước bình an, no đủ trong cuộc sống. 2. Những nhân tố hình thành sắc thái kiến trúc dân gian Vùng Nam Trung Bộ Kiến trúc dân gian hình thành trong vùng chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau như sau: 2.1. Đặc điểm tự nhiên 2.1.1 Vị trí địa lý: Vị trí địa lý và lịch sử của ba tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa thuộc vùng khảo sát có liên hệ mật thiết với nhau. Các tỉnh này đều có đặc điểm là phía Đông tiếp giáp biển Đông với các bờ biển dài và nhiều hải đảo; phía Tây là sườn Đông của dãy Trường Sơn với các vùng trung du và những dãy núi đâm ra biển [1]. Về việc đi lại ngày xưa ở trong vùng và liên hệ với các tỉnh lân cận có phần ít thuận tiện do bị chia cắt bởi đồi núi, biển cả, các con sông. Cũng chính vì thế mà dẫn đến sự hình thành những tiểu vùng văn hóa có nhiều nét tương đồng và khác biệt so Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 70 với các vùng lân cận. Giao thông thủy phát triển mạnh về phía biển Đông với nhiều vịnh, bến cảng tốt. Với vị trí địa lý của mình, vùng đất này đã từng có những mối liên hệ thuận tiện với nhiều quốc gia khác đồng thời giao lưu và chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa đó từ rất sớm. (H.1) H .1. Dạng địa hình đồi núi đâm ra biển kết hợp với dạng đồng bằng châu thổ ven sông là một trong những dạng địa hình đặc trưng cho vùng Nam Trung Bộ (Thành phố biển Nha Trang). [Nguồn sưu tầm] 2.1.2 Khí hậu thủy văn Khí hậu trong vùng về bản chất là khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng lại kèm theo tính khí hậu vùng biển, đại dương nên nóng ẩm, mưa nhiều. Tần suất gió thường khác nhau và có nhiều hướng thay đổi liên tục, ngay cả trong một ngày cũng có thể xuất hiện những hướng gió khác nhau. Sông ngòi đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, số lượng tương đối nhiều nhưng ngắn và dốc, lượng nước phân không đều cạn khô vào mùa nắng và thường gây lũ quét vào mùa mưa [2]. Như vậy về khí hậu thủy văn trong vùng Nam Trung Bộ so với miền Nam thì có phần khắc nghiệt hơn, tuy nhiên khí hậu nhìn chung tương đối ôn hòa hơn miền Bắc và vùng Bắc Trung Bộ. Trong vùng do địa hình tương đối phức tạp và đặc biệt nên khí hậu vì thế cũng có nhiều sự biến đổi tạo ra các tiểu vùng khí hậu khác nhau giữa vùng đồng bằng châu thổ ven sông, vùng ven biển và miền núi. Công trình kiến trúc trong vùng do đó thường nằm ở các vị trí đất đai cao ráo hoặc phải tôn nền lên cao để tránh lụt và có những giải pháp riêng để thích nghi với khí hậu trong vùng. 2.1.3 Địa hình – địa chất – thổ nhưỡng Địa hình của khu vực Nam Trung Bộ tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông với các dạng địa hình đồi núi, đồng bằng châu thổ ven sông, ven biển và hải đảo. Nhiều dãy núi đâm ra biển và chia cắt địa hình tạo ra những vùng đất nhỏ hẹp. Đặc điểm địa hình cũng tạo ra cảnh quan phong phú, vừa đa dạng lại vừa có được tính đặc thù của mỗi tiểu vùng, vừa mang tính đan xen và hòa nhập (H.2). Địa chất. Độ ổn định của các tầng địa chất là tương đối tốt, cường độ chịu lực khá cao. H .2. Dạng địa hình núi đá chạy ra sát biển tạo ra những đầm vịnh nước lợ, cảng biển sâu, kín gió a. Đầm Ô Loan – Phú Yên. b. Hòn chồng – Khánh Hòa [Nguồn sưu tầm] Thổ nhưỡng tự nhiên gồm nhiều loại đất: Đất cát ven biển, Đất mặn phèn, Đất phù sa, Đất xám, Đất đen, Đất nâu vàng, nâu đỏ trên đá bazan, Đất màu vàng đỏ, Đất vàng đỏ trên đá macmacaxi. Rừng chiếm một diện tích lớn với nhiều loại gỗ quý. Những công trình như tháp Chăm, nhà Mái Lá, là những thể hiện sinh động cho việc ứng dụng các loại vật liệu được chế tạo Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 71 từ các nguồn khoáng sản đất như gạch-ngói sống và nung; đất sét trộn rơm, thường là những vật liệu phổ biến, khá phát triển. Người dân cũng biết dùng đá vôi, san hô, vỏ sò, để sản suất ra vôi, vật liệu kết dính. 2.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội Lịch sử hình thành: về gốc tích có thể xem Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa trước kia là đất của vương quốc Chămpa; người Chiêm gọi vùng Bình Định là Vijaya, gọi vùng Khánh Hòa là Kauthana cả hai đều từng là những kinh đô cũ của người Chăm và Phú Yên là vùng đất ở giữa hai kinh đô cổ này. Về sau vùng này được người Việt thu phục và chiếm lĩnh trong quá trình Nam tiến. Dân cư, dân tộc Tại vùng Nam Trung Bộ chủ yếu là người Kinh chiếm đa số, có nguồn gốc từ vùng đồng bằng Bắc Bộ [3]. Các dân tộc thiểu số khác có số lượng người ít hơn chủ yếu là người Chăm. Vấn đề kinh tế – xã hội chủ yếu của vùng chính là nông nghiệp dựa vào việc trồng cây lúa nước. Người dân địa phương vùng biển sinh sống chủ yếu dựa vào khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản. Nguồn kinh tế khai thác từ lâm đặc sản cũng mang lại một giá trị nhất định. Dân cư có kinh tế ở mức trung bình, không quá giàu có cũng không quá nghèo khó. Xét về quy mô các công trình kiến trúc thì thường nhỏ và chưa có sự tập trung cao độ về tài chính, công trình có xu hướng hòa vào tự nhiên. Tài năng nghệ thuật, kỹ thuật chứa đựng sự tiềm tàng to lớn cho thấy khả năng phát triển tư duy của người Nam Trung Bộ cũng đã ở đỉnh cao của nhân loại. 2.3. Văn hoá vùng đồng bằng duyên hải Nam Trung Bộ 2.3.1 Yếu tố văn hoá nông nghiệp trồng lúa nước Cách thức sản xuất của nền nông nghiệp trồng lúa nước làm xuất hiện hình thức cư trú theo cộng đồng làng xã, mang nhiều nét đặc thù như: ý thức đoàn kết cộng đồng cao từ đó đã thúc đẩy tính dân chủ làng xã; ý thức tự trị thông qua các lệ làng và hương ước; diện mạo văn hóa mỗi làng một khác theo tùy cách thức ứng xử với các điều kiện tự nhiên, lao động, sinh hoạt, đồng thời tính đa thần là đặc điểm nổi bật trong đời sống tín ngưỡng ở làng. Nghề nghiệp và kinh nghiệm được lưu truyền cục bộ theo kiểu cha truyền con nối. Hình thức tổ chức và xây dựng các công trình kiến trúc trong làng thường được do các người cao tuổi và các nhóm thợ địa phương thực hiện. Chính vì vậy mà hầu như tất cả các thể loại kiến trúc mang đậm dấu ấn của dân gian từng vùng. (H.3) 2.3.2 Yếu tố văn hoá của dân cư vùng biển Đối với ngư dân thì Biển là nguồn sống của họ, kinh tế vì thế phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả đánh bắt, khai thác thủy hải sản từ biển. Trong cuộc sống, ngư dân phải nhờ vào kinh nghiệm, sự mạnh mẽ và thành kính tôn thờ các thần thánh của biển cả. Cộng đồng ngư dân biển hình thành và có ý thức cộng đồng, bảo bộc nhau rất chặt chẽ. Nhà cửa được xây dựng san sát bên nhau rất đơn giản, chủ yếu tập trung vào các phương tiện sản xuất. Về tâm linh ở vùng biển này người ta rất tôn thờ thần biển thông qua hình tượng của cá "Ông" [4]. Tín ngưỡng trong cộng đồng ngư dân rất sinh động, riêng với Phật Giáo trong vùng người dân thờ Phật Quan Âm bằng những quan niệm gần gũi và gắn với văn hóa biển rõ nét. (H.4) Những nét văn hóa riêng ấy được hình thành và phát triển từ hình thức lao động trên biển. Nét văn hóa riêng của người Việt Bắc Bộ, cùng với sự giao thoa từ nét văn hóa biển gốc Chăm đã hình thành nên những nét văn hóa biển Nam Trung Bộ riêng biệt. Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 72 H .3. Đồng quê, làng xã vùng Nam Trung Bộ gắn liền với hoạt động trồng lúa nước mang tính mở, phóng khoáng hơn (Ninh Hòa – Khánh Hòa). [Nguồn: tác giả] H .4. Làng biển gắn liền với các hoạt động nông - ngư nghiệp, nhà cửa ngư dân xây dựng san sát bên nhau, không phải vì thiếu đất đai mà vì thể hiện tính cộng đồng cao a. Làng biển ở Qui Nhơn – Bình Định ) b. Làng biển ở Tuy An – Phú Yên ). [Nguồn: tác giả] 2.3.3 Yếu tố văn hoá của người dân tộc thiểu số Đa số người dân tộc thiểu số sống ở các vùng miền núi, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nương rẫy, săn bắn, hái lượm cây trái trong núi rừng. Người dân tộc thiểu số có nhiều nét tinh tế nhiều hơn người Việt mô tả trong các sử cũ. Người Việt ở Nam Trung Bộ chịu sự ảnh hưởng tương đối rõ và dễ nhận thấy nhất là hệ giá trị văn hóa vật chất - tinh thần của người Chăm. Những ảnh hưởng văn hóa Chăm vào người Việt chủ yếu về mặt tinh thần nghệ thuật và công nghệ xây dựng. Các tháp Chăm tồn tại cho tới ngày nay đã trải nhiều thế kỷ, tuy có nhiều hư hỏng nhưng vẫn thể hiện được sự vững chắc với thời gian. Một số không nhỏ công trình đền tháp Chăm vẫn được người Việt sử dụng và đương nhiên chúng cũng được Việt hóa về cả nội dung lẫn hình thức.(H.5). Nhiều tác phẩm điêu khắc, hình tượng thần, chim thú vẫn còn lưu truyền trong dân gian minh chứng rõ nét cho các cuộc giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau của hai dân tộc Việt – Chăm. Nhiều tục lệ, nét văn hóa có nguồn gốc từ người Chăm vẫn tồn tại trong sinh hoạt của cộng đồng người Việt. (H.6) H.5. Đền tháp Chăm vẫn được người Việt sử dụng và được Việt hóa [Nguồn: tác giả] a. Tháp Chăm ở Bình Định b. Tháp Chăm ở Khánh Hòa H.6. Dấu tích văn hóa Chămpa với nhiều di tích, di sản văn hóa hữu thể và di sản văn hóa vô thể được người Việt tiếp nhận, Việt hóa chúng (a,b) [Nguồn: tác giả] a. Thờ bà Thiên Y (thần người Chăm) vẫn tồn tại trong tín ngưỡng dân gian (miếu bà ở Phú Lâm - Phú Yên) b. Thờ Cá Ông (cá Voi), thần biển trong các lăng làng biển.(Lăng Đông Tác – Phú Yên) Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 73 2.3.4 Yếu tố văn hoá tâm linh Tục thờ vong linh - tổ tiên: Người Việt cho đến nay vẫn cơ bản giữ nguyên được tinh thần, ý nghĩa, quan niệm thờ phụng vong linh ông bà, tổ tiên, người khuất mặt. Nét văn hóa này đi sâu, hòa vào các tôn giáo, các công trình kiến trúc và trở thành một phần không thể thiếu của nó. Phật Giáo: được truyền vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên, vào thời kỳ nội thuộc Trung Quốc. Phật Giáo đã đến Việt Nam trước tiên bằng đường biển thông qua các thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ. Việc linh hoạt trong cách tiếp biến văn hóa Phật Giáo tại Nam Trung Bộ đã tạo ra một bản sắc Phật Giáo riêng biệt. Phật Giáo đã hòa mình vào trong tinh thần, đời sống cộng đồng và hiện có rất đông người theo đạo Phật. Các công trình kiến trúc chùa có ở khắp nơi [5]. Trong lịch sử giành độc lập và phát triển Phật Giáo thật sự đã để lại một dấu ấn quan trọng đáng được ghi nhận. Nho giáo và Lão giáo: Nho giáo du nhập vào nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỷ II và đến thế kỷ XV vào đời nhà Lê thì Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến Việt Nam. Nho giáo xem trọng việc giáo dục cho mọi người tuy nhiên không coi trọng kinh tế - kỹ thuật của xã hội. Lão giáo du nhập vào nước ta cùng thời gian với Nho giáo, theo người Việt vào Nam Trung Bộ, bị biến thành các thuật tu tiên, thuật trừ tà bắt yêu, thuật phong thủy để xem hướng xây dựng nhà cửa, mồ mả, bói toán tử vi, Âm dương ngũ hành là tư tưởng biện chứng thời cổ đại ảnh hưởng sâu rộng nhất trong thế giới quan của người Á Đông trong đó có cả người Việt. Nho giáo, Lão giáo, Âm Dương Ngũ hành hòa vào trong tâm trí người Việt nói chung và vùng Nam Trung Bộ nói riêng một cách sâu đậm. Tuy là tư tưởng được du nhập từ bên ngoài nhưng người Việt đã biến nó thành một nét văn hóa, tư tưởng truyền thống trong vùng. Văn hoá tâm linh khác: Người Việt còn có những tín ngưỡng tâm linh khác như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, thờ Thổ Công, Táo Quân, Thành Hoàng làng, tục thờ Bà, nữ thần, Sự dung hoà các yếu tố văn hoá tâm linh : Những tư tưởng Phật Giáo và Nho giáo, Đạo giáo, đã kết hợp chặt chẽ với cuộc sống cộng đồng dân tộc góp phần nhất định trong công cuộc xây dựng, bảo vệ xã hội Việt Nam trong lịch sử. Trong đó, có cả các thành tựu về kiến trúc, tạo nên bản sắc hấp dẫn, thú vị mang đầy màu sắc phương Đông.Văn hóa tâm linh vùng Nam Trung Bộ cùng với tinh thần bao dung của dân tộc đã tạo nên những bản sắc riêng biệt. Sự dung hòa các yếu tố tâm linh khác nhau vừa thể hiện tính dân tộc vừa thể hiện tính triết lý “vạn pháp quy tông”. 3. Luận bàn Công trình Kiến trúc có quá trình hình thành và sự hiện thân của nó bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố mang những tính chất khác nhau như: điều kiện tự nhiên, tư tưởng, văn hóa, xã hội, kỹ thuật, kinh tế, Khi tất cả những thành tố trên hội tụ đầy đủ thì kiến trúc mới có thể sinh ra, chúng cũng sẽ bị hủy diệt khi các thành tố cấu thành đó thay đổi hoặc mất đi. Một khi hiểu rõ những điều kiện hình thành, những nguyên tố gốc cơ bản thì sự hình thành của kiến trúc và căn nguyên những biến thể đa dạng hầu như sẽ dễ dàng được làm sáng tỏ cùng với những quy luật, nguyên tắc sinh ra nó. Người dân Nam Trung Bộ trải qua nhiều đời định cư trên vùng đất này đã phát hiện và vận dụng một cách tổng hợp, linh hoạt những Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 74 quy luật về tự nhiên, văn hóa dưới nhiều hình thức đa dạng. Nội hàm trong kiến trúc dân gian được thể hiện một cách tinh tế qua tác động từ nhiều góc độ của các yếu tố hình thành nên kiến trúc. Sắc thái dân gian thông qua các công trình kiến trúc đã được lưu tồn vững chắc (H.7). Khi tiến hành nghiên cứu, thiết kế kiến trúc thì nhất thiết cần hết sức chú trọng những đặc điểm văn hóa của người dân trong từng vùng nhằm đúc kết, đưa ra các kết luận, tác phẩm có giá trị và mang tính khoa học thực tiễn. a. Gian nhà chính và nhà Đông bên phải kết hợp với nhau trên mặt bằng thành hình chữ “L” b. Nhà gạch gỗ được cải tạo từ nhà mái lá truyền thống c. Nhà cũ có hình dáng nhà mái lá truyền thống H. 7. Nhà dân gian truyền thống vùng Nam Trung Bộ [Nguồn: tác giả] Cộng đồng người Việt trong quá trình hình thành, định cư và phát triển đã chịu nhiều tác động của nhiều nền văn hóa lớn khác nhau như Trung Hoa, Ấn Độ, cùng với những đặc tính riêng biệt xuất phát từ văn hóa bản địa đã hình thành nên một sắc thái văn hóa độc đáo. Chính nền tảng về những bản sắc văn hóa đó đã giúp cho người Việt vượt qua nhiều giai đoạn lịch sử đầy thăng trầm, phức tạp thể hiện một sức sống mãnh liệt, bất khuất. Sắc thái dân gian trong kiến trúc vùng Nam Trung Bộ là một trong những thể hiện xuất sắc của người Việt trong tiến trình phát triển, khai hoang, định cư tại vùng đất mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Lê Bá Thảo, Việt Nam: lãnh thổ và các vùng địa lý, nxb Thế Giới, Hà Nội, 2001. [2]. Phạm Ngọc Toàn – Phan Tất Đắc, Khí hậu Việt Nam, nxb khoa học và kỹ thuật 1978. [3]. Lê Hồng Lý, Những luồng di cư của người Việt vào Nam Trung Bộ và một số sắc thái văn h.óa của nó, Viện nghiên cứu văn hóa, Hà Nội, 2004. [4]. Nhiều tác giả, Văn hóa vùng Biển, tập hợp các bài viết tham luận tại hội thảo do hội VNDG – VHCDT tỉnh Phú Yên tổ chức tháng 10 – 2004. [5]. Nguyễn Đức Hiền, Lịch sử Phật Giáo Đàng Trong, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995. [6]. Nguyễn Khởi, Ảnh hưởng triết học phương Đông trong kiến trúc truyền thống Việt Nam, tạp chí KT và ĐS số 28/1999.
File đính kèm:
- nhan_to_hinh_thanh_sac_thai_kien_truc_dan_gian_vung_nam_trun.pdf