Ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp theo các sức chống cắt khác nhau
Abstract: Shear strengths of soft soil are various according to different
testing methods. Based on various values of shear strength, the stability
analysis of soft soil under embankment is carried out using circle
method, degree of approaching to limit state and factor of safety. The
calculating and analyzing results show that using the corrected
undrained shear strength of in-situ vane shear test allows to obtain the
more reasonable results in comparison with using the shear strength of
the other tests. Using undrained shear strength of vane shear test shows
that the sliding and plastic area exists under the talus and independent
from stress state.
Bạn đang xem tài liệu "Ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp theo các sức chống cắt khác nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp theo các sức chống cắt khác nhau
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 8 ỔN ĐỊNH CỦA NỀN ĐẤT YẾU DƯỚI CÔNG TRÌNH ĐẮP THEO CÁC SỨC CHỐNG CẮT KHÁC NHAU BÙI TRƢỜNG SƠN, VÕ PHÁN, LÊ HOÀNG VIỆT * Stability of soft soil under embankment based on various shear strength Abstract: Shear strengths of soft soil are various according to different testing methods. Based on various values of shear strength, the stability analysis of soft soil under embankment is carried out using circle method, degree of approaching to limit state and factor of safety. The calculating and analyzing results show that using the corrected undrained shear strength of in-situ vane shear test allows to obtain the more reasonable results in comparison with using the shear strength of the other tests. Using undrained shear strength of vane shear test shows that the sliding and plastic area exists under the talus and independent from stress state. 1. CÁC PHƢƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CHỊU TẢI CỦ ĐẤT NỀN* Trong thiết kế nền móng công trình, việc xác định sức chịu tải an toàn và chính xác của nền đất được quan tâm đầu tiên. Tồn tại một số phương pháp đánh giá sức chịu tải của nền đất dưới đáy móng và hầu hết các phương pháp đều căn cứ trên cơ sở trạng thái cân bằng giới hạn. Có thể phân chia các phương pháp này theo các khuynh hướng chính sau: phương pháp dựa trên mức độ phát triển của vùng biến dạng dẻo trong nền, phương pháp dựa trên giả thuyết cân bằng giới hạn và xác định giá trị tải trọng tới hạn, phương pháp dựa trên giả thuyết mặt trượt và các phương pháp bán kinh nghiệm trên cơ sở các thí nghiệm hiện trường Phương pháp căn cứ mức độ phát triển của vùng biến dạng dẻo chủ yếu được trình bày bởi các nhà nghiên cứu ở Liên Xô cũ. Tải trọng ban * Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG-HCM 268 Lý Thường Kiệt, quận 10, TP. HCM btruongson@yahoo.com; ĐT:0907159518 vphan54@yahoo.com; ĐT: 0913 867008 lehoangviet2008@gmail.com; ĐT:0979853988 đầu p* tương ứng với trường hợp khi chỉ có một điểm duy nhất trong nền dưới mép móng băng xuất hiện trạng thái giới hạn được đề nghị bởi N.P. Puzưrevski. Theo quan điểm của N.N. Maslov, tải trọng tính theo N.P. Puzưrevski là quá thiên về an toàn và ông đề nghị lấy phạm vi độ sâu vùng dẻo zmax = b.tan để vùng biến dạng dẻo không lan vào phạm vi giữa hai đường thẳng đứng đi qua mép móng. Theo I.V. Yaropolski, khi tăng tải trọng, vùng biến dạng dẻo phát triển đến độ sâu lớn nhất và nối liền với nhau, tương ứng với trạng thái của nền lúc bắt đầu mất ổn định. Tiêu chuẩn Việt Nam tham khảo cơ sở tiêu chuẩn Liên bang Nga xem giá trị tải trọng hình băng ứng với phạm vi vùng dẻo đến độ sâu bằng 1/4 bề rộng móng b thì nền còn ứng xử trong phạm vi đàn hồi [1], [2], [3]. Việc tính toán sức chịu tải của nền với giả thiết về kích thước, hình dạng nêm nén chặt và hàm số các đường phá hoại trượt gắn liền với các tên tuổi như: V.V. Sokolovski, L. Prandltl, K. Terzaghi, V.G. Berezantsev,... Các kết quả nghiên cứu này cho phép xác định giá trị ứng suất giới hạn của tải trọng hình băng lên đất nền [3], [4]. ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 9 Prandtl là người đầu tiên quan sát trực tiếp các mặt trượt đất nền bên dưới mô hình móng và đưa ra dạng phương trình giải tích của các mặt trượt dưới đáy móng gồm các đoạn thẳng nối với nhau bởi đoạn cong xoắn ốc. Áp lực cực hạn ở đáy móng qu được Prandtl giới thiệu gồm hai thành phần: do lực dính c.Nc và do phụ tải hông qo.Nq. Sau đó, Terzaghi, Buisman, Caquot, Sokolovski, Meyerhof, Hansen và nhiều tác giả khác bổ sung thành phần ma sát vào công thức sức chịu tải của đất nền. Năm 1942, V.V. Sokolovski ứng dụng phương pháp số để giải phương trình vi phân của F. Kotter cho bài toán phẳng có xét đến trọng lượng bản thân đất ( 0). Điều này góp phần quan trọng trong phát triển lý thuyết cân bằng giới hạn để đánh giá ổn định của nền đất, của mái dốc và tính toán áp lực đất lên tường chắn. V.G. Berezantsev áp dụng phương pháp của V.V.Sokolovski để xác định tải trọng giới hạn phân bố đều khi lực tác dụng đúng tâm có xét đến sự hình thành nêm đất và sau này đưa ra lời giải áp dụng xác định tải trọng giới hạn của nền đất cho cả bài toán phẳng và bài toán không gian. Sơ đồ tính toán của K. Terzaghi vẫn sử dụng những đường trượt như trong phương pháp của Prandtl xem nền không trọng lượng ( = 0). K. Terzaghi giả thiết nêm đất là hình tam giác cân với góc ở đáy bằng cho phù hợp với các kết quả của thí nghiệm nén. Phương pháp có xét đến ảnh hưởng của hình dạng móng, chiều sâu chôn móng và độ nghiêng của tải trọng tác động được Meyerhof khởi xướng và được đề cập trong các nghiên cứu của các tác giả như: De Beer, Vesic, Hansen, Hanna. Sức chịu tải của đất nền còn có thể được đánh giá thông qua các công thức kinh nghiệm trên cơ sở kết quả thí nghiệm hiện trường như xuyên tiêu chuẩn, xuyên tĩnh, bàn nén hay nén trong hố khoan. Đối với công trình đất đắp (đường, đê và đập) ngoài việc xác định tải trọng giới hạn lên đất nền, cần thiết phải đánh giá khả năng trượt và phá hoại qua bản thân công trình bằng vật liệu đắp [5], [6]. Theo các kết quả đo đạt và quan sát các mặt trượt trong thực tế, nhiều mặt trượt thường có dạng mặt trượt trụ tròn hoặc gần với dạng này. Theo khuynh hướng này, phổ biến có phương pháp phân mảnh cổ điển Fellenius, phương pháp Bishop có xét sự tương tác của các mảnh và các phương pháp khác. Với sự trợ giúp của các công cụ tính toán hiện nay, việc đánh giá khả năng chịu tải của đất nền cũng có thể thực hiện được thông qua các phần mềm trên cơ sở phương pháp phần tử hữu hạn [7]. Ở đây, tùy theo mô hình vật liệu mà các tiêu chuẩn bền khác nhau có thể được áp dụng. Ngoài ra, cũng có thể căn cứ vào phạm vi vùng nguy hiểm theo mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn để đánh giá khả năng ổn định của đất nền. Phương pháp này chẳng những cho phép xét đến trọng lượng bản thân đất mà còn cho phép sử dụng các đại lượng độ bền như là một hàm số theo trạng thái ứng suất ở điểm bất kỳ trong nền [8]. Đối với nền đất yếu, nhiều hồ sơ khảo sát cho thấy giá trị độ bền khác nhau theo các phương pháp thí nghiệm [9]. Do đó, việc sử dụng các phương pháp tính toán khác nhau với các đại lượng độ bền khác nhau sẽ cho phép phân tích so sánh kết quả nhằm rút ra các nhận định có ích trong việc chọn lựa phương pháp tính cũng như giá trị độ bền hợp lý trong tính toán thiết kế. Ở đây, việc phân tích chủ yếu tập trung vào nền đất yếu dưới công trình đất đắp, là loại hình công trình phổ biến có tải trọng tác dụng trực tiếp lên đất nền. 2. KHẢ NĂNG ỔN ĐỊNH CỦ NỀN ĐẤT YẾU DƢỚI CÔNG TRÌNH ĐẮP THEO CÁC Đ I LƢỢNG ĐỘ BỀN KHÁC NH U Các dữ liệu về đặc trưng cơ lý của đất yếu ở khu vực Nhà Bè, Tp. HCM cho thấy giá trị sức chống cắt khác nhau theo các phương pháp thí nghiệm khác nhau (bảng 1). Đối với công trình đắp, phương pháp đánh giá khả năng ổn định bao gồm phương pháp cung trượt lăng trụ tròn, bằng phần mềm Plaxis và mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn. ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 10 Bảng 1. Độ bền của nền đất yếu khu vực Nhà Bè từ các kết quả thí nghiệm khác nhau Phương pháp thí nghiệm Giá trị độ bền Cắt trực tiếp c = 8,83 kN/m2; = 4,3 độ Nén đơn qu= 35,7 kN/m 2 Nén ba trục theo sơ đồ UU c = 18,64 kN/m2; = 0,8 độ Nén ba trục theo sơ đồ CU c’ = 10,79 kN/m2; = 23,9 độ Cắt cánh hiện trường có hiệu chỉnh Su = 8,081 + 1,386.z (kN/m 2 ). Với: z (m) – độ sâu. Sơ đồ bài toán đặc trưng chọn lựa là công trình đường đắp trên đất yếu với chiều cao đắp là 1,5m, với bề rộng mặt đường là 20m (2a = 20m), độ dốc mái taluy 1: 1,5. Do đó, bề rộng đáy khối đắp 2b = 24,5m. Trọng lượng riêng của vật liệu đắp trung bình γ = 19,0KN/m3, lực dính c = 31 kPa, = 9,8 độ. Do việc tính toán khả năng chịu tải cần thiết xét đến hoạt tải, nên xem khối đắp chịu tải trọng phân bố đều p = 25,3 KN/m2. Bề dày lớp đất yếu của khu vực có giá trị trung bình 20m với dung trọng tự nhiên γ=15,2KN/m3, mực nước ngầm nằm ngang mặt đất. Việc đánh giá khả năng ổn định công trình đắp trên nền đất yếu thường được thực hiện thông qua giá trị hệ số ổn định K hay hệ số an toàn FoS. Trong trường hợp này, phần mềm Geoslope và Plaxis được sử dụng để phân tích. Trong đó, hệ số ổn định được xác định theo phương pháp Bishop và phương pháp phân mảnh cổ điển. Bảng 2. Giá trị hệ số ổn định theo các phƣơng pháp cung trƣợt lăng trụ tròn Phương pháp thí nghiệm Hệ số ổn định Phương pháp Bishop Phương pháp phân mảnh cổ điển Cắt trực tiếp 1,619 1,570 Nén một trục 2,029 2,025 Nén ba trục the sơ đồ UU 2,217 2,196 Sức chống cắt hữu hiệu từ CU với các thành phần ứng suất hữu hiệu 2,783 2,566 Cắt cánh hiện trường có hiệu chỉnh 1,642 1,646 Từ kết quả tính toán có thể thấy rằng giá trị hệ số ổn định theo phương pháp Bishop đều lớn hơn so với kết quả tính toán theo phương pháp phân mảnh cổ điển, ngoại trừ trường hợp sử dụng kết quả thí nghiệm cắt cánh hiện trường thì giá trị hệ số ổn định của hai phương pháp là xấp xỉ như nhau. Ở đây cũng cần nói thêm rằng khi sử dụng giá trị sức chống cắt không thoát nước thì ứng suất do trọng lượng bản thân là giá trị tổng ứng suất phụ thuộc dung trọng tự nhiên nếu đất có độ bão hòa cao hay dung trọng bão hòa trong trường hợp đất nằm dưới mực nước ngầm. Trong trường hợp sử dụng sức chống cắt hữu hiệu, ứng suất do trọng lượng bản thân có xét vai trò của áp lực do cột nước nên có giá trị là ứng suất hữu hiệu. Trong các trường hợp tính toán, giá trị hệ số ổn định theo sức chống cắt hữu hiệu là lớn nhất. ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 11 Trong thí nghiệm theo sơ đồ CU, mẫu đất được cố kết trước khi nén lệch trục. Các giá trị áp lực buồng chọn lựa khá lớn so với thực tế áp lực theo phương ngang nhỏ hơn đáng kể nên đất bị nén chặt nhiều hơn so với thực tế trong nền. Nên sử dụng sức chống cắt hữu hiệu có thể không an toàn mà trong các khuyến cáo sử dụng phương pháp cung trượt cũng được đề cập. Kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt không thoát nước từ thí nghiệm nén ba trục UU và nén một trục cho thấy hệ số ổn định khá lớn và tương tự nhau. Kết quả đó không những thể hiện thông qua giá trị hệ số ổn định mà còn ở phạm vi cung trượt. Các cung trượt sử dụng giá trị sức chống cắt này đạt đến độ sâu khá lớn (xấp xỉ 6m). Kết quả tính toán theo thí nghiệm cắt trực tiếp và cắt cánh có giá trị hệ số ổn định gần như nhau cũng như phạm vi cung trượt. Ở đây, có thể thấy rằng thí nghiệm cắt cánh hiện trường có hiệu chỉnh cho phép đánh giá sức chống cắt không thoát nước ứng với trạng thái tự nhiên nên phù hợp với ứng xử thực tế nhất. Trong khi đó, thí nghiệm cắt trực tiếp được thực hiện trong thời gian ngắn trong điều kiện khí quyển nên mẫu đất ở trong trạng thái chưa được nén chặt, do đó, sức chống cắt được xem là phù hợp đối với khu vực có độ sâu nhỏ (giá trị này sẽ nhỏ hơn thực tế đối với khu vực ở độ sâu lớn). Do phạm vi cung trượt ở gần bề mặt nên sức chống cắt chọn lựa trong trường hợp này trở thành phù hợp. 2.196 20 m +0.00 +1.50 16 m ỔN ĐỊNH CHO TRƢỜNG HỢP THÍ NGHIỆM UU 1:1.5 1:1.5 q = 25.3 kPa Name: Đất Nền Unit Weight: 15.2 kN/m³ Cohesion: 18.64 kPa Phi: 0.82 ° Name: Đất Đắp Unit Weight: 19 kN/m³ Cohesion: 31 kPa Phi: 9.8 ° Khoaûng caùch (m) -5 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65 C ao ñ oä (m ) -22 -20 -18 -16 -14 -12 -10 -8 -6 -4 -2 0 2 4 6 8 1.64220 m +0.00 +1.50 16 m ỔN ĐỊNH CHO TRƢỜNG HỢP THÍ NGHIỆM VST 1:1.5 1:1.5 q = 25.3 kPa Name: Đất Nền Unit Weight: 15.2 kN/m³ C-Top of Layer: 10.62 kPa C-Rate of Increase: 1.32 Limiting C: 37.02 kPa Name: Đất Đắp Unit Weight: 19 kN/m³ Cohesion: 31 kPa Phi: 9.8 ° Khoaûng caùch (m) -5 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65 C ao ñ oä (m ) -22 -20 -18 -16 -14 -12 -10 -8 -6 -4 -2 0 2 4 6 8 10 Hình 1 và hình 2. Ổn định theo phương pháp phân mảnh cổ điển sử dụng sức chống cắt không thoát nước từ thí nghiệm UU và thí nghiệm cắt cánh có xét sự thay đổi Su theo độ sâu Khả năng ổn định của công trình cũng có thể được đánh giá thông qua hệ số an toàn từ sự suy giảm sức chống cắt của đất bằng phần mềm Plaxis. Khi sử dụng sức chống cắt từ thí nghiệm cắt trực tiếp, ứng suất do trọng lượng bản thân chọn tính là tổng ứng suất nên không xét vai trò mực nước. Nếu sử dụng sức chống cắt hữu hiệu thì nhất thiết phải xét hiện tượng đẩy nổi nên dưới mực nước ngầm thì ứng suất chịu tác dụng của cột nước thủy tĩnh hay áp lực nước lỗ rỗng thặng dư hình thành do tác dụng của tải trọng ngoài. Lưu ý rằng việc sử dụng lực dính thuần túy khi giá trị góc ma sát trong φ = 0 không thực hiện được trong phần mềm Plaxis. Kết quả tính toán sử dụng kết quả thí nghiệm cắt trực tiếp cho giá trị hệ số an toàn theo sự suy giảm độ bền FoS = 1,31 và sử dụng sức chống cắt hữu hiệu cho FoS = 1,81Việc tính toán theo phần mềm Plaxis khó có thể cho phép xác định chính xác giá trị hệ số ổn định hay khả năng chịu tải nhưng xu thế chuyển vị và phạm vi vùng nguy hiểm có thể dễ dàng phân biệt (hình 2). Ở đây, trong phạm vi nền có khả năng phá hoại do trượt theo thí nghiệm cắt trực tiếp xảy ra ở dưới mái taluy phù hợp với thực tế hơn so với ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 12 dưới tâm theo kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt hữu hiệu. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn có thể thể hiện thông qua phạm vi vùng biến dạng dẻo, tức là vùng có giá trị ≥1. Khi vùng biến dạng dẻo giao nhau hoặc trồi lên đến bề mặt thì đất nền xem như phá hoại. Đất trong nền không những chịu tác dụng của tải trọng ngoài mà còn chịu ứng suất do trọng lượng bản thân. Để đánh giá hợp lý hơn, nhất thiết phải xét đến trọng lượng bản thân trong quá trình tính toán. Từ kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt từ thí nghiệm cắt trực tiếp, có thể thấy rằng phạm vi vùng nguy hiểm khác nhau đáng kể khi không xét và xét trọng lượng bản thân đất nền (hình 3 và 4). Ở đây, khi xét trọng lượng bản thân đất nền, vùng dẻo thu hẹp đáng kể và tập trung ở khu vực dưới mái taluy, trùng hợp với phạm vi cung trượt nguy hiểm và không phát triển đến các độ sâu lớn như khuynh hướng khi sử dụng sức chống cắt theo kết quả thí nghiệm nén đơn (cu=qu/2), UU hay CU. Ngoài ra, việc sử dụng các giá trị sức chống cắt theo các phương pháp thí nghiệm khác có xét đến trọng lượng bản thân đất nền đều cho thấy khả năng ổn định lớn hơn so với trường hợp không xét căn cứ giá trị và phạm vi mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn nhỏ hơn (hình 5). Sử dụng sức chống cắt có giá trị góc ma sát trong thì sự khác biệt về phạm vi vùng nguy hiểm khi có và không xét trọng lượng bản thân khác nhau đáng kể do thành phần ma sát phụ thuộc ứng suất tác dụng. Việc sử dụng sức chống cắt không thoát nước theo kết quả cắt cánh chỉ xét sức chống cắt không thoát nước Su cho kết quả gần như nhau khi xét trọng lượng bản thân mặc dù các thành phần ứng suất có ảnh hưởng lên mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn. Điều này không những thể hiện thông qua giá trị hệ số ổn định (bảng 1) mà còn thể hiện ở phạm vi vùng dẻo (hình 6 và 7). Hơn nữa, trong các trường hợp tính toán, kết quả sử dụng sức chống cắt không thoát nước từ cắt cánh cho phạm vi vùng biến dạng dẻo phù hợp với phạm vi mà đất có sự dịch chuyển theo phương ngang lớn và khá trùng hợp với phạm vi cung trượt đã tính trước đó cũng như xu hướng dịch chuyển theo phần mềm Plaxis. Các phương pháp phân tích bằng phần mềm Plaxis và Geoslope đều xét trọng lượng bản thân và điều này hợp lý với ứng xử thực tế của đất nền. Do đó, có thể xem việc đánh giá mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn có xét trọng lượng bản thân là hợp lý hơn so với kết quả tính toán không xét. Các kết quả tính toán theo sức chống cắt từ thí nghiệm nén đơn, nén ba trục theo sơ đồ UU và CU đều cho thấy vùng dẻo không xuất hiện tương ứng với hệ số ổn định cao như đã tính toán trước đó. p Hình 3. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả thí nghiệm cắt trực tiếp không xét trọng lượng bản thân đất nền ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 13 p Hình 4. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả thí nghiệm cắt trực tiếp có xét trọng lượng bản thân đất nền p Hình 5. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả thí nghiệm nén ba trục UU có xét trọng lượng bản thân đất nền p Hình 6. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả thí nghiệm với sức chống cắt không thoát nước Su thay đổi theo độ sâu từ thí nghiệm cắt cánh hiện trường không xét trọng lượng bản thân đất nền. p Hình 7. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả thí nghiệm với sức chống cắt không thoát nước Su thay đổi theo độ sâu từ thí nghiệm cắt cánh hiện trường có xét trọng lượng bản thân đất nền. Sự phù hợp vùng dẻo và cung trượt ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 14 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Từ kết quả tổng hợp giá trị độ bền của sét mềm bão hòa nước theo các kết quả thí nghiệm khác nhau và tính toán ổn định theo phương pháp cung trượt lăng trụ tròn với hệ số an toàn và vùng biến dạng dẻo theo mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn có thể rút ra các kết luận chính như sau: - Sử dụng kết quả thí nghiệm cắt cánh hiện trường cho phép đánh giá hợp lý khả năng ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp do phù hợp với ứng xử thực tế, phạm vi vùng trượt và vùng biến dạng dẻo. - Kết quả tính toán theo sức chống cắt không thoát nước chỉ với lực dính không thoát nước cho thấy khả năng ổn định trong trường hợp không xét và xét ứng suất do trọng lượng bản thân là không đáng kể. - Kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt không thoát nước từ thí nghiệm cắt trực tiếp có thể phù hợp khi đánh giá ổn định nền ứng với trường hợp phạm vi vùng trượt và vùng dẻo ở gần bề mặt. - Khi sử dụng sức chống cắt có giá trị góc ma sát trong nhất thiết phải xét đến vai trò của ứng suất do trọng lượng bản thân đất nền. Từ các phân tích, có thể rút ra một số kiến nghị như sau: nên sử dụng kết quả thí nghiệm cắt cánh hiện trường hiệu chỉnh để đánh giá khả năng ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp do thí nghiệm này phù hợp với ứng xử thực tế và kết quả tính toán phù hợp với phạm vi phân bố vùng dẻo và vùng trượt gây phá hoại; khi tính toán khả năng ổn định có xét đến góc ma sát trong của đất cần lưu ý các phương pháp tính có xét trạng thái ứng suất khu vực phá hoại vì điều này ảnh hưởng đáng kể lên kết quả tính toán; có thể sử dụng kết quả thí nghiệm cắt trực tiếp để đánh giá khả năng ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp do độ chặt của mẫu trong thí nghiệm phù hợp ở khu vực vùng trượt có độ sâu bé. TÀI LIỆU TH M KHẢO 1. N.A. Xưtôvich (1987). Cơ học đất (bản dịch). NXB Nông nghiệp, Hà nội. 2. Lê Quý An, Nguyễn Công Mẫn, Nguyễn Văn Quỳ (1977). Cơ học đất. NXB đại học và Trung học chuyên nghiệp. 3. Châu Ngọc Ẩn (2004). Cơ học đất. NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 4. V.V. Sokolovski (1965). Statics of granular media. Bergamon Press. 5. Nguyễn Thành Long, Lê Bá Lương, Nguyễn Quang Chiêu, Vũ Đức Lực (1989). Công trình trên đất yếu trong điều kiện Việt Nam. Trường Đại học Kỹ Thuật TP. HCM – Tổ Giáo trình. 6. Quy trình khảo sát thiết kế nền đường ôtô đắp trên đất yếu - Tiêu chuẩn thiết kế 22TCN 262-2000. 7. Serge Leroueil, Jean-Pier Magnan, Francois Tavenas (1990). Embankments on soft clay. English Edittion, Ellis Horwood. 8. Bùi Trường Sơn. Phương pháp phân chia vùng nền dưới công trình theo mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn. Tuyển tập kết quả khoa học công nghệ năm 2008. Bộ NT và PTNT. Trang 665 - 671. 9. Bùi Trường Sơn, Lê Hoàng Việt. Chọn lựa sức chống cắt không thoát nước của sét mềm để tính toán nền công trình đắp. Tập 14, Tuyển tập kết quả khoa học công nghệ 2011, NXB Nông nghiệp. Trang 469-477. Người phản biện: PGS.TS. ĐÀO VĂN TOẠI
File đính kèm:
- on_dinh_cua_nen_dat_yeu_duoi_cong_trinh_dap_theo_cac_suc_cho.pdf