Quy trình đánh giá đầy đủ vốn nội bộ theo Basel của ngân hàng thương mại
Bắt đầu từ Hiệp ước Basel II, một khái niệm mới về khung đánh giá
đầy đủ vốn nội bộ của ngân hàng được xuất hiện và công bố lần đầu
vào năm 2004. Quy trình đánh giá tính đầy đủ vốn nội bộ (ICAAPInternal Capital Adequacy Assessment Process) là một yêu cầu quan trọng đảm bảo ổn định tài chính. Theo đó, các ngân hàng cần thiết
lập quy trình đo lường vốn để đảm bảo có thể xác định, đo lường rủi
ro cá biệt và tổng rủi ro, từ đó tính vốn kinh tế cần thiết bù đấp các
rủi ro đó. Bài viết đi sâu vào khung lý thuyết của quy trình ICAAP
theo Hiệp ước Basel và một số gợi ý chính sách khi triển khai quy
trình này tại các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam.
Bạn đang xem tài liệu "Quy trình đánh giá đầy đủ vốn nội bộ theo Basel của ngân hàng thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quy trình đánh giá đầy đủ vốn nội bộ theo Basel của ngân hàng thương mại
58 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 Quy trình đánh giá đầy đủ vốn nội bộ theo Basel của ngân hàng thương mại QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP Nguyễn Thùy Dương Nguyễn Bích Ngân Ngày nhận: 25/10/2018 Ngày nhận bản sửa: 05/11/2018 Ngày duyệt đăng: 12/11/2018 Bắt đầu từ Hiệp ước Basel II, một khái niệm mới về khung đánh giá đầy đủ vốn nội bộ của ngân hàng được xuất hiện và công bố lần đầu vào năm 2004. Quy trình đánh giá tính đầy đủ vốn nội bộ (ICAAP- Internal Capital Adequacy Assessment Process) là một yêu cầu quan trọng đảm bảo ổn định tài chính. Theo đó, các ngân hàng cần thiết lập quy trình đo lường vốn để đảm bảo có thể xác định, đo lường rủi ro cá biệt và tổng rủi ro, từ đó tính vốn kinh tế cần thiết bù đấp các rủi ro đó. Bài viết đi sâu vào khung lý thuyết của quy trình ICAAP theo Hiệp ước Basel và một số gợi ý chính sách khi triển khai quy trình này tại các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam. Từ khoá: Quy trình đánh tính đầy đủ vốn nội bộ, Basel 2, Vốn kinh tế, Vốn bù đắp rủi ro, VaR. 1. Khái niệm quy trình ICAAP uy trình đánh giá an toàn vốn nội bộ (ICAAP) là vấn đề trọng tâm trong trụ cột 2 của Basel II. Quy trình này đưa ra các hướng dẫn cho NHTM về đánh giá mức độ rủi ro, khẩu vị rủi ro, khả năng chịu đựng sức căng về vốn (stress testing), mức độ an toàn vốn nội bộ và nội dung khác. Yêu cầu chính của khung ICAAP là đánh giá mức độ an toàn vốn với các mức rủi ro thích hợp của NHTM. Cụ thể, ICAAP đề cập tới toàn bộ các rủi ro trọng yếu của ngân hàng như: Các loại rủi ro đã được đề cập tới ở trụ cột 1 của Basel II (bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động) và các rủi ro khác chưa được đề cập tới trong trụ cột 1 (bao gồm rủi ro tập trung, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng, rủi ro danh tiếng, rủi ro chiến lược). Quy trình ICAAP được soạn thảo dưới dạng văn bản nội bộ, cần được hiểu và chia sẻ tới tất cả các bộ phận trong NHTM và sẽ được rà soát thường xuyên bởi một cơ quan độc lập. Trong NHTM, ban lãnh đạo cấp cao (Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên/Ban điều hành) nên là bộ phận chịu trách nhiệm cao nhất về ICAAP. Nguyên nhân chính của việc ra đời ICAAP là để khắc phục những thiếu sót của Basel I bằng cách yêu cầu các tổ chức tài chính phát triển QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 59Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 một hệ thống quản lý rủi ro thích hợp toàn diện như một thành phần của Trụ cột 2 (Pilková và Králik, 2011; KPMG, 2011). Vai trò quan trọng của ICAAP là để tăng cường sự liên kết giữa trạng thái rủi ro, quy trình quản lý rủi ro, hệ thống giảm thiểu rủi ro và quản lý vốn của ngân hàng (Woschnagg, 2008). Thực tế, kể từ Hiệp ước Basel II ra đời năm 2004 và trước cuộc khủng hoảng năm 2008, các NHTM đã tập trung vào việc tuân thủ theo trụ cột 1, ngay cả các cơ quan giám sát ngân hàng cũng dành phần lớn thời gian của mình vào đanh giá việc tuân thủ theo trụ cột 1. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã cho thấy việc tuân thủ này vẫn khiến các NHTM phải trả một chi phí lớn. Trước thực tế đó, sau khủng hoảng, hàng loạt các cải cách về quy định hạn chế với các NHTM được thiết lập. Đứng trên góc nhìn của Quản trị Vốn bù đắp rủi ro Kiểm tra sức chịu đựng Vốn kinh tế Đảm bảo an toàn vốn Đánh giá rủi ro Trụ cột 1: ○ Rủi ro tín dụng ○ Rủi ro thị trường ○ Rủi ro hoạt động Trụ cột 2: ○ Rủi ro thanh khoản ○ Rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng ○ Rủi ro tập trung ○ Chínhsách / quy trình quản lý rủi ro ○ Khẩu vị rủi ro Sơ đồ 1. Khung ICAAP Nguồn: EY Nguồn: Basel 2 (2006) Sơ đồ 2. Ba trụ cột của hiệp ước Basel II QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018 cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng thì tất cả các quy định về vốn trước đây đều dựa theo các con số ước tính và không thể có một phương pháp duy nhất để phù hợp chung cho tất cả các ngân hàng. Như vậy, bản thân các NHTM và cơ quan thanh tra giám sát đều cần có một khung đo lường- giám sát về vốn và mức độ đủ vốn. Với các phiên bản cập nhật sau đó, Basel II đã nhấn mạnh vào củng cố trụ cột 1 và tập trung nhiều hơn vào trụ cột 2 với hai cấu phần chính gồm: Quy trình đánh giá mức độ đầy đủ vốn nội bộ (ICAAP) và Quy trình rà soát, đánh giá của Thanh tra, giám sát (Supervisor Review and Evaluation Process- SREP). 2. Mục tiêu của quy trình ICAAP So với Basel I, Basel II hướng tới mục tiêu thiết lập một khung quản lý rủi ro hiệu quả hơn, với mục tiêu trung tâm là thiết lập một mức vốn thận trọng tương ứng với mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng (TCTD). Trong đó, trụ cột 2 trong Basel II được xây dựng nhằm mục tiêu đảm bảo mối quan hệ phù hợp giữa mức độ rủi ro của TCTD với mức vốn họ thực sự nắm giữ về cả số tuyệt đối và cấu phần vốn (vốn cốt lõi, vốn theo trụ cột 1, vốn theo trụ cột 2) và về mức độ phù hợp trong phân bổ vốn giữa các đơn vị kinh doanh trong cùng một hệ thống TCTD. Để thực hiện mục tiêu này, Basel II1 đã chỉ ra các TCTD nên thực hiện ICAAP để nhận diện, đo lường và tổng hợp các loại rủi ro của mình, từ đó xác định mức vốn cần thiết để chống đỡ với các rủi ro đó. Quy trình này nên bao gồm cả kế hoạch vốn trong trung hạn theo ICAAP và các mục tiêu đủ vốn của chính TCTD tự thiết lập sao cho tương xứng với những yêu cầu của trụ cột 1 một cách thường xuyên, liên tục. Như vậy, ICAAP là một cấu phần của khung quản lý rủi ro tổng thể của NHTM và ICAAP sẽ gắn kết các hoạt động quản trị vốn với quản trị rủi ro trong TCTD, từ đó hỗ trợ tổ chức trong việc đưa ra các quyết định kinh doanh. Theo Basel II2 trong việc thiết kế ICAAP, NHTM phải chứng minh được các mục tiêu 1 Điều 123 2 Điều 126, 127 về vốn nội bộ của mình là phù hợp và tương thích với hồ sơ rủi ro chung của ngân hàng cũng như môi trường kinh doanh hiện tại. Tiếp theo, trong việc đánh giá mức độ đủ vốn, các nhà quản trị ngân hàng, những người chịu trách nhiệm về đảm bảo mức độ đủ vốn để ứng phó với rủi ro trong tổ chức của mình, cần hiểu đầy đủ về các chu kì kinh doanh của ngành, lĩnh vực mình đang thực hiện. Do vậy, việc thực hiện các kiểm tra sức chịu đựng sẽ giúp nhận diện các tình huống hoặc thay đổi có thể xảy ra trong các điều kiện thị trường mà có thể ảnh hưởng đảo ngược tới hoạt động kinh doanh của NHTM. Để thực hiện được các yêu cầu trên, nhà quản trị ngân hàng nên xây dựng một quy trình ICAAP toàn diện trên tám khía cạnh sau: (i) Đảm bảo sự giám sát của Ban điều hành và các cán bộ quản lý cấp cao. (ii) Xác định và đánh giá đầy đủ về các loại rủi ro NHTM phải đối mặt. (iii) Xác định khẩu vị rủi ro và khả năng chịu đựng rủi ro của NHTM. (iv) Đánh giá tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. (v) Quy định về chế độ giám sát, kiểm soát rủi ro và báo cáo trong nội bộ NHTM. (vi) Xác định và đánh giá mức độ đủ vốn và kế hoạch dự phòng về vốn. (vii) Thực hiện kiểm tra sức chịu đựng. (viii) Lập báo cáo ICAAP. Dựa trên các khía cạnh trên, khung ICAAP hướng yêu cầu vốn tập trung vào ba nội dung sau: Thứ nhất, cải thiện các phương pháp đo lường rủi ro của NHTM nhằm xác định chính xác nhất các loại rủi ro và mức độ ảnh hưởng của chúng tới an toàn vốn của NHTM. Thứ hai, đảm bảo mức độ an toàn vốn tại NHTM trước các loại rủi ro trên. Thứ ba, tăng cường tính minh bạch về việc thực hiện mức an toàn vốn tại NHTM. 3. Nội dung quy trình ICAAP Để thực hiện đầy đủ một quy trình ICAAP, NHTM cần thực hiện các bước theo Sơ đồ 3. Các nội dung cụ thể của quy trình ICAAP đã được Basel II (2006) và Basel (2009) nêu ra như sau: QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 61Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 Giám sát của Ban điều hành và các cán bộ quản lý cấp cao: ○ Xây dựng văn hoá quản lý rủi ro ○ Kết hợp chiến lược quản lý rủi ro với chiến lược hoạt động của NH ○ Xác định khẩu vị rủi ro ○ Phê duyệt chính sách và quy trình quản lý rủi ro. Xác định và đánh giá đầy đủ về các loại rủi ro và: ○ Nhận diện tất cả các rủi ro phát sinh trong hoạt động của ngân hàng ○ Xây dựng/cập nhật ma trận rủi ro ○ Đo lường mức độ của tất cả các rủi ro trong mô hình kinh doanh của ngân hàng (mức độ tác động, tần suất xuất hiện) Xác định khẩu vị rủi ro và đánh giá sức chịu đựng rủi ro: ○ Xác định khẩu vị rủi ro ○ Mô tả các cách thức kiểm soát để giảm thiểu tác động/tổn thất của từng loại rủi ro, bao gồm cả các chiến lược bảo hiểm, bảo đảm rủi ronếu có. ○ Nêu rõ bộ phận/cá nhân trực tiếp đối mặt với rủi ro và bộ phận/cá nhân chịu trách nhiệm về rủi ro Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ: Một bộ phận độc lập (Kiểm soát nội bộ hoặc một bên đối tác ngoài) rà soát lại quy trình để xác minh tính tin cậy, mức độ chắc chắn của quy trình trên Chế độ giám sát, kiểm soát rủi ro và báo cáo: ○ Đánh giá kết quả của việc kiểm tra sức chịu đựng rủi ro ○ Sử dụng các biện pháp cảnh báo sớm để giải quyết ○ Nêu các vấn đề trọng yếu cần đặt trọng tâm quản trị dưới dạng tóm tắt tổng hợp Xác định và đánh giá mức độ đủ vốn và kế hoạch dự phòng: ○ Đánh giá mức vốn nội bộ hiện tại có đủ để ứng phó với rủi ro hay không ○ So sánh mức vốn nội bộ với các yêu cầu vốn tối thiểu trong trụ cột 2 Kiểm tra sức chịu đựng: ○ Xác định rõ các giả định để thực hiện kiểm tra sức chịu đựng ○ Sử dụng các kịch bản thích hợp với mô hình kinh doanh hiện tại của ngân hàng ○ Xác định tác động tới vốn theo trụ cột 2 Lập báo cáo ICAAP: ○ Đưa ra báo cáo ICAAP được cấu trúc rõ ràng ○ Trình báo cáo ICAAP cho ban điều hành/Hội đồng quản trị ○ Chia sẻ báo cáo này với các bộ phận liên quan trong ngân hàng và cơ quan quản lý Sơ đồ 3. Quy trình thực hiện ICAAP Nguồn: cclcompliance.com (2006) QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 62 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018 3.1. Giám sát của Hội đồng quản trị/ Hội đồng thành viên và Ban điều hành (Board and senior management oversigh) Basel II (2006)3 nêu rõ về việc Ban điều hành và Hội đồng quản trị/ Hội đồng thành viên của ngân hàng là những người chịu trách nhiệm chính về ICAAP. Họ sẽ thiết lập khung để đánh giá rủi ro, phát triển hệ thống để xây dựng kế hoạch vốn cho phù hợp với mức độ rủi ro hiện tại, thiết lập phương pháp luận để giám sát sự tuân thủ với các quy trình nội bộ về ICAAP. Trong đó nhiệm vụ của từng cấp quản lý như sau: Thứ nhất, về trách nhiệm của Hội đồng quản trị/ Hội đồng thành viên. Họ có trách nhiệm như sau trong quy trình ICAAP: - Xác định và thiết lập khẩu vị hoặc mức độ chấp nhận rủi ro của NHTM; - Bảo đảm ngân hàng hoạt động trong khẩu vị rủi ro đã xác định; - Giao cho Ban điều hành thiết lập Khung ICAAP, đồng thời định kì kiểm tra, kiểm soát lại việc triển khai ICAAP tại các cấp dưới quyền. Thứ hai, về trách nhiệm của Ban điều hành. Ban điều hành đóng vai trò quan trọng bởi họ là người thực thi và hỗ trợ các kiểm soát nội bộ và xây dựng các quy trình, thủ tục nội bộ để đảm bảo ICAAP và các quy trình quản lý khác được thực hiện hiệu quả trong TCTD. Ba chức năng chính của Ban điều hành trong quy trình ICAAP là: - Nắm rõ nguồn gốc và mức độ của các loại rủi ro phát sinh trong TCTD. - Chịu trách nhiệm duy trì mối quan hệ phù hợp giữa mức độ rủi ro và mức vốn hiện tại của TCTD. - Thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị/ Hội đồng thành viên giao về xây dựng khung ICAAP bao gồm các nội dung: + Xác định các rủi ro của các hoạt động của ngân hàng. + Đánh giá và lượng hóa mức trọng yếu của các rủi ro. + Đánh giá mức độ an toàn vốn tương ứng với rủi ro. 3 Điều 730 + Đánh giá vốn yêu cầu bổ sung trong các hoàn cảnh khủng hoảng. + Thiết lập kế hoạch về vốn để ứng phó với khủng hoảng. + Đối chiếu mức vốn kinh tế hiện tại của ngân hàng với mức vốn theo yêu cầu của Trụ cột 1. + Giám sát và báo cáo quá trình quản lý vốn thực tế so với các chính sách và giới hạn nội bộ. Để thực hiện được đầy đủ các chức năng trên của Ban điều hành cũng như các bộ phận lãnh đạo cấp cao trong quy trình ICAAP, theo kinh nghiệm của Ngân hàng trung ương Tây Ban Nha (2008), hai vấn đề mấu chốt cần xây dựng tại NHTM như sau: Một là, cơ cấu tổ chức của NHTM phải rõ ràng và minh bạch về cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ, quy định làm việc, quyền hạn và quyền đề cử. Cơ cấu này cần được sơ đồ hoá, và trong sơ đồ này cần chỉ rõ được các kênh báo cáo giữa các bộ phận về các vấn đề liên quan tới ICAAP. Hai là, văn hoá quản lý rủi ro trong NHTM cần được xây dựng. Văn hoá quản lý rủi ro là những nguyên tắc chung nhất về quản lý rủi ro trong NHTM được tóm tắt lại. Văn hoá này phải thể hiện được và nằm trong các nguyên tắc và chính sách nội bộ chung của NHTM. Khi xây dựng văn hoá quản lý rủi ro, mức độ phức tạp của công tác quản lý và quy trình đánh giá rủi ro cần phù hợp với loại rủi ro và lĩnh vực hoạt động của NHTM. Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ cũng cần phù hợp để đảm bảo việc quản lý rủi ro được thực hiện tại đúng cấp và thực hiện phù hợp. Các mục tiêu về vốn nội bộ cũng cần được đưa ra theo hồ sơ rủi ro của NHTM và phù hợp với môi trường kinh tế hiện tại. 3.2. Xác định và Đánh giá rủi ro (Comprehensive risk identification and assessment) Về xác định rủi ro, ngân hàng cần nhận diện một cách đầy đủ về các loại rủi ro ngân hàng đang và có thể đối mặt trong môi trường, thị trường đang hoạt động và theo quy mô và đặc điểm riêng có của ngân hàng (Woschnagg, 2008). Theo Danièle Nouy (2016), việc nhận diện và đánh giá rủi ro này cần tối thiểu rà soát QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 63Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 tới các loại rủi ro theo Basel II khuyến nghị như sau: Một là, các loại rủi ro được đề cập tới trong trụ cột 1 bao gồm: (i) Rủi ro tín dụng (bao gồm rủi ro đối tác); (ii) Rủi ro thị trường; (iii) Rủi ro hoạt động. Hai là, các loại rủi ro chưa được đề cập tới trong trụ cột 1 bao gồm: - Rủi ro tập trung: Là rủi ro xuất phát từ các khách hàng/đối tác hoặc nhóm khách hàng/đối tác có liên quan, các khách hàng/đối tác trong cùng một ngành nghề, lĩnh vực hoạt động hoặc khu vực địa lý. - Rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng: Là rủi ro xuất phát từ những thay đổi tiềm tàng trong các mức lãi suất. - Rủi ro còn lại: Là rủi ro còn lại do những kĩ thuật giảm thiểu của ngân hàng hiện chưa hiệu quả hoặc kém hiệu quả hơn so với kế hoạch. - Rủi ro chứng khoán hoá: Là rủi ro xuất hiện do hoạt động chứng khoán hoá hiện tại không được phản ánh đầy đủ trong khung đánh giá rủi ro và các quyết định quản trị hiện tại. - Rủi ro chiến lược và kinh doanh: Là rủi ro suy giảm lợi nhuận hoặc vốn do các thay đổi trong môi trường kinh doanh hoặc do những quyết định quản trị sai hoặc do những phản ứng sai của NHTM trước các biến động thị trường hoặc đối thủ cạnh tranh. - Rủi ro danh tiếng: Là rủi ro giảm thu nhập hoặc vốn của NHTM do khách hàng, đối tác, cổ đông, nhà đầu tư hay cơ quan quản lý có góc nhìn tiêu cự ... ional Convergence of Capital Measurement and Capital Standards”, Điều 749. sát và rà soát bởi các cấp quản lý thích hợp. (3) Cơ cấu của nguồn vốn phù hợp với bản chất hoạt động kinh doanh và quy mô của NHTM; (4) Các sự kiện ngoài dự tính được đưa ra để thiết lập vốn dự trữ. Trong phân tích này, họ sẽ rà soát tới điều kiện và tình huống, mức độ phức tạp của các công cụ được sử dụng để giảm thiểu rủi ro cũng như kĩ thuật kiểm tra sức chịu đựng. Sau khi mức vốn hiện tại được đánh giá, NHTM cần xây dựng kế hoạch tăng vốn nếu mức hiện tại thấp hơn yêu cầu hoặc đảm bảo duy trì mức vốn hiện tại theo các tiêu chuẩn về vốn. Một số biện pháp tăng vốn hoặc các biện pháp duy trì mức vốn được Tổ chức Giám sát Tài chính Úc, (Australian Prudential Regulation Authority- APRA, 2013) khuyến nghị như sau: - Tăng vốn bằng nguồn nội bộ từ lợi nhuận giữ lại; - Tăng vốn từ nguồn bên ngoài dưới các dạng vốn cổ phần thường cấp 1, vốn cấp 1 bổ sung, vốn cấp 2 bổ sung thông qua các cổ động hiện tại, công ty mẹ hoặc từ các đối tác; - Tăng vốn từ mua bán, sáp nhập; - NHTM có thể can thiệp làm giảm mức vốn pháp lý, ví dụ như làm giảm mức tài sản có rủi ro. NHTM cần duy trì mức vốn tương xứng với mức dự phòng vốn đã được lên kế hoạch dưới các điều kiện kinh tế và thị trường khác nhau bao gồm có kiểm tra sức chịu đựng (là mức dự phòng vốn có thể chống đỡ được trong các tình huống xấu nhất hoặc mức vốn bù đắp rủi ro chu kì). Ngoài ra, NHTM cần đánh giá tác động của những thay đổi trong đánh giá của các cơ quan xếp hạng tín nhiệm, kì vọng của các cổ đông và các yếu tố thị trường khi xây dựng kế hoạch dự phòng vốn. 3.7. Kiểm tra sức chịu đựng (Stress testing) Theo Basel 2 (2009), Kiểm tra sức chịu đựng là một quy trình đo lường khối lượng tổn thất không dự kiến được mà sẽ xảy ra trong các kịch bản kinh tế bất lợi (và có thể là các kịch bản chính trị bất lợi) và đánh giá độ nhạy với những thay đổi trong các yếu tố thị trường. Mục tiêu của việc kiểm tra này là xây dựng được các QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 67Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 kịch bản trong vòng 3-5 năm tới mà có thể thực sự dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Kiểm tra sức chịu đựng nhằm đánh giá mức độ đủ vốn trong các kịch bản căng thẳng khác nhau, và do đó là một cấu phần quan trọng của ICAAP. Để đảm bảo chắc chắn về các đánh giá về mức độ đủ vốn trước các rủi ro NHTM đang đối mặt, NHTM cần thực hiện các kiểm định về sức chịu đựng đối với hệ thống giảm thiểu rủi ro và kiểm soát của mình. Kiểm tra sức chịu đựng rủi ro bao gồm các kĩ thuật định tính và định lượng để đánh giá mức độ tổn thương của NHTM trên các tình huống, sự kiện đặc biệt có thể xảy ra tới mức tổn thất của NHTM (phân tích độ nhạy- sensitivity analysis) hoặc phân tích việc các chuyển biến ngược trên thị trường và môi trường hoạt động tới các biến số tài chính và phi tài chính của NHTM (phân tích kịch bản- scenario analysis). Theo yêu cầu của Basel, kiểm tra sức chịu đựng phải được thực hiện kĩ lưỡng, có tính dự báo về các sự kiện hoặc thay đổi trong các điều kiện thị trường mà sẽ tạo ra các ảnh hưởng đảo ngược tới NHTM. Kiểm tra sức chịu đựng nên là công cụ trọng tâm của việc nhận diện, đo lường và kiểm soát vốn tài trợ cho các loại rủi ro trong cả những sự kiện đặc thù liên quan tới ngân hàng và những sự kiện chung có tác động tới toàn thị trường. Khác với việc phân tích thông thường, việc đưa ra trước các kịch bản trong kiểm tra sức chịu đựng sẽ có độ tin cậy cao hơn trong việc đánh giá tính dễ tổn thương, khả năng chịu đựng và tính hiệu quả trong các hành động phản ứng dự kiến của NHTM. Kiểm tra sức chịu đựng còn là công cụ quan trọng để cung cấp minh chứng cho việc đánh giá mức độ đủ vốn nội bộ cho các cơ quan quản lý. 3.8. Xây dựng báo cáo ICAAP Tại bước cuối cùng trong quy trình ICAAP, một báo cáo ICAAP được đưa ra. Báo cáo ICAAP là một bản tóm tắt mang tính thời điểm về quy trình quản trị vốn của NHTM. Một bản báo cáo ICAAP hàng năm chỉ ra những kết quả của việc Bảng 1. Tóm tắt các bước thực hiện Kiểm tra sức chịu đựng Bước 1 Định nghĩa kịch bản và các giả định - Bộ phận quản lý rủi ro làm việc với các nhà kinh tế học để xây dựng các kịch bản căng thẳng. - Các kịch bản căng thẳng được thảo luận trong Ủy ban rủi ro và vốn. Bước 2 Bộ phận quản lý rủi ro chạy các mô hình căng thẳng để ước tính tác động của kịch bản - Mô hình tín dụng ước tính các tác động lên tổn thất từ các khoản vay và các tài sản có rủi ro. - Các mô hình rủi ro thị trường ước tính tác động lên doanh thu kinh doanh và rủi ro tín dụng đối tác. - Nhóm Lập kế hoạch tài chính ước tính tác động lên dự báo doanh thu và chi phí toàn hàng. - Bộ phận nguồn vốn ước tính tác động lên cả chi phí và tính sẵn sàng của nguồn vốn. Bước 3 Quản lý rủi ro ước tính tác động lên vốn Các kết quả ở bước 2 (báo cáo kết quả kinh doanh và tài sản có rủi ro) được chạy qua các mô hình vốn để ước tính các hệ số vốn quan trọng (vốn cấp1, vốn cấp 1 phổ thông, vốn cổ phần phổ thông hữu hình, hệ số nhân đòn bẩy); các tỷ lệ giới hạn vốn cũng được ước tính (ví dụ cổ phiếu ưu đãi tính theo % vốn cấp 1; nợ thứ cấp tính theo % tổng vốn) để đảm bảo không giới hạn nào về thành phần vốn bị vi phạm. Bước 4 Phản hồi, thảo luận và tranh luận - Các kết quả căng thẳng được báo cáo cho Ủy ban vốn và rủi ro trong mối tương quan với khẩu vị rủi ro của ngân hàng. - Các kết quả cũng được báo cáo lên Uỷ ban quản lý rủi ro và HĐQT. - Các kết quả cũng được báo cáo cho cơ quan quản lý (một phần trong báo cáo Basel II, trụ cột II hoặc ICAAP của ngân hàng). Nguồn: Torento Centre (2017) QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018 thực hiện quy trình quản trị vốn trên tại năm trước đó và đưa ra các dự báo về vốn cho ít nhất 3 năm sau. Theo APRA (2013) thì một báo cáo ICAAP phải có những nội dung chính như sau: Một là, báo cáo ICAAP trình bày chi tiết về các hoạt động quản lý vốn và những hoạt động quản trị khác có tác động lên mức vốn hiện tại và những lí giải cho việc tại sao chúng lại ảnh hưởng tới NHTM cũng như các tác động của việc này. Một số hoạt động có tác động tới mức vốn nội bộ của NHTM có thể kể tới như chia cổ tức, mua lại cổ phiếu, chuyển vốn, phát hành thêm các công cụ vốn, mua lại các công cụ, các giao dịch tài sản và nợ Hai là, báo cáo ICAAP mô tả về các hành động kèm thời gian biểu nếu kế hoạch về vốn yêu cầu phải có hoạt động tăng vốn hoặc có những hành động bảo toàn trạng thái vốn hiện tại. Ba là, báo cáo ICAAP mô tả về mức vốn pháp lý hiện tại của NHTM, bao gồm các cấu phần của nó và phân biệt được vốn cấp 1 bổ sung hoặc vốn cấp 2 bổ sung với vốn cổ phần thường cấp 1. Bốn là, báo cáo ICAAP đánh giá về các nguồn và sử dụng nguồn của các loại vốn nằm ngoài kế hoạch dưới các điều kiện đã được dự đoán và các điều kiện trong Kiểm tra sức chịu đựng. Năm là, báo cáo ICAAP đánh giá về thay đổi trong vốn pháp lý qua thời gian, trong đó phải bao gồm tất cả những thay đổi trong chiến lược hoặc kế hoạch kinh doanh có tác động cơ học lên trạng thái vốn hiện tại. Đồng thời đưa ra dự báo về những thay đổi này tới cầu phần của vốn. Sáu là, báo cáo ICAAP chỉ ra sự tương thích trong mức vốn hiện có của NHTM với quy định của pháp luật và lí giải về những điểm khác nhau (nếu có) cũng như tác động của chúng. Với những nội dung chính như trên, theo kinh nghiệm của Ngân hàng Trung ương Nigeria (2013), một báo cáo ICCAP nên được thực hiện với 12 nội dung cụ thể như sau: → Tóm tắt về hoạt động của TCTD. → Cơ cấu và hoạt động của TCTD. → Cấu trúc quản trị doanh nghiệp của TCTD. → Đánh giá rủi ro và mức an toàn vốn của TCTD. → Thực hiện kiểm tra sức chịu đựng. → Xây dựng kế hoạch vốn. → Thiết kế, phê duyệt, rà soát và sử dụng kết quả của ICAAP. → Các thách thức và các bước thực hiện tiếp theo. → Tóm tắt về quy trình ICAAP được thực hiện tại TCTD. → Tuyên bốn khẩu vị rủi ro. → Sử dụng các mô hình nội bộ để đánh giá mức vốn nội bộ. → Rà soát ICAAP. 4. Một số khuyến nghị khi triển khai quy trình ICAAP tại các NHTM Việt Nam Trên cơ sở lý luận và một số khuyến nghị từ khung lý thuyết và kinh nghiệm thực hiện ICAAP tại một số quốc gia trên thế giới như trên, nhóm tác giả đưa ra một số gợi ý chính sách để triển khai quy trình ICAAP cho các ngân hàng ở Việt Nam như sau: Thứ nhất, đo lường đánh giá rủi ro được bù đắp bởi ICAAP. Ngoài trụ cột 1 tập trung vào rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động, ICAAP tập trung xác định các loại rủi ro khác như rủi ro tập trung, rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản. Các ngân hàng phải xác định phương pháp đánh giá đo lường rủi ro. Với rủi ro thị trường thông thường các ngân hàng nên lựa chọn phương pháp VaR. Nếu một ngân hàng được chấp nhận pháp lý về sử dụng mô hình VaR, ngân hàng sẽ sử dụng và lựa chọn thời gian xác định VaR và độ tin cậy. Với việc định lượng rủi ro riêng lẻ để tính tổng rủi ro của ngân hàng, cần chú ý đến hiệu ứng đa dạng rủi ro và mức độ tương quan các loại rủi ro đảm bảo tính chính xác. Thông thường với ngân hàng nhỏ áp dụng phương pháp tổng đơn giản các rủi ro riêng lẻ không tính yếu tố đa dạng hóa hoặc độ tương quan. Nhưng với ngân hàng lớn khi xác định rủi ro tổng thể của ngân hàng cần chú ý xem xét cả khía cạnh đa dạng hóa rủi ro. Thông thường với mô hình đo lường rủi ro cần quan tâm tới 2 vấn đề. Một là tăng cường phân tích kịch bản và kiểm tra sức chịu đựng và phải QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 69Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 hiểu được nội dung đã làm, đang làm và sẽ làm và phân tích “được- mất” là cần thiết. Hai là thường xuyên đánh giá lại cách tiếp cận mô hình định lượng các loại rủi ro không thuộc trụ cột 1 như rủi ro kinh doanh, rủi ro danh tiếng và các loại rủi ro khác không nhất thiết theo chuẩn mực chung. Thứ hai, phân tích vốn bù đắp rủi ro. Nội dung quan trọng nhất của quy trình ICAAP là đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro qua vốn bù đắp rủi ro. Có nhiều phương pháp đo lường vốn đáp ứng với mức độ kỳ vọng khác nhau. Trụ cột 2 yêu cầu các ngân hàng thiết lập hệ thống ICAAP mạnh, vốn kinh tế được xác định trên cở sở rủi ro phải được so sánh với vốn bù đắp rủi ro để đảm bảo ngân hàng có đủ vốn cho mục đích phòng tránh rủi ro. Các ngân hàng xác định vốn bù đắp tổng rủi ro thông qua sử dụng mô hình đo lường cho tất cả các loại rủi ro ngoài các loại rủi ro theo trụ cột 1 có tính theo mức độ đa dạng hóa giữa các loại rủi ro để ước tính toàn bộ vốn nội bộ theo yêu cầu. Thứ ba, cơ quan quản lý xây dựng kế hoạch và triển khai báo cáo ICAAP cho các NHTM. Với trụ cột 2, ICAAP đưa ra kết quả đánh giá mức độ an toàn vốn nội bộ. Các NHTM cần thiết áp dụng quy trình đánh giá mức độ an toàn vốn nội bộ có liên quan tới hồ sơ rủi ro cũng như chiến lược duy trì mức độ vốn của bản thân ngân hàng. Trên cơ sở đó các cơ quan giám sát đánh giá quy trình này, lượng vốn và toàn bộ khung quản lý rủi ro. Từ đó toàn bộ các hoạt động kinh doanh thực hiện theo Chỉ thị Yêu cầu vốn phải tuân theo trụ cột 2. ■ Hình 1. Trọng tâm của quy trình ICAAP Nguồn: BIDV, 2014 Tài liệu tham khảo 1. APRA (2013), Internal Capital Adequacy Assessment Process and Supervisory Review, Prudential Practice Guide, Available at: 2. Basel Committee on Banking Supervision (May, 2006), International Convergence of Capital Measurement and Capital Standards, Bank for International Settlement. 3. Basel Committee on Banking Supervision (March, 2009), Range of practices and issues in economic capital frameworks, Bank for International Settlement. 4. Basel Committee on Banking Supervision (May, 2009), Principles for sound stress testing practices and supervision – final QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018 paper, Bank for International Settlement. 5. Basel Committee on Banking Supervision (March, 2009), Principles for sound stress testing practices and supervision, Bank for International Settlement. 6. Basel Committee on Banking Supervision (January, 2013), Principles for effective risk data aggregation and risk reporting, Bank for International Settlement. 7. Banco De Espana (2008), Guidelines on the Internal Capital Adequacy Assessment Process (ICAAP) at credit institutions, Available at: https://www.esrb.europa.eu/mppa/cbmd/shared/pdf/Spain/2013-12-09_Guidelines_ICAAP.pdf?1e3e7765fcbfa4875 1127e5fd40bca9b 8. CCL Compliance, Preparing an Internal Capital Adequacy Assessment Process report, The Knowledge series, Issue 2/10, Febuary 2016. Available at: www.cclcompliance.com 9. Central Bank of Kenya (2016), Draft guidance note on Internal capital adequacy assessment process (ICAAP), Available at: https://www.centralbank.go.ke/images/docs/legislation/DraftGuidanceNoteonICAAP.PDF 10. Central Bank of Nigeria (2013), Guidance Notes on Supervisory Review Process, Available at: https://www.cbn.gov.ng/ out/2013/bsd/4guidance%20notes%20on%20srp.pdf 11. Danièle Nouy (2016), Supervisory expectations on ICAAP and ILAAP and harmonised information collection on ICAAP and ILAAP, ECB working paper, Available at: https://www.ecb.europa.eu/pub/pdf/other/160108letter_nouy.en.pdf 12. Pilková, A and Králik, P. (2011), ICAAP-challenges and opportunities for Slovak commercial banks, In Balancing Corporate Success & Social Good: Building Capabilities for Sustainable Global Business, 12th intern. Conference, pp. 1304-1313. 13. KPMG 2011, ICAAP in Europe- KPMG 14. Toronto Crentre (2017), Basel II, ICAAP và SREP, Dự án Tăng cường năng lực Thanh tra, giám sát ngân hàng, Hà Nội, Việt Nam. 15. Woschnagg, E. (2008), ICAAP Implementation in Austria’s Major Banks, Financial Stability Report, Vol 16, pp. 96-107. 16. BIDV 2014, Đào tạo BIDV Trụ cột 2. Thông tin tác giả Nguyễn Thùy Dương, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Email: duongnt@hvnh.edu.vn Nguyễn Bích Ngân, Thạc sỹ Email: ngannb@hvnh.edu.vn Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Summary Internal Capital Adequacy Assessment Process by Basel in commercial banks In Basel 2 (2004), a new definition on the framework of commercial banks’ internal capital adequacy assessment was introduced. This is ICAAP- Internal Capital Adequacy Assessment Process, which enables the financial stability in banks. In details, ICAAP requires banks to build up a process to identify, measure indivial risks and accumulative risks in banking then calculate the amount of Economic capital to cover these risks. This paper emphasizes on literature of ICAAP according to Basel 2 and gives suggestion to implement ICAAP in Vietnamese commercial banks. Key words: Internal Capital Adequacy Assessment Process, Basel 2, Economic capital, VaR. Duong Thuy Nguyen, Assoc.Prof. PhD Ngan Bich Nguyen, MEc Organization of all: Banking Falculty, Banking Academy
File đính kèm:
- quy_trinh_danh_gia_day_du_von_noi_bo_theo_basel_cua_ngan_han.pdf