Quan điểm của công đồng Trent về giáo hội Công giáo

Tóm tắt: Trên sơ sở phân tích những thách thức về mặt kinh tế - xã

hội, văn hóa và đời sống tôn giáo đặt ra đối với Giáo hội Công

giáo ở Châu Âu thế kỷ XVI, bài viết đi sâu phân tích nội dung và lý

giải quan điểm của Công đồng Trent về vấn đề tổ chức giáo hội.

Công đồng Trent tiếp tục tái khẳng định mô hình giáo hội như một

thiết chế, duy trì hệ thống tôn ti trật tự và quyền lực của giáo

hoàng. Dưới góc độ lý thuyết Cấu trúc chức năng, đây chính là một

trong những cách thức để Công đồng Trent bảo vệ cấu trúc của

Giáo hội Công giáo trước những luận thuyết thần học của phong

trào Tin Lành lúc bấy giờ.

pdf 15 trang yennguyen 5420
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của công đồng Trent về giáo hội Công giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của công đồng Trent về giáo hội Công giáo

Quan điểm của công đồng Trent về giáo hội Công giáo
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 67 
DƯƠNG VĂN BIÊN ⃰ 
QUAN ĐIỂM CỦA CÔNG ĐỒNG TRENT VỀ 
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 
Tóm tắt: Trên sơ sở phân tích những thách thức về mặt kinh tế - xã 
hội, văn hóa và đời sống tôn giáo đặt ra đối với Giáo hội Công 
giáo ở Châu Âu thế kỷ XVI, bài viết đi sâu phân tích nội dung và lý 
giải quan điểm của Công đồng Trent về vấn đề tổ chức giáo hội. 
Công đồng Trent tiếp tục tái khẳng định mô hình giáo hội như một 
thiết chế, duy trì hệ thống tôn ti trật tự và quyền lực của giáo 
hoàng. Dưới góc độ lý thuyết Cấu trúc chức năng, đây chính là một 
trong những cách thức để Công đồng Trent bảo vệ cấu trúc của 
Giáo hội Công giáo trước những luận thuyết thần học của phong 
trào Tin Lành lúc bấy giờ. 
Từ khóa: Công đồng, Công giáo, Trent, giáo hội, quan điểm. 
1. Dẫn nhập 
Châu Âu giai đoạn thế kỷ XV - XVI có nhiều biến động lớn cả về mặt 
kinh tế - xã hội, văn hóa tư tưởng và tôn giáo. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XV 
đến đầu thế kỷ XVI, Giáo hội Công giáo ở Châu Âu bị suy thoái về 
quyền lực thế tục, đời sống đạo bị sa sút. Một trong những sự kiện đánh 
dấu sự rạn nứt lớn của Công giáo ở Châu Âu lúc bấy giờ là sự ra đời của 
Tin Lành. Phong trào Tin Lành thế kỷ XVI đã đặt ra những nan đề về mặt 
thần học đối với những quan điểm chính thống về giáo hội của Giáo hội 
Công giáo. Giáo hội học đã trở thành một chủ đề được tranh luận mạnh 
mẽ giữa các nhà thần học theo các phong trào khác nhau. 
Vậy đứng trước những chuyển biến và thách thức như trên, Công 
đồng Trent do Giáo hội Công giáo tổ chức đã nhìn nhận thế nào về vấn 
đề giáo hội? 
Để trả lời vấn đề nghiên cứu này, bài viết của chúng tôi sẽ tập trung 
vào các nội dung chính sau: (1) Phân tích những thách thức kinh tế, xã 
hội, văn hóa đối với tư tưởng thần học về giáo hội của Giáo hội Công 
giáo thế kỷ XVI; (2) Chỉ ra những thách thức về mặt văn hóa, thần học 
⃰
 ThS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
68 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
đối với Giáo hội học Công giáo thế kỷ XVI qua phân tích quan niệm về 
giáo hội của phong trào Tin Lành thế kỷ XVI; (3) Chỉ ra những quan 
điểm về giáo hội của Công giáo thế kỷ XVI qua Công đồng Trent. 
2. Những thách thức đối với Giáo hội học Công giáo thế kỷ XVI 
2.1. Những thách thức về mặt kinh tế-xã hội và đời sống Giáo hội 
Nhìn chung, chế độ phong kiến Châu Âu vào cuối thời kỳ Trung cổ đã 
đưa dân chúng vào cuộc sống đói khổ và nô lệ dưới ách thống trị của các 
lãnh chúa. Đồng thời, người dân ở các nước này lúc đó còn bất bình với 
chính sách thuế khóa của các Bộ trong nước Tòa Thánh. Chỉ tính riêng tại 
Đức, Tòa Thánh đã sở hữu tới 1/3 diện tích ruộng đất1. Người nông dân 
rơi vào tình cảnh “một cổ hai tròng”, chịu gánh nặng thuế khóa từ cả phía 
các lãnh chúa phong kiến và Giáo hội. Nhiều nơi nông dân đã nổi dậy 
đấu tranh chống lại quý tộc phong kiến và giáo sĩ Công giáo. Đỉnh cao 
của phong trào này là cuộc chiến tranh nông dân ở Đức kéo dài suốt từ 
năm 1493 đến năm 1525. 
Trong khi chế độ phong kiến khủng hoảng, ở Châu Âu lúc này đã xuất 
hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, với sự ra đời của tầng lớp tư sản. 
Tầng lớp tư sản đã tích cực ủng hộ việc loại trừ các thế lực cát cứ, duy trì 
sự thống nhất của quốc gia, nhằm có được điều kiện thuận lợi cho việc 
phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ở Đức và Thụy Sĩ, tầng lớp tư sản 
đã liên minh với nông dân tiến hành nhiều cuộc đấu tranh chống lại giới 
quý tộc và giáo sĩ Công giáo, đòi hoàn trả ruộng đất. Tại Pháp, Anh, tầng 
lớp mới còn mong muốn thoát khỏi sự chi phối của Giáo hội Công giáo. 
Về phía Giáo hội Công giáo ở Tây Âu lúc bấy giờ, không ít giáo sĩ tuy 
thuộc đội ngũ tu hành nhưng lại sở hữu số tài sản lớn. Tầng lớp các giáo 
sĩ cao cấp của Giáo hội cũng chiếm hữu những vùng đất đai rộng lớn có 
nhiều nông nô và dân cư lệ thuộc. Đời sống đạo bị sa sút ở nhiều khía 
cạnh, tượng thánh và bùa xá tội đã bị thương mại hóa. 
Giáo hội Công giáo ở Châu Âu lúc bấy giờ được F. Engels nhận xét 
không khác gì một nhà nước phong kiến. “Đứng trên vương công và quý 
tộc có hoàng đế, thì đứng trên tăng lữ cao cấp và tăng lữ hạ cấp cũng có 
giáo hoàng. Giống như người ta phải nộp cho hoàng đế đồng phen-ních 
phổ biến và các thứ thuế của đế chế, người ta cũng phải nộp cho giáo 
hoàng các thứ thuế chung của giáo hội, dùng để trả cho sự xa hoa của 
Tòa Thánh La Mã”2. 
Dương Văn Biên. Quan điểm của Công đồng Trent... 69 
Trong khi đó, các quốc gia Châu Âu thế kỷ XV-XVI có đặc điểm 
chung là muốn tách khỏi những quyền lực thời Trung Cổ, khỏi quyền của 
giáo hoàng và đế quốc La-Đức. Nguyên nhân là do sự ra đời của phương 
thức sản xuất tư bản, giai cấp tư sản bắt đầu hình thành và do chính 
quyền các nước Châu Âu lúc đó muốn thoát khỏi sự chi phối của Giáo 
hội, hình thành các quốc gia độc lập. 
Những mâu thuẫn đối kháng xuất hiện giữa một bên là các thế lực, trật 
tự phong kiến lỗi thời, trì trệ, trong đó có Giáo hội Công giáo La Mã và 
bên kia là các tầng lớp, giai cấp xã hội mới đang trỗi dậy đòi quyền lợi về 
kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo cho mình. Bối cảnh này đã tạo ra 
những thách thức không nhỏ đối với việc duy trì quyền lực và hệ thống tổ 
chức thống nhất của Giáo hội vốn đã được xác lập trước đó. 
2.2. Những thách thức về mặt văn hóa và thần học 
Một hiện tượng văn hóa nổi bật thời kỳ này là sự ra đời của nền Văn 
hóa Phục hưng đề cao giá trị của con người, phê phán xã hội phong kiến 
và những trái ngang của Giáo hội Công giáo đương thời. Thời kỳ này 
tiếng Hy Lạp bắt đầu được giảng dạy ở Châu Âu đã giúp các nhà văn tiếp 
cận được với bản gốc của Kinh Thánh. Từ năm 1511 đến năm 1514, đại 
diện tiêu biểu của Văn hóa Phục hưng Erasmus đã dịch xong Tân Ước từ 
nguyên văn tiếng Hy Lạp ra tiếng Latinh, kèm theo những ghi chú liên 
quan và được xuất bản với số lượng lớn đã giúp cho các học giả và trí 
thức có thể tự tìm hiểu, so sánh lối sống trong Giáo hội thời kỳ nguyên 
thủy với hiện tại3. 
Trong khi đó, đến cuối thế kỷ XIV, thần học Kinh Viện trước sự tấn 
công bởi các nhà thần học như Wiclif và Huss đã phủ nhận những suy 
luận siêu hình, chủ trương thay bằng thực nghiệm và niềm tin tôn giáo đã 
dọn đường cho tư tưởng đề cao “Đức Tin” của Luther. Bên cạnh đó, sự 
xuất hiện Chủ nghĩa Nhân bản đã phê phán mạnh các nhà thần học kinh 
viện, đả kích lối sống đạo đức của thời Trung cổ. Những tư tưởng này đã 
tạo tiền đề cho tư tưởng thần học của Martin Luther (1483-1546), Unrich 
Zwingli (1484-1531) và John Calvin (1509-1564). 
Phong trào Tin Lành xuất hiện do Luther khởi xướng bắt đầu bằng bản 
“Luận văn 95 điều” được soạn thảo năm 1517 nhằm kịch liệt đả phá tệ 
buôn bán bùa xá tội. Tư tưởng thần học của Luther đã đặt lại một vấn đề 
lớn về vai trò của “Đức tin” và tranh luận trực tiếp với tư tưởng thần học 
về giáo hội của Công giáo trên nhiều phương diện từ tổ chức giáo hội, vai 
70 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
trò của giáo hoàng và hàng giáo sĩ đến vai trò của bí tích trong đời sống 
tôn giáo của tín đồ Công giáo. 
Cùng với Luther ở Đức, tại Thụy Sĩ cũng diễn ra cuộc cải cách tôn 
giáo do Unrich Zwingli lãnh đạo. Giống với quan điểm của Luther, 
Zwingli cũng đề cao vai trò của niềm tin, phủ nhận những những quyết 
định của Giáo hoàng, lên án việc bán bùa ân xá và phản đối thờ ảnh 
tượng, di vật các thánh. Thậm chí Zwingli còn chủ trương bãi bỏ hết các 
bí tích, bãi bỏ chế độ ăn chay và sống độc thân của tu sĩ Công giáo. 
Phong trào này còn vận động thiết lập giáo hội tổ chức theo nguyên tắc 
dân chủ và đưa thuế 1/10 trước kia nộp cho Tòa Thánh La Mã về cho 
giáo hội mới4. 
Calvin cũng kịch liệt phê phán Giáo hoàng Roma. Theo Calvin, ngôi 
vị giáo hội lúc bấy giờ đang bị chi phối bởi sự độc tài không khác gì cảnh 
lưu đày ở Babylon chứ không phải “thành đô thánh thiện của Thiên 
Chúa”5. 
Có thể thấy các nhà tư tưởng khởi xướng phong trào Tin Lành đã có 
nhiều quan điểm đối lập với các nhà thần học Công giáo về vấn đề giáo 
hội. Điều đó đã tạo ra những thách thức không nhỏ đối với việc bảo vệ 
giáo hội của các nhà thần học Công giáo. Các nguyên tắc quan trọng nhất 
của Giáo hội Công giáo thời Trung cổ như: “Quyền thiêng liêng đứng 
trên quyền thế tục; Chỉ giáo hoàng mới là người giải thích Thánh Kinh 
đích thực; Chỉ một mình giáo hoàng mới có thể triệu tập một công đồng”6 
đều bị Tin Lành phê phán. 
Có thể nói, phong trào Tin Lành đã trở thành một nan đề lớn nhất đối 
với Giáo hội Công giáo lúc bấy giờ. Phong trào Tin Lành lúc bấy giờ chủ 
yếu nhằm vào giáo sĩ, tấn công vào tài sản và địa vị chính trị của tầng lớp 
này. Thậm chí phong trào Tin Lành còn xem sự tiếp tục phát triển của 
giáo hội và của các giáo lý chỉ là “một sự thoái hóa”, và đòi hỏi phải phục 
hồi chế độ đơn giản của giáo hội Kitô giáo nguyên thủy và bãi bỏ đẳng 
cấp tăng lữ biệt lập. Giáo hội theo chủ trương của phong trào này là phải 
bãi bỏ các thầy tu, các giám mục, Tòa Thánh La Mã. Không chỉ đòi hỏi 
phục hồi chế độ giáo hội Kitô nguyên thủy, phong trào Tin Lành còn đòi 
tái lập sự bình đẳng giữa các thành viên trong công xã tôn giáo như 
những thế kỷ đầu của Kitô giáo, trên cơ sở “sự bình đẳng giữa những 
người con của Chúa”7. Theo F. Engels, phong trào Tin Lành lúc đó đã bị 
Giáo hội Công giáo coi là “tà giáo chính thức”. 
Dương Văn Biên. Quan điểm của Công đồng Trent... 71 
Có thể nói, cùng một lúc Giáo hội Công giáo và hệ tư tưởng thần học 
về giáo hội Công giáo phải đứng trước hai thách đố lớn: 
Một là, các tầng lớp mới trong xã hội và xu hướng hình thành các 
quốc gia dân tộc với chủ quyền độc lập đòi sự bình đẳng và tự chủ với 
Giáo hội cả về mặt kinh tế, chính trị và tôn giáo. 
Hai là, các nhà thần học Tin Lành đã đặt lại vấn đề cần phải trở về với 
nguồn gốc Kinh Thánh và Kitô giáo nguyên thủy, bãi bỏ hệ thống tổ chức 
của Giáo hội đã được thiết lập trong thời gian dài và chịu ảnh hưởng bởi 
quá trình phong kiến hóa cũng như được sự bồi đắp, biện luận bởi các 
quan điểm thần học. 
3. Công đồng Trent: Diễn biến và nội dung quan điểm về giáo hội 
3.1. Diễn biến Công đồng Trent (1545-1563) 
Tính đến nay, Công đồng Trent là một công đồng kéo dài nhất trong 
lịch sử Giáo hội Công giáo. Công đồng này được chia làm ba thời kỳ 
dưới sự chủ trì của ba giáo hoàng khác nhau. 
Thời kỳ thứ nhất: do Giáo hoàng Paul III chủ trì từ phiên 1-8 (từ ngày 
13/12/1545 đến ngày 11/3/1547) tại Trent. Nhưng sau đó do ảnh hưởng 
của bệnh dịch, Giáo hoàng đã chuyển địa điểm họp công đồng tới 
Bologna dù có 27 giám mục phản đối vẫn ở lại Trent. Từ phiên 9-10 (từ 
ngày 21/4 đến ngày 2/6/1547) không có tín lý nào được ban hành, sau đó 
tới ngày 29/2/1548 Công đồng phải hoãn lại. Trong thời kỳ này, mỗi 
phiên họp của Công đồng có khoảng từ 30-70 giám mục tham dự, chủ 
yếu là các giám mục người Italia, Tây Ban Nha. Giai đoạn này, Công 
đồng tập trung chủ yếu vào các quan điểm của Martin Luther, Huldrych 
Zwingli và những người theo phong trào này ở Đức và Thụy Sĩ. 
Thời kỳ thứ hai: do Giáo hoàng Julius III (trị vì 1550-1555) chủ trì, 
gồm các phiên 11-16 (từ ngày 1/5/1551 đến ngày 28/4/1552). Tham dự 
các phiên có khoảng 44-51 giám mục, có lúc lên tới 59 giám mục. Giai 
đoạn này có sự hiện diện của nhiều giám mục Đức (13 người). Tuy 
nhiên, Công đồng đã bị trì hoãn do xung đột quân sự. 
Thời kỳ thứ ba: do Giáo hoàng Pius IV (trị vì 1559-1565) chủ trì, gồm 
các phiên từ 17-26 (ngày 18/1/1562 - 3,4/12/1563). Lần này có tới 13 
giám mục, 18 nhà thần học từ Pháp tham dự sau khi phong trào cải cách 
do Jean Calvin (1509-1564) khởi xướng phát triển mạnh tại Pháp. Có tất 
cả 270 giám mục tham dự Công đồng ở giai đoạn này và hầu hết là người 
72 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
Italia (187 người), Tây Ban Nha (31 người) và Pháp (26 người). Quyết 
định cuối cùng của Công đồng được 255 giám mục ký. Như thế, Công 
đồng Trent diễn ra trong thời gian 5 năm và 1 tháng8. 
Trong ba thời kỳ diễn ra, Công đồng Trent có tất cả 25 phiên họp và 
đưa ra rất nhiều sắc lệnh và giáo luật. 
Để thực hiện các văn kiện, giáo luật của Công đồng Trent, Giáo hoàng 
Pius IV ban hành nhiều sắc lệnh và lập một ủy ban gồm 8 hồng y để thực 
hiện. Vị giáo hoàng này đã chỉ thị ban hành sách giáo lý Công đồng 
Trent. Nhưng phải đến năm 1566, giáo lý của Công đồng Trent mới được 
xuất bản. Nội dung bộ giáo lý bao gồm bốn phần: Tín lý (có 12 điều), 
Mười Điều Răn, Các Bí tích, và Quy định Kinh cầu nguyện Chúa. Đây là 
bộ giáo lý có ảnh hưởng trong suốt thời gian lâu dài của Giáo hội Công 
giáo. Những quy định về Giáo hội tập trung chủ yếu trong Điều 9 của 
phần Tín lý. 
3.2. Nội dung quan điểm về giáo hội của Công đồng Trent 
Quan điểm về giáo hội của Công đồng Trent không chỉ bó hẹp trong 
nội dung các văn kiện, giáo luật mà còn được thể hiện cả trong sách giáo 
lý được ban hành theo tinh thần của Công đồng này. Văn kiện, giáo luật 
và giáo lý Công đồng Trent đã đưa ra các quan điểm về Giáo hội Công 
giáo trên nhiều phương diện: vai trò của Giáo hội đối với các vấn đề liên 
quan đến Kinh Thánh, bí tích, tổ chức và kỷ luật của Giáo hội. 
Về vai trò của Giáo hội đối với các vấn đề liên quan đến Kinh Thánh, 
Công đồng Trent khẳng định Giáo hội là một tổ chức “bảo quản sự tinh 
khiết của Kinh Thánh một cách liên tục”9. Đồng thời, Giáo hội cũng là tổ 
chức có quyền phán xét về ý nghĩa và giải thích nội dung Kinh Thánh. 
Không có bất kỳ ai, dù người đó có kỹ năng gì đi chăng nữa, cũng không 
được giải thích Kinh Thánh (lời của Chúa) theo cách riêng của mình10. 
Giáo lý của Công đồng Trent còn khẳng định quyền nắm giữ chân lý 
trong Kinh Thánh và giáo lý của Giáo hội. Giáo hội được cho là “không 
thể sai lầm khi đưa ra các nguyên tắc về niềm tin và luân lý do được sự 
hướng dẫn của Chúa Thánh Thần”. Ngược lại các trào lưu nhân danh 
“giáo hội” (ám chỉ Tin Lành) đều sai lầm11. 
Đối với các bí tích, Công đồng Trent khẳng định bí tích do Chúa Jesus 
thiết lập nên nhưng Giáo hội có quyền phân phát và quản trị bí tích. Nếu 
bất kỳ ai phủ nhận vai trò quản trị các bí tích của Giáo hội Công giáo thì 
người đó sẽ bị trục xuất khỏi giáo hội (phạt vạ tuyệt thông)12. 
Dương Văn Biên. Quan điểm của Công đồng Trent... 73 
Cụ thể, việc tổ chức Bí tích Rửa tội cho trẻ nhỏ phải được Giáo hội 
thực hiện và nó có ý nghĩa là để gia nhập vào Giáo hội. Những người đã 
làm lễ rửa tội vẫn phải chịu những quy định của giáo luật (dưới dạng văn 
bản hay truyền thống) của Giáo hội13. Việc thực hiện Bí tích Rửa tội 
giống như “một bài đánh giá” của Giáo hội xem ai có thể được gia nhập 
vào Giáo hội. Còn thực hiện Bí tích Giải tội được xem là cách mà Giáo 
hội cho những người đã được rửa tội tự thực hiện “rửa tội chính mình” để 
được cứu rỗi14. Với Bí tích Thêm sức, Công đồng Trent quy định trong 
Giáo hội chỉ giám mục mới được thực hiện bí tích này chứ không phải do 
linh mục15. Với Bí tích Hôn phối, Giáo hội có quyền cử hành, ngăn trở 
hoặc hòa giải trong hôn nhân, duy trì hôn nhân bất khả phân ly16. Trong 
phần về Bí tích Truyền chức Thánh, Công đồng Trent khẳng định nếu bất 
kỳ ai nói thụ phong chức thánh không đúng và không phải là một bí tích 
được Chúa Kitô thiết lập mà do con người thiết lập thì người ... ối sống 
và luân lý. Trong Giáo hội này những người được gọi là tốt không chỉ có 
cùng niềm tin, hiệp thông cùng bí tích mà còn có cùng ân sủng và tham 
gia vào việc tốt”27. Giáo lý Công đồng khẳng định người tín đồ theo đuổi 
Giáo hội đích thực không phải là ở trên trần thế với những thứ hữu hạn 
mà là giáo hội ở trên trời và vĩnh cửu28. 
Mặc dù không thay đổi về mô hình tổ chức giáo hội, nhưng Công 
đồng Trent cũng không thể chối bỏ về thực tế đời sống giáo hội lúc bấy 
giờ. Để chỉnh đốn lại sự sa sút về phẩm hạnh, lối sống trong Giáo hội, 
Công đồng Trent đã đưa ra một số quy định nhằm điều chỉnh các hoạt 
động của hàng giáo sĩ và tu sĩ Công giáo. 
Theo Công đồng Trent, tất cả các giáo sĩ, thậm chí cả các hồng y của 
Tòa Thánh Rome phải có nghĩa vụ cư trú trong nhà thờ của mình hoặc 
giáo phận của mình29. Các giáo sĩ được phép vắng mặt trong thời gian 
ngắn 2-3 tháng khi có lý do chính đáng và không được vắng mặt tại nhà 
thờ của mình trong thời gian diễn ra Mùa Vọng30, Mùa Chay31, trong 
những ngày Giáng Sinh, Phục Sinh, Lễ Ngũ Tuần32. 
Bản thân các giám mục phải thực hiện nghĩa vụ truyền chức thánh và 
không được gửi người cho giám mục ở giáo phận khác thụ phong, chỉ trừ 
trường hợp bị ốm đau hoặc những trường hợp đã được kiểm duyệt, cho 
phép33. 
Các tu sĩ phải tuân thủ nghiêm luật dòng, không được sở hữu tài sản 
riêng bằng bất kỳ hình thức nào. Ngay cả việc sử dụng các vật dụng trong 
tu viện cũng phải được phép của Bề trên Dòng và phải phù hợp với lối 
sống khó nghèo. Các dòng tu được thành lập phải có sự cho phép của 
giám mục. Bề trên của dòng cũng không được phép rời bỏ tu viện để đến 
các trường đại học. Thiết chặt luật dòng đảm bảo an toàn cho các nữ tu34. 
76 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
4. Một số nhận xét 
Những quan điểm của Công đồng Trent tiếp tục hệ thống hóa và tái 
khẳng định lại quan điểm thần học Công giáo thời kỳ Trung đại về vai trò 
của Giáo hội đối với sự kết nối giữa người Công giáo với Thiên Chúa. 
Giáo hội vẫn được xem là một tổ chức không thể thiếu trong hành trình 
thực hành để đạt đến đích trong đời sống tôn giáo (về với Thiên Chúa) 
của người Công giáo. 
Để giữ được vai trò cầu nối không thể thiếu đó, Giáo hội được Công 
đồng Trent xác định là tổ chức có quyền nắm giữ chân lý trong Kinh 
Thánh và truyền thống. Thể hiện cụ thể bằng việc Giáo hội là tổ chức ấn 
định các sách trong Kinh Thánh, có quyền giải thích ý nghĩa của Kinh 
Thánh chứ không phải cá nhân tín đồ tự diễn giải, tự hiểu về Kinh Thánh. 
Bên ngoài Giáo hội, Kinh Thánh sẽ không được giải thích đúng đắn. 
Quan điểm này của Công đồng Trent rõ ràng là lời đáp trả lại quan 
điểm của phong trào Tin Lành thế kỷ XVI khi cho rằng: “Kinh Thánh có 
tính tự chứng nghiệm, tự đầy đủ và tự diễn dịch. Vì nó có tính tự chứng 
nghiệm nên bộ quy điển tự xác nhận mình, không cần phải được chứng 
minh bởi thẩm quyền Giáo hội. Vì nó có tính tự đầy đủ, nên người ta 
không cần phải tìm kiếm chân lý mạc khải ở đâu khác ngoài những sách 
Kinh Thánh. Giáo lý của Giáo hội chỉ có thể nhắc lại và làm sáng tỏ 
những gì vốn đã được dạy trong Kinh Thánh. Cuối cùng vì Kinh Thánh 
có tính tự diễn dịch nên tín đồ không cần bất cứ một cơ quan nào khác 
trình bày cho mình ý nghĩa của Kinh Thánh”35. 
Ngoài Kinh Thánh, theo quan điểm của Công đồng Trent còn có cả 
một hệ thống luật lệ và truyền thống của Giáo hội. Những lề luật và 
truyền thống này cũng phải được Giáo hội thừa nhận. Đồng thời nó 
cũng được xem là một nguồn chân lý không thể thiếu đối với người 
Công giáo. Đây cũng là quan điểm nhằm phản bác lại quan điểm của 
phong trào Tin Lành thế kỷ XVI, đặc biệt là phái Luther khi cho rằng 
Kinh Thánh làm nền tảng cho mọi nền thần học và duy chỉ có Kinh 
Thánh mới đúng đắn36. 
Cùng với Kinh Thánh, luật lệ và truyền thống, Giáo hội Công giáo còn 
có quyền tổ chức thực hiện, trao ban và giám sát các bí tích cho các tín 
đồ. Vai trò quản trị bí tích của Giáo hội được Công đồng Trent xác định 
là điều buộc tín đồ phải công nhận nếu không sẽ bị trục xuất khỏi Công 
giáo (phạt vạ tuyệt thông). Các bí tích được Công đồng Trent khẳng định 
Dương Văn Biên. Quan điểm của Công đồng Trent... 77 
do Chúa Jesus thiết lập nên và được xem như là một công cụ, phương 
tiện để người Công giáo kết nối với Thiên Chúa trong hành trình thực 
hành đời sống tôn giáo. Đáng chú ý, các bí tích này lại được trải dài và 
gắn với những cột mốc then chốt trong vòng đời xét cả về mặt thế tục và 
tôn giáo của mỗi người Công giáo. 
Lập luận của Công đồng Trent một lần nữa khẳng định, bằng việc sở 
hữu các công cụ, phương tiện để đạt tới thế giới thiêng trong đời sống tôn 
giáo của người Công giáo như Kinh Thánh, truyền thống, luật lệ cho đến 
các bí tích, Giáo hội đương nhiên trở thành tổ chức có quyền phán xét 
những tín đồ nào có thể được giải thoát hay không bằng nhiều phương 
cách khác nhau. 
Một trong những phương cách để Giáo hội giúp người tín đồ có thể 
đạt được mục đích trong đời sống tôn giáo của mình là việc thực hiện bí 
tích Giải tội thông qua đội ngũ các giáo sĩ. “Người Công giáo có trong 
tay sự xá giải của giáo hội mình để bù đắp sự khiếm khuyết của mình. 
Linh mục là một thuật sĩ, người thực hiện phép lạ của sự biến thể và nắm 
trong tay chiếc chìa khóa đóng và mở cửa đời sống đời đời. Người ta có 
thể quay trở lại với vị linh mục với lòng sám hối và ăn năn; linh mục, 
bằng việc cử hành các bí tích, ban phát sự cứu độ, niềm hy vọng có được 
ân sủng, sực chắc chắn được tha thứ”37. Công đồng Trent vẫn khẳng 
định bí tích này do Chúa Jesus lập ra và việc thực hiện bí tích này trong 
Giáo hội là điều bắt buộc và cần thiết khi Giáo hội còn tồn tại những 
người xấu và người tốt. 
Không những sở hữu các công cụ, phương tiện như trên, Công đồng 
Trent còn khẳng định Giáo hội là một hệ thống có cơ cấu tổ chức với 
hàng giáo sĩ được phân chia thành các thứ bậc, trong đó Giáo hoàng là 
người trên hết và các vị giáo sĩ như là người đại diện của Chúa. Tất nhiên 
đây không phải là một điểm mới trong quan điểm thần học về giáo hội 
của Công đồng Trent. Từ thời Trung cổ, các nhà thần học Công giáo đã 
đưa ra mô hình giáo hội như là một thiết chế với một hệ tôn ti trật tự38. 
Có thể nói, về thực chất Công đồng Trent không từ bỏ cách nhìn nhận 
về giáo hội ở thời kỳ Trung đại, nhấn mạnh tới đội ngũ giáo sĩ, còn 
những người tín hữu với tư cách là chủ thể tôn giáo dường như đã bị gạt 
ra khỏi mối quan tâm của Giáo hội học39. Những quan điểm về một giáo 
hội “Kim Tự Tháp” với đỉnh chóp là giáo hoàng, dưới là hàng giám mục, 
linh mục và cuối cùng là giáo dân của Công đồng Trent còn có ảnh 
78 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
hưởng cả một thời kỳ sau Công đồng, thậm chí còn có tác động lâu dài 
đối với các công đồng sau này. 
Những quan điểm về giáo hội của Công đồng Trent không chỉ đơn 
thuần là sự tranh luận về mặt thần học với phong trào Tin Lành, mà còn là 
sự phản ánh, biện luận cho mong muốn duy trì trật tự cũ của các lực lượng 
phong kiến thời Trung cổ, mà đại diện tiêu biểu là Giáo hội Công giáo, 
trước nguy cơ bị tan rã do sự ra đời và lớn mạnh của tầng lớp thị dân. 
Chính các tranh luận thần học còn là “các biểu đạt xã hội” của các tôn 
giáo40 nói chung và Công giáo nói riêng. Cho nên có thể nói rằng, hệ 
thống quan điểm thần học về giáo hội của Công đồng Trent không dừng 
ở chuyện tranh luận về “những công việc ở trên trời” mà còn là sự tranh 
luận về “những công việc trên trần thế”. Sự phản bác của Công đồng 
Trent đối với thần học Tin Lành thế kỷ XVI là một trong những biểu hiện 
của cuộc đấu tranh giai cấp mang “vỏ bọc tôn giáo”41. 
Tuy nhiên, Công đồng Trent cũng không thể lảng tránh vấn đề điều 
chỉnh lại đời sống giáo hội sao cho phù hợp hơn với tinh thần của Kinh 
Thánh. Điển hình như việc yêu cầu các giáo sĩ phải giữ cư trú tại các 
giáo phận của mình và thực hiện nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tôn giáo 
của tín đồ. Các tu sĩ phải thực hiện đời sống khiết tịnh và khó nghèo. 
Thực chất các quan điểm này của Công đồng Trent là một sự đổi mới 
của Giáo hội Công giáo nhằm chấn hưng sức sống của Công giáo trong 
bối cảnh đời sống đạo bị sa sút ở nhiều mặt. Đây chính là những thay 
đổi thể hiện sự điều chỉnh sao cho có thể thích nghi và tồn tại được của 
Giáo hội Công giáo thời kỳ này chứ chưa phải là một sự đột phá về thể 
chế tổ chức giáo hội./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn La (1998), Lịch sử 
thế giới trung đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội: 116. 
2 Chiến tranh nông dân ở Đức, trong C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn, tập 7, Nxb. 
Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 1995: 465. 
3 Alice Parmelee (Nguyễn Xuân Cảnh dịch) (1986), Lược sử Hội Thánh, Viện 
Thần học Việt Nam xuất bản: 160. 
4 Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn La (1998), Lịch sử 
thế giới trung đại, Sđd: 131. 
5 Xem John Calvin (Henry Beveridge dịch sang tiếng Anh), Institues of the 
Christian Religion, Chapter II. Comparison between the false church and the 
true,  
Dương Văn Biên. Quan điểm của Công đồng Trent... 79 
6 Hans Kung (Nguyễn Nghị dịch, 2008), Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo, Nxb. 
Tri thức, Hà Nội: 231. 
7 Chiến tranh nông dân ở Đức, Sđd: 477, 479. 
8 Xem Council of Trent, 
https://en.wikipedia.org/wiki/Council_of_Trent#List_of_decrees; 
https://www.britannica.com/event/Council-of-Trent 
9 The canons and decrees of the sacred and oecumenical Council of Trent, J. 
Waterworth (London: Dolman dịch sáng tiếng Anh, 1848: 17-18. Bản trực tuyến 
trên  
10 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 20. 
11 Catechism of the Council of Trent, George Routledge And Co, Farringdon Street, 
London, 1852: 104. 
12 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 56. 
13 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 57. 
14 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 94. 
15 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 58. 
16 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 194-195. 
17 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 142-143. 
18 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 47. 
19 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 48. 
20 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 175. 
21 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 175. 
22 Catechism of the Council of Trent, Sđd: 99. 
23 Catechism of the Council of Trent, Sđd: 101. 
24 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 172. 
25 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 173. 
26 Catechism of the Council of Trent, Sđd: 96. 
27 Catechism of the Council of Trent, Sđd: 96-97. 
28 Catechism of the Council of Trent, Sđd: 94. 
29 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 176. 
30 Mùa Vọng là mùa gắn liền với mùa Giáng Sinh, gồm bốn Chủ nhật. Tùy từng 
năm, Mùa Vọng bắt đầu sớm nhất vào ngày 27 tháng 11, và trễ nhất vào ngày 3 
tháng 12. 
31 Mùa Chay kéo dài 40 ngày tượng trưng cho cuộc hành trình 40 năm của dân 
Israel trong sa mạc và tương ứng với 40 ngày Chúa Jesus giữ chay trong sa mạc. 
32 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 177-178. 
33 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 180. 
34 The canons and decrees of the sacred and , Sđd: 237-240. 
35 Avery Dulles (Lê Công Đức dịch) (2009), Các mẫu thức mạc khải, Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội: 384-385. 
36 Thomas P. Rausch S. J. (Nguyễn Đức Thông dịch) (2010), Đạo Công giáo Thiên 
niên kỷ thứ ba, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 154. 
80 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2016 
37 Max Weber (Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch) 
(2008), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của Chủ nghĩa Tư Bản, Sđd: 200. 
38 Dương Văn Biên (2015), “Mô hình Giáo hội theo Tân Ước và Thần học Công 
giáo Trung đại”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2: 39-57. 
39 Avery Cardinal Dulles, Models of the Church, Sđd: 28. 
40 Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Triển khai lý thuyết thực thể tôn giáo”, Nghiên Cứu 
Tôn giáo, số 10: 15. 
41 Ph. Ăngghen (1995), Chiến tranh nông dân ở Đức, Sđd: 475. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alice Parmelee (Nguyễn Xuân Cảnh dịch) (1986), Lược sử Hội Thánh, Viện 
Thần học Việt Nam xuất bản. 
2. Avery Dulles (2002), Models of Church, Doubleday, New York. 
3. Avery Dulles (Lê Công Đức dịch) (2009), Các mẫu thức mạc khải, Nxb. Tôn 
giáo, Hà Nội. 
4. Chiến tranh nông dân ở Đức, trong C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, tập 7, 
Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 1993. 
5. Dương Văn Biên (2015), “Mô hình Giáo hội theo Tân Ước và Thần học Công 
giáo Trung đại”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2. 
6. Catechism of the Council of Trent, George Routledge And Co, Farringdon Street, 
London, 1852. 
7. Council of Trent, https:// en.wikipedia.org / wiki/ Council_of_Trent # 
List_of_decrees 
8. Hans Kung (Salvator Attanasio dịch sang tiếng Anh) (1964), Structures of the 
Church, Thomas Nelson & Sons, New York 
9. Hans Kung (Nguyễn Nghị dịch, 2008), Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo, Nxb. 
Tri thức, Hà Nội. 
10. FX. Đoàn Trung Hiệu OP (1997), Cuộc lữ hành đức tin, tập II: Giáo hội thế kỷ 
XV-XX, Lưu hành nội bộ. 
11. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ủy ban Giáo lý Đức tin, Công đồng Vaticanô II, 
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2012. 
12. Nguyễn Xuân Hùng (2001), “Về nguồn gốc và sự xuất hiện tên gọi đạo Tin 
Lành tại Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 3. 
13. Massimo Faggioli, Vatican II: The Battle for meaning, Paulist Press, 2012. 
14. Max Weber (Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang 
dịch) (2008), Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản, Nxb. 
Tri thức, Hà Nội. 
15. Michael A. Mullett (1999), The Catholic Reformation, Routledge, London. 
16. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn La (1998), Lịch 
sử thế giới trung đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
17. John Calvin (Henry Beveridge dịch sang tiếng Anh), Institues of the Christian 
Religion, Chapter II. Comparison between the false church and the true, 
Dương Văn Biên. Quan điểm của Công đồng Trent... 81 
18. John W.O’Malley, S.J, Vatican II: Did anything happen?, Theological Studies 
67 (2006). 
19. Bùi Đức Sinh (1972), Lịch sử Giáo hội Công giáo, Chân Lý Xuất Bản, Sài Gòn. 
20. The canons and decrees of the sacred and oecumenical Council of Trent, J. 
Waterworth, London: Dolman dịch sang tiếng Anh, 1848. 
21. The 95 Theses,  
22. Thomas P. Rausch S. J. (Nguyễn Đức Thông dịch) (2010), Đạo Công giáo Thiên 
niên kỷ thứ ba, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 
23. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Triển khai lý thuyết thực thể tôn giáo”, Nghiên cứu 
Tôn giáo, số 10. 
24. Từ điển Britannica, CD. 
25. Website: Wikipedia, Newadvent.org. 
Abstract 
THE COUNCIL OF TRENT’S VIEW ON CHURCH 
Based on the analysis of economic-social, cultural and religious 
challenges for the Catholic Church in Europe in the 16th century, the 
article presents and explains the viewpoint on Church organization of the 
Council of Trent. The Council reaffirmed that the model of church as an 
institute which remained the hierarchy and the power of the pope. 
According to the Structural Functionalism, it was one of the modes of 
protecting the Catholic Church structure from the Protestant theology at 
that time. 
Keywords: Church, council, Trent, view. 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_cong_dong_trent_ve_giao_hoi_cong_giao.pdf