Suy nghĩ về tư duy (Phần 1)
1. Mở đầu
Tiếng Việt có hai từ “suy nghĩ” và “tư duy”. Trong Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn
Như Ý chủ biên), Bộ giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam,
Nhà xuất bản văn hóa – thông tin, 1999, hai từ nói trên được giải thích như sau:
Suy nghĩ: dùng trí óc để tìm hiểu, nhận biết hoặc giải quyết vấn đề. Ví dụ: suy
nghĩ kỹ trước khi viết; ăn nói thiếu suy nghĩ; vấn đề đáng suy nghĩ; suy nghĩ mãi
mới tìm ra cách giải bài toán.
Tư duy: nhận thức bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật, bằng
những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý. Ví dụ: khả năng tư
duy; tư duy trừu tượng.
Nếu đọc các bản dịch từ tiếng nước ngoài (ví dụ tiếng Anh, tiếng Nga), cùng
một từ tiếng Anh “thinking” hoặc một từ tiếng Nga “мышление”, các dịch giả dịch
sang tiếng Việt lúc là “suy nghĩ”, lúc là “tư duy”. Như vậy hai từ “suy nghĩ” và “tư
duy” của tiếng Việt đều nhắm đến cùng một đối tượng mà một từ “thinking” của
tiếng Anh, một từ “мышление” của tiếng Nga đề cập đến. Trong ý nghĩa này, từ nay
về sau, người viết lúc thì dùng từ “suy nghĩ”, lúc thì dùng từ “tư duy” và coi chúng là
những từ đồng nghĩa cùng chỉ về một đối tượng.
Theo triết học, có ba lĩnh vực loài người cần nhận thức và biến đổi để thỏa mãn
các nhu cầu tồn tại và phát triển của mình là tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự phân
loại này cho thấy, tư duy là lĩnh vực đứng ngang hàng với hai lĩnh vực tự nhiên và
xã hội chứ không thuộc tự nhiên hay xã hội, mặc dù tư duy liên hệ mật thiết với tự
nhiên và xã hội.
Chúng ta thử tưởng tượng nếu loài người không có tư duy thì sao? Lúc đó, nền
văn minh nhân tạo rực rỡ như hiện nay đã không có và loài người cũng chỉ là một
trong các loài động vật hoang dã yếu ớt trên Trái Đất, bởi vì, loài người không khỏe
như loài voi, không nhanh như báo, không bay và tinh mắt như chim, không có các
vũ khí săn bắt hoặc tự vệ đặc biệt như nọc độc của rắn Có thể nói, tư duy là sự
khác biệt, ưu thế tuyệt đối của loài người so với loài vật. Tư duy đóng vai trò
cực kỳ quan trọng, nếu như không nói là quyết định đối với quá trình tiến
hóa và phát triển của xã hội loài người.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Suy nghĩ về tư duy (Phần 1)
PHAN DŨNG SUY NGHÓ veà TÖ DUY 2013. Tác giả giữ bản quyền. MỤC LỤC 3 MỤC LỤC 1. Mở đầu ............................................................................................................................... 5 2. Tư duy là gì? ..................................................................................................................... 7 3. Các nghiên cứu về tư duy .......................................................................................... 16 4. Tư duy và hành động .................................................................................................. 24 4.1. Hành động cá nhân .......................................................................................................... 24 4.2. Mối quan hệ giữa tư duy và hành động .................................................................. 27 5. Chuỗi từ nhu cầu đến hành động và ngược lại (chuỗi nhu cầu–hành động) khi chưa có tư duy .......................................................................................... 32 5.1. Nhu cầu cá nhân và hành động cá nhân .................................................................. 32 5.1.1. Nhu cầu cá nhân ..................................................................................................... 32 5.1.2. Mối liên hệ giữa nhu cầu cá nhân và hành động cá nhân .................... 37 5.2. Xúc cảm cá nhân trong chuỗi nhu cầu–hành động ............................................. 41 5.3. Thói quen tự nguyện trong chuỗi nhu cầu–hành động .................................... 51 6. Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có .............. 56 6.1. Những nhận xét chung về tư duy hiện có .............................................................. 57 6.2. Tư duy rất chủ quan ........................................................................................................ 63 6.3. Phương pháp (tự nhiên) thử và sai: công cụ tư duy thô sơ, năng suất, hiệu quả thấp, điều khiển kém ......................................................................... 64 6.4. Tư duy chưa được chú ý xứng đáng ......................................................................... 76 7. Tư duy sáng tạo cần có: một số nét phác thảo ................................................... 83 8. Đã xuất hiện nhu cầu xã hội đòi hỏi phát triển sáng tạo học và phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) .................................... 90 8.1. Sáng tạo – nguyên nhân thành công chính nếu không nói là duy nhất ở thế kỷ 21 ........................................................................................................................... 92 8.2. Phương pháp thử và sai đã tiến đến những giới hạn ........................................ 99 8.3. Nhu cầu học PPLSTVĐM tăng .................................................................................... 105 9. Tổng quan các kết quả đạt được trong lĩnh vực phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) ........................................................................ 107 10. TRIZ – ứng viên tiềm năng để trở thành tư duy cần có ................................ 113 MỤC LỤC 4 10.1. Các quy luật sáng tạo phải tìm chính là các quy luật phát triển ................. 113 10.2. Sáng tạo của con người: khía cạnh chủ quan và khía cạnh khách quan ..................................................................................................................................... 114 10.3. Cơ chế định hướng và tư duy định hướng .......................................................... 118 10.4. Phát triển của con người: năng lực cơ thể hay/và công cụ .......................... 120 10.5. Quan hệ giữa tài năng và công cụ ............................................................................ 121 10.6. TRIZ: các yêu cầu đối với PPLSTVĐM ................................................................... 123 10.7. Các nguồn thông tin và tri thức của TRIZ ............................................................ 125 10.8. Sơ đồ khối TRIZ .............................................................................................................. 127 11. Du nhập, phổ biến và phát triển phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) ở Việt Nam ................................................................................ 132 11.1. Du nhập phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) vào Việt Nam ............................................................................................................................ 132 11.2. Phổ biến và phát triển phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) ở Việt Nam: các kịch bản ................................................................ 133 11.3. Phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam trước và từ khi thành lập Trung tâm Sáng tạo Khoa học-kỹ thuật (TSK) ........................................... 136 11.4. Mở rộng TRIZ và dạy TRIZ mở rộng cho đông đảo mọi người ................... 182 11.5. Một số kết quả mở rộng TRIZ và dạy TRIZ mở rộng cho đông đảo mọi người .......................................................................................................................... 189 12. Thay cho kết luận ....................................................................................................... 218 Phụ lục 1: Genrikh Saulovich Altshuller – tiểu sử và sự nghiệp ..................... 251 Phụ lục 2: Tôi được học thầy Genrikh Saulovich Altshuller ............................ 255 Phụ lục 3: In memory of Genrikh Saulovich Altshuller ...................................... 271 Phụ lục 4: Một số thông tin về TRIZ, các hội nghị về TRIZ, các lớp dạy về TRIZ trên thế giới ....................................................................................................... 275 Phụ lục 5: Về các biểu tượng và bài hát Sáng tạo ca ............................................ 289 CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH VÀ NÊN TÌM ĐỌC THÊM, KỂ CẢ CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ...................................................................................... 293 Mở đầu 5 1. Mở đầu Tiếng Việt có hai từ “suy nghĩ” và “tư duy”. Trong Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), Bộ giáo dục và đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản văn hóa – thông tin, 1999, hai từ nói trên được giải thích như sau: Suy nghĩ: dùng trí óc để tìm hiểu, nhận biết hoặc giải quyết vấn đề. Ví dụ: suy nghĩ kỹ trước khi viết; ăn nói thiếu suy nghĩ; vấn đề đáng suy nghĩ; suy nghĩ mãi mới tìm ra cách giải bài toán. Tư duy: nhận thức bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật, bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý. Ví dụ: khả năng tư duy; tư duy trừu tượng. Nếu đọc các bản dịch từ tiếng nước ngoài (ví dụ tiếng Anh, tiếng Nga), cùng một từ tiếng Anh “thinking” hoặc một từ tiếng Nga “мышление”, các dịch giả dịch sang tiếng Việt lúc là “suy nghĩ”, lúc là “tư duy”. Như vậy hai từ “suy nghĩ” và “tư duy” của tiếng Việt đều nhắm đến cùng một đối tượng mà một từ “thinking” của tiếng Anh, một từ “мышление” của tiếng Nga đề cập đến. Trong ý nghĩa này, từ nay về sau, người viết lúc thì dùng từ “suy nghĩ”, lúc thì dùng từ “tư duy” và coi chúng là những từ đồng nghĩa cùng chỉ về một đối tượng. Theo triết học, có ba lĩnh vực loài người cần nhận thức và biến đổi để thỏa mãn các nhu cầu tồn tại và phát triển của mình là tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự phân loại này cho thấy, tư duy là lĩnh vực đứng ngang hàng với hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội chứ không thuộc tự nhiên hay xã hội, mặc dù tư duy liên hệ mật thiết với tự nhiên và xã hội. Chúng ta thử tưởng tượng nếu loài người không có tư duy thì sao? Lúc đó, nền văn minh nhân tạo rực rỡ như hiện nay đã không có và loài người cũng chỉ là một trong các loài động vật hoang dã yếu ớt trên Trái Đất, bởi vì, loài người không khỏe như loài voi, không nhanh như báo, không bay và tinh mắt như chim, không có các vũ khí săn bắt hoặc tự vệ đặc biệt như nọc độc của rắn Có thể nói, tư duy là sự khác biệt, ưu thế tuyệt đối của loài người so với loài vật. Tư duy đóng vai trò cực kỳ quan trọng, nếu như không nói là quyết định đối với quá trình tiến hóa và phát triển của xã hội loài người. Trên đây là nói về loài người nói chung, còn đối với những con người cụ thể thì sao? Những người có tư duy xuất sắc ở bất kỳ lĩnh vực nào như khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế đều được xã hội đánh giá cao và được tôn vinh với nhiều hình thức. Những người bình thường, ai cũng Mở đầu 6 muốn được những người khác đánh giá là mình tư duy tốt và coi chuyện bị đánh giá tư duy không tốt như một cái gì đó thấp kém, không thể chấp nhận được. Cụ thể, người ta thường vui mừng, phấn khởi, sung sướng khi được khen là thông minh, sáng dạ, nhanh trí, sáng tạo, sáng suốt, có đầu óc sáng láng, uyên bác và ngược lại, buồn, tự ái, tức giận khi bị chê là đồ suy nghĩ chậm, suy nghĩ quẩn, ngốc, đần, tối dạ, ngu như bò, óc đậu phụ, đầu chập mạch Ở Việt Nam, từ năm 1986, từ “tư duy” được dùng không ít trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các cụm từ như “cần đổi mới tư duy, đặc biệt, tư duy kinh tế”, “cần thay đổi tư duy”, “cần tư duy mới”, “cần có tư duy độc lập”, “cần có tư duy sáng tạo”, “cần khắc phục tư duy trì trệ”, “cần khắc phục tư duy giáo điều” Cũng liên quan đến tư duy, ở nước ta tồn tại và hoạt động trong thời gian khá dài các “ban tư tưởng văn hóa” từ trung ương đến các tỉnh thành. Có một thực tế là, tuy tư duy cực kỳ quan trọng, ai cũng muốn tư duy tốt nhưng hiểu biết một cách khoa học của nhiều người trong xã hội về tư duy lại rất ít và cũng ít người có ý thức tự tìm hiểu tư duy của chính mình. Trong hàng trăm lớp dạy môn “Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” (PPLSTVĐM), người viết thường đặt các câu hỏi sau cho các học viên trả lời bằng hình thức giơ tay: 1) Cho đến nay, anh (chị) nào có học môn chuyên dạy về tư duy và các phương pháp suy nghĩ? 2) Anh (chị) nào có học môn “Lôgích học hình thức”? 3) Anh (chị) nào có học môn “Tâm lý học sáng tạo”? 4) Khi học các môn như toán, lý, hóa, sinh, sử, địa, tin học, anh (chị) nào được học với thầy (cô), ngoài dạy kiến thức còn dạy cả cách suy nghĩ để giải bài tập và trả lời các câu hỏi của môn học đó, ví dụ, môn toán chẳng hạn? 5) Anh (chị) nào sau mỗi lần suy nghĩ, có thói quen (ý thức, tác phong) hồi tưởng lại quá trình suy nghĩ, dùng suy nghĩ của mình suy nghĩ về quá trình suy nghĩ đó, để tìm hiểu xem quá trình suy nghĩ của mình diễn ra như thế nào và tìm cách khắc phục các nhược điểm, phát huy các ưu điểm, cải tiến làm cho suy nghĩ của mình ngày càng tốt hơn? Kết quả cho thấy, trong lớp học với khoảng vài chục người trình độ văn hóa từ lớp 12 trở lên, thuộc nhiều lứa tuổi, ngành nghề, chức vụ khác nhau: hoặc không ai giơ tay, hoặc chỉ có vài cánh tay giơ lên. Những người tự tìm hiểu tư duy qua con đường đọc sách tiếng Việt (kể cả sách dịch) có thể nhận thấy: số lượng sách viết về tư duy ít hơn rất rất nhiều sách viết về Tư duy là gì? 7 tự nhiên và xã hội; bản thân các sách viết về tư duy thường sơ sài, phiến diện, thiếu tính hệ thống, lôgích, khoa học và tính ứng dụng thấp. Nhằm góp phần khắc phục những nhược điểm nói trên, quyển sách “Suy nghĩ về tư duy” được viết ra. Trên thực tế, trong các quyển sách bằng tiếng Việt đã phát hành trước đây của người viết (xem các quyển sách có số thứ tự từ [1] đến [20] trong mục “Các tài liệu tham khảo chính và nên tìm đọc thêm, kể các các công trình của tác giả” ở cuối quyển sách này), người viết cũng đã trình bày nhiều phần thuộc tư duy và liên quan đến tư duy. Trong ngữ cảnh như vậy, quyển sách “Suy nghĩ về tư duy” còn đóng vai trò sách tổng quan, hiểu theo nghĩa, một mặt người viết sẽ nhắc lại những gì cần thiết đã trình bày trong các quyển sách trước để bảo đảm tính nhất quán, hệ thống của quyển sách này. Mặt khác, ở những chỗ bạn đọc có thể tự đọc, người viết sẽ chỉ ra các phần nên đọc trong các quyển sách trước. Quyển sách “Suy nghĩ về tư duy” trình bày các kiến thức khoa học về tư duy và những cái liên quan dựa trên những hiểu biết của người viết nhờ được học, tự học, nghiên cứu, giảng dạy, trải nghiệm chính mình nhiều chục năm qua, và do vậy, không tránh khỏi mang tính chủ quan nhất định. Đọc xong quyển sách này, kể cả những phần người viết đề nghị đọc thêm trong các quyển sách trước đây, bạn đọc có thể nắm được: Tư duy là gì?; Tư duy và tư duy sáng tạo; Có mấy loại tư duy?; Loại tư duy chỉ con người mới có; Mối quan hệ giữa tư duy và hành động; Vai trò của tư duy trong chuỗi từ nhu cầu đến hành động và ngược lại; Tư duy và hành động hiện có; Tư duy và hành động cần có; Các kết quả đạt được trong lĩnh vực phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM); Du nhập, phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam. Người viết cho rằng, những gì trình bày trong quyển sách này và những quyển sách trước đây của người viết chỉ là những kiến thức tối thiểu giúp bạn đọc tìm hiểu lĩnh vực tư duy. Do vậy, bạn nên tìm đọc thêm cả những quyển sách khác về tư duy để làm giàu tri thức của mình và có nhiều hành động tốt, được dẫn dắt bởi tư duy đúng với xúc cảm thích hợp đồng hành. 2. Tư duy là gì? Tư duy (suy nghĩ) là quá trình phản ánh tích cực hiện thực, gắn kết với việc giải quyết vấn đề này hay vấn đề khác, là sản phẩm cao cấp nhất của loại vật chất được tổ chức đặc biệt – bộ óc của con người. Kết quả của quá trình tư duy là các ý nghĩ giải quyết vấn đề. Nói cách khác, tư duy (suy nghĩ) là loại hoạt động của bộ óc con người, Tư duy là gì? 8 khởi động và làm việc khi con người phải giải quyết vấn đề nào đó. Kết quả của quá trình tư duy (suy nghĩ) là ý nghĩ (ý tưởng) giải pháp cho vấn đề. Ở đây, bạn đọc cần lưu ý những từ chìa khóa như “phản ánh tích cực”, “hiện thực”, “bộ óc”, “vấn đề”, “giải quyết vấn đề”, “ý tưởng giải pháp”. Trong mục này và những mục sau, người viết sẽ triển khai, giải thích những từ chìa khóa nói trên. Trước hết, “vấn đề” là gì? Vấn đề hay còn gọi là bài toán (problem) là tình huống, ở đó người giải biết mục đích cần đạt nhưng: Trường hợp 1: không biết cách đạt đến mục đích, hoặc Trường hợp 2: không biết cách tối ưu đạt đến mục đích trong một số cách đã biết. Ví dụ: Một người thường 12 giờ đêm đi ngủ. Đêm hôm ấy, người đó lên giường nhưng không hiểu sao trằn trọc hoài không ngủ được. Người đó có thể rơi vào trường hợp một: hoàn toàn không biết cách làm sao ngủ được, hoặc, rơi vào trường hợp hai: biết bốn cách có thể ngủ được nhưng không biết cách nào tối ưu. Bốn cách đó là: 1) Uống thuốc ngủ; 2) Ra khỏi giường, làm vài động tác thể dục thư giãn giúp dễ ngủ; 3) Lấy quyển truyện đọc, bao giờ mỏi mắt thì rơi vào giấc ngủ; 4) Cứ nằm trên giường, đếm thầm trong đầu đến con số đủ lớn thì ngủ thiếp đi. Trong ví dụ nêu trên, dù người mất ngủ ở vào trường hợp một hay trường hợp hai, chúng ta đều nói rằng người đó có vấn đề (bài toán). Vấn đề (bài toán) có tác dụng khởi động, kích hoạt suy nghĩ làm việc. Còn ở đâu người t ... ặc cái này kéo theo cái kia. Chú ý thế giới bên trong ít >< Chú ý thế giới bên ngoài nhiều Nếu so sánh ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy về số lượng những người làm việc, nghiên cứu, số công trình công bố, số tiền đầu tư chúng ta có thể thấy những gì nhân loại dành cho lĩnh vực tư duy là không đáng kể. Dale Carnegie nhớ Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 77 lại, ông cần có quyển sách về cách chiến thắng sự lo âu, phiền muộn (phần lớn là do suy nghĩ không hiệu quả – người viết). Ông vào thư viện công cộng lớn của New York nằm trên Đại lộ 5 và phố 42. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy vỏn vẹn có 22 quyển sách dưới tiêu đề “Lo âu, phiền muộn” (Worry). Trong khi đó, dưới tiêu đề “Giun” (Worms) ông tìm được tới 189 quyển, tức nhiều gần gấp chín lần. Bạn đọc còn có thể hình dung tiếp, trong tự nhiên, ngoài loài giun còn biết bao loài khác, không chỉ động vật còn thực vật, không chỉ thế giới hữu cơ, còn thế giới vô cơ Tương tự, trong xã hội cũng có biết bao đối tượng mà loài người đều nghiên cứu và viết sách về chúng thì sự chênh lệch còn tăng gấp nhiều lần nữa. Trong các giải thưởng lớn trên thế giới, kể cả giải Nobel, bạn đọc có thể kể tên giải thưởng nào được dành riêng cho lĩnh vực tư duy không? Rõ ràng, nhân loại quá thờ ơ với những gì thuộc lĩnh vực tư duy mà chú ý nhiều hơn đến hai lĩnh vực kia: tự nhiên và xã hội. Nếu coi tư duy thuộc thế giới bên trong con người, tự nhiên và xã hội là thế giới bên ngoài thì nhân loại chú ý “trong” ít hơn “ngoài”. Do vậy, trên thực tế, nhân loại biết rất nhiều về thế giới xung quanh nhưng lại biết rất ít về chính bản thân mình, đặc biệt, những gì xảy ra trong bộ não. Nguyễn Du trong Truyện Kiều viết: “Bên trong có ấm thì ngoài mới êm”. Có lẽ, không ít các vấn đề nảy sinh ở mức độ cá nhân, tập thể, quốc gia và toàn cầu có nguyên nhân sâu xa do nghịch lý “trong” và “ngoài” này mà lẽ ra phải có sự tương hợp giữa chúng. Chú ý nguyên nhân ít >< Chú ý kết quả nhiều Trong chính lĩnh vực tư duy, nhân loại quan tâm kết quả tư duy (các phát minh, sáng chế) hơn là nguyên nhân: quá trình suy nghĩ dẫn đến kết quả đó. Trong khi theo lẽ thông thường, muốn có nhiều kết quả tốt thì phải chú ý nghiên cứu, thay đổi, tác động, cải tiến nguyên nhân. Chẳng hạn, muốn bò cho nhiều sữa, người ta phải nghiên cứu các nguyên nhân, tác động lên chúng để xây dựng quá trình nuôi bò sữa cho kết quả như mong muốn. Không quan tâm đến nguyên nhân nên tình hình trong lĩnh vực tư duy hiện nay giống như thời kỳ săn bắn, hái lượm: nhân loại thu nhận những kết quả sáng tạo có sẵn của các cá nhân trong xã hội (giống như săn bắn các thú vật, hái lượm các trái cây có sẵn trong rừng) mà chưa chuyển sang giai đoạn chăn nuôi, trồng trọt dựa trên cơ sở các nghiên cứu khoa học. Nói cách khác, nhân loại chưa thật sự chú ý nghiên cứu quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định. Do vậy, cách suy nghĩ của chúng ta hiện nay không khác cách suy nghĩ của tổ tiên chúng ta là bao nhiêu. Cách (công cụ) suy nghĩ đó hoàn toàn tương phản với các công cụ dùng Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 78 trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội. Từ đây, chúng ta chuyển sang nghịch lý tiếp theo. Công cụ tư duy thô sơ, năng suất, hiệu quả thấp, điều khiển kém >< Công cụ dùng cho lĩnh vực tự nhiên, xã hội hiện đại, năng suất, hiệu quả cao, điều khiển tốt Con người là động vật lao động bằng các công cụ (hiểu theo nghĩa rộng nhất) do chính con người chế tạo ra. Chúng thường xuyên được hoàn thiện, cải tiến, đổi mới tạo nên khuynh hướng phát triển: công cụ ra đời sau có năng suất, hiệu quả, độ tin cậy, tính điều khiển cao hơn cái trước. Nói cách khác, các công cụ lao động của con người càng ngày, càng trở nên hiện đại. Ví dụ, nếu như trước đây người ta xúc đất bằng xẻng thì nay bằng máy xúc với năng suất cao hơn nhiều lần. Để báo tin cho một người nào đó, đã có thời người ta phải lóc cóc đạp xe đến tận nơi thì nay dùng điện thoại nhanh hơn nhiều. Thay vì phải dùng những con dao kim loại cồng kềnh, nay các bác sỹ có tia laser cho phép thực hiện các cuộc giải phẫu đòi hỏi độ chính xác cực kỳ cao. Ngày xưa, đã là giỏi lắm khi người ta tính được một phép tính trong một giây thì nay đã có những máy tính cho phép thực hiện nhiều tỷ phép tính một giây Nhân loại với các công cụ do mình tạo ra không chỉ điều khiển dòng chảy của những dòng sông, các quá trình biến đổi ở mức nguyên tử, hạt nhân, các chuyến bay vũ trụ mà còn điều khiển cả việc tạo ra các giống loài mới. Những công cụ này đều có thể dạy, học cách chế tạo và sử dụng chúng để truyền cho những người khác. Trong khi những điều kể trên là bình thường đối với hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội thì trong lĩnh vực tư duy, công cụ để có được những ý tưởng sáng tạo vẫn còn ở trong giai đoạn “trời cho thế nào thì dùng thế ấy và cũng không biết hình hài của công cụ đó ra sao” vì tư duy là đối tượng không nhìn thấy. Nhiều người còn cho rằng tư duy sáng tạo là đối tượng không điều khiển được. G.S. Altshuller nhận xét về nghịch lý này như sau: “Ý tưởng về điều khiển một cái gì đó hiện nay chưa điều khiển được vẫn được tiếp nhận một cách bình thường. Chúng ta sẽ tìm ra phương tiện điều khiển nó, chúng ta sẽ điều khiển nó. Nhưng ý tưởng về việc điều khiển quá trình sáng tạo, như là quy tắc, luôn gặp sự chống đối quyết liệt”. Nói cách khác, công cụ hiện nay dùng trong lĩnh vực tư duy sáng tạo còn rất thủ công mò mẫm, thô sơ theo kiểu thử và sai: cứ nghĩ đi, làm đi, thua keo này, bày keo khác cho đến bao giờ thành công thì thôi với năng suất, hiệu quả, độ tin cậy, tính Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 79 điều khiển thấp và khó truyền đạt “bí quyết” của mình cho những người khác để họ có thể nghĩ theo cách đó cũng có những sáng tạo tốt. Nhưng cũng chính tư duy – công cụ không nhìn thấy và rất thô sơ ấy lại quyết định những cái nhìn thấy và cho ra đời những công cụ và thành tựu hiện đại nhất. Từ đây chúng ta có thể thấy xã hội loài người sẽ phát triển vượt bậc như thế nào nếu tư duy có được những công cụ hiện đại, năng suất, hiệu quả cao, điều khiển tốt như trong hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Cái đắt thì chú ý nhiều >< Cái rẻ chú ý ít Một loại máy tính hoạt động rất phí phạm vì chưa dùng hết khả năng của chúng, mặc dù có một loạt ưu điểm vượt trội so với máy tính hiện đại nhất hiện nay: o Không cần lập công ty thiết kế, chế tạo và sản xuất mà vẫn có máy tính để dùng. o Phổ biến đến mức, ai cũng có và có rất sớm ngay từ khi bắt đầu cuộc đời. o Rất nhẹ, khoảng hơn kilôgram và luôn luôn đi theo chủ thành ra không sợ để quên đâu đó. o Có khả năng tàng hình nên người chủ tha hồ sử dụng máy tính đó một cách thoải mái mà không ai biết, kể cả ở những nơi cấm sử dụng máy tính thông thường. o Luôn được giấu kín ở nơi mà không ai có thể đột nhập để lấy trộm được. o Phần cứng lý tưởng đến mức người chủ không phải bận tâm về việc “lên đời”. o Bảo mật cực tốt, các tin tặc chỉ có nước ngồi khóc. o Tự động nạp năng lượng làm việc, không phụ thuộc vào máy phát điện, điện lưới, pin, ắc-quy o Thời gian hoạt động trung bình 60 – 70 năm mà không phải bảo trì, sửa chữa, thay thế. o Sử dụng để giải quyết các loại vấn đề mọi nơi, mọi lúc, thường xuyên hơn bất kỳ loại máy tính nào khác. o Có khả năng phát các ý tưởng sáng tạo mà lĩnh vực trí tuệ nhân tạo không biết bao giờ mới có thể bén gót. o Chính nó giúp chế tạo ra các loại máy tính khác nói riêng và tất cả các công Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 80 cụ lao động của con người nói chung. o Giá máy rẻ không ngờ vì ai cũng được cha, mẹ tặng, không mất tiền mua. Bạn đọc đã đoán ra “máy tính vượt trội” vừa nói chính là bộ óc của mỗi người bình thường. Thật là lạ khi thấy người ta theo đuổi những máy tính điện tử cùng các phần mềm đắt tiền mà chưa chú ý khai thác các ưu việt của loại máy tính cực rẻ (bộ óc) này bằng cách viết các “phần mềm” thích hợp cho nó. Học tư duy ít, dùng nhiều >< Học tự nhiên, xã hội nhiều, dùng ít Suốt cuộc đời, mỗi người chúng ta dùng suy nghĩ rất nhiều, nếu như không nói là hàng ngày. Từ việc trả lời những câu hỏi bình thường như “Hôm nay ăn gì? Mặc gì? Làm gì? Mua gì? Xem gì? Đi đâu?” đến làm các bài tập thầy, cô cho khi đi học; chọn ngành nghề đào tạo; lo công ăn, việc làm, sức khỏe, thu nhập, hôn nhân, nhà ở; giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong quan hệ xã hội, gia đình, nuôi dạy con cái, tất tần tật đều đòi hỏi phải suy nghĩ và chắc rằng ai cũng muốn làm sao mình suy nghĩ tốt để ra những quyết định đúng. Mặc dù đâu đó chúng ta nghe thấy những lời mang tính khẳng định kiểu, học toán học là học suy nghĩ lôgích, chính xác; các môn triết học, khoa học tự nhiên và xã hội giúp hình thành thế giới quan, nhân sinh quan là điều rất cần thiết để có tư duy đúng; chơi cờ là hình thức rất tốt để luyện tập suy nghĩ; văn học, nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ đem lại nhiều tình cảm đẹp, tạo cảm hứng tốt cho các hoạt động trí óc Nhưng rõ ràng, chúng ta không được học môn trực tiếp về tư duy để sáng tạo, để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Ngay cả khoa học có phần chuyên ngành nghiên cứu tư duy là tâm lý học cũng rất ít người được học. Trong khi đó, suốt cuộc đời, chúng ta phải học rất nhiều môn trong nhà trường, nhiều điều ngoài nhà trường, chủ yếu về hai lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Nhưng xem ra những gì chúng ta được học nhiều lại dùng rất ít trong cuộc sống và công việc. Nếu bạn đọc hiện nay đang đi làm, bạn càng có điều kiện để chiêm nghiệm điều đó. Chẳng hạn, từ khi bạn đi làm đến nay, ngoài một số kiến thức nghiệp vụ thuộc nghề của bạn, bạn đã bao nhiêu lần dùng những kiến thức khi học trong trường phổ thông thôi (chưa nói những kiến thức khác sâu hơn) như hằng đẳng thức đáng nhớ, giải phương trình bậc nhất, bậc hai, lấy đạo hàm, ba định luật của Newton, cân bằng phương trình của các phản ứng hóa học Nghịch lý học ít, dùng nhiều và ngược lại học nhiều, dùng ít, đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin, tri thức, đang là vấn đề được nhiều nhà giáo dục trên thế giới báo động và dành nhiều nỗ lực để giải quyết. Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 81 Thông minh >< Ít có kết quả sáng tạo Có giai thoại sau liên quan đến tư duy sáng tạo. Montaigne, nhà triết học Pháp nói với những người xung quanh: “Thượng đế ban phát cho loài người rất nhiều thứ không công bằng. Riêng về trí thông minh thì ai cũng như ai”. Mọi người đề nghị ông giải thích. Ông trả lời: “Các bạn để ý mà xem, có người khỏe, có người yếu; có người mập, có người gầy; có người cao, có người thấp; có người đẹp, có người không đẹp; Nhưng có ai tự nhận mình là ngu đâu và nếu như ai bị người khác mắng là ngu, người đó sẽ tức điên lên ấy chứ. Điều này chứng tỏ ai cũng thông minh như ai”. Câu nói tưởng là đùa của Montaigne phản ánh một sự thật được hầu hết các nhà nghiên cứu công nhận. Đó là, tiềm năng sáng tạo của bộ óc mỗi người bình thường (không bị các khuyết tật về não) cực kỳ lớn, đến nỗi, có nhà khoa học nói: “Trong mỗi người có một thiên tài ngủ quên”. Có cách nào đánh thức thiên tài trong mỗi người tỉnh dậy và hoạt động để kết quả sáng tạo của mỗi người tương xứng với tiềm năng thông minh vốn có? Làm sao biến tiềm năng thành hiện thực? Nhiều vấn đề >< Ít suy nghĩ Mục 2. Tư duy là gì? cho chúng ta biết, cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần suy nghĩ để giải quyết vấn đề, để ra quyết định. Cuộc đời của mỗi người đều có nhiều vấn đề, nhiều lần phải ra quyết định, do vậy cần phải suy nghĩ nhiều. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, số lượng người có suy nghĩ khi gặp vấn đề hoặc khi cần ra quyết định không nhiều, số lượng người thực sự suy nghĩ đến nơi đến chốn còn ít hơn và số lượng người suy nghĩ một cách có hiệu quả lại còn ít hơn nữa. Về điều này, A. Einstein nhận xét: “Suy nghĩ là một việc khó, nên rất ít người chịu khó suy nghĩ”. Còn người nhận giải Nobel văn học Bernard Shaw nói về suy nghĩ như sau: “Ít người suy nghĩ hơn hai hoặc ba lần trong một năm. Tôi tạo được sự nổi tiếng quốc tế là do tôi luôn suy nghĩ một hoặc hai lần trong một tuần”. Đi vào cụ thể, ngay cả trường hợp có dùng tư duy, trong ba loại tư duy (xem mục 3. Các nghiên cứu về tư duy thì có lẽ tư duy trực quan–hành động được dùng nhiều nhất, rồi đến tư duy trực quan–hình ảnh và sau cùng là tư duy từ ngữ–lôgích. Tư duy từ ngữ– lôgích, nếu dùng thì chủ yếu là ngôn ngữ tự nhiên và lôgích tự nhiên. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc người ta ít suy nghĩ: 1) Suy nghĩ, mà thực tế lại là suy nghĩ bằng phương pháp phổ biến thử và sai, tốn nhiều sức lực, trí lực, thời gian. Do vậy, nhiều người ngại, lười, trốn suy nghĩ, thậm chí, cam chịu, chấp nhận những hậu quả không mong muốn do vấn đề chưa Tư duy trong chuỗi nhu cầu–hành động: tư duy sáng tạo hiện có 82 được giải quyết mang lại. Nói cách khác, đành “sống” chung với vấn đề. Ví dụ, sống chung với ô nhiễm, kẹt xe. 2) Môi trường có những điều kiện giúp người có các vấn đề tránh suy nghĩ giải quyết chúng. Ví dụ, các vấn đề có thể báo cáo lên cấp trên. Cấp trên sẽ suy nghĩ, giải quyết, mình chỉ là thiên lôi chỉ đâu đánh đấy theo quyết định của cấp trên. Các vấn đề có thể giao cho cấp dưới suy nghĩ rồi họ kiến nghị các giải pháp, các dự thảo quyết định. Các vấn đề có thể chuyển giao cho những người khác giải quyết bằng cách mua, thuê các thành phẩm, dịch vụ có sẵn hoặc đặt hàng giải quyết theo các yêu cầu của chủ sở hữu vấn đề. Tất nhiên, chủ sở hữu vấn đề phải có đủ tiền để làm điều đó. Nhân đây, người viết dẫn ra câu nói cửa miệng của E.Rutherford (giải Nobel vật lý) nhắc nhở các đồng nghiệp và học trò mình: “Chúng ta không có tiền, chúng ta phải suy nghĩ” (We’ve got no money, so we have to think). 3) Người có vấn đề có thể chuyển sang các môi trường khác, ở đó không có vấn đề mình gặp. Ví dụ, chuyển công tác, chuyển nhà, chuyển nghề, li dị, cắt đứt các quan hệ xấu. 4) Người viết cho rằng nguyên nhân cơ bản nhất của việc ít hoặc không suy nghĩ là do giáo dục nói riêng, nhân loại nói chung không thực sự chú ý đến tư duy: cho đến hiện nay, trong các nhà trường trên khắp thế giới, hầu như không thấy dạy và học suy nghĩ như một môn riêng. Nhiều nơi khuyến khích học thuộc lòng không cần suy nghĩ. Có những nơi, giới lãnh đạo cần những người cuồng tín hoặc nô lệ, là những người có suy nghĩ mà không dùng. Để khắc phục các nghịch lý nói trên, những người có trách nhiệm đối với sự phát triển của nhân loại và cá nhân cần thực hiện những ý kiến của các nhà khoa học để thực sự chú ý đến tư duy. Ví dụ: Maxwell: “Đề tài nghiên cứu chân chính dành cho nhân loại chính là con người”. T. Edison: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của nền văn minh là dạy con người biết suy nghĩ”. M. Planck: “Chức năng của trường học không phải là cung cấp các kinh nghiệm chuyên môn mà là bồi dưỡng, luyện tập tư duy có phương pháp một cách
File đính kèm:
- suy_nghi_ve_tu_duy_phan_1.pdf