Thực trạng nhận thức của giáo viên Mầm non về đặc điểm tâm lý trẻ phổ tự kỷ

Tóm tắt: Rối loạn phổ tự kỷ là một khuyết tật phát triển gây ra bởi những khác biệt trong

não bộ. Rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ thể hiện tương đối rõ trong giai đoạn trẻ từ 2 đến 6 tuổi

- chủ yếu thuộc giai đoạn tuổi mầm non. Việc nhận biết các đặc điểm, biểu hiện của trẻ

phổ tự kỷ có thể giúp đưa ra được những dự báo và tìm cách can thiệp sớm nhất có thể.

Bài viết phân tích thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non hiện nay về đặc điểm tâm

lý trẻ tự kỷ trên cơ sở khảo sát thực tế tại thành phố Đà Nẵng.

pdf 7 trang yennguyen 4880
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng nhận thức của giáo viên Mầm non về đặc điểm tâm lý trẻ phổ tự kỷ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng nhận thức của giáo viên Mầm non về đặc điểm tâm lý trẻ phổ tự kỷ

Thực trạng nhận thức của giáo viên Mầm non về đặc điểm tâm lý trẻ phổ tự kỷ
Thông tin Khoa học xã hội, số 5.201844
 Thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non
về đặc điểm tâm lý trẻ phổ tự kỷ
Nguyễn Thị Hằng Phương(*)
Lê Thị Phi(**)
Tóm tắt: Rối loạn phổ tự kỷ là một khuyết tật phát triển gây ra bởi những khác biệt trong 
não bộ. Rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ thể hiện tương đối rõ trong giai đoạn trẻ từ 2 đến 6 tuổi 
- chủ yếu thuộc giai đoạn tuổi mầm non. Việc nhận biết các đặc điểm, biểu hiện của trẻ 
phổ tự kỷ có thể giúp đưa ra được những dự báo và tìm cách can thiệp sớm nhất có thể. 
Bài viết phân tích thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non hiện nay về đặc điểm tâm 
lý trẻ tự kỷ trên cơ sở khảo sát thực tế tại thành phố Đà Nẵng. 
Từ khoá: Rối loạn tự kỷ; Trẻ tự kỷ; Rối loạn phát triển; Giáo viên mầm non; Trẻ mầm non
Abstract: Autism Spectrum Disorder (ASD) is a developmental disability caused by brain 
anabnormalities. Symptoms of autism spectrum disorder generally appear in preschool-
age children (2 to 6 years old). Identifying the characteristics and symptoms of autism 
spectrum disorder helps provide early predictions and medical care. Based on survey 
results in Danang city, the paper analyzes the current awareness of kindergarten teachers 
on psychological characteristics of autistic children.
Keywords: Autism Spectrum Disorder; Developmental Disorder; Autistic Children; 
Kindergarten Teachers; Kindergarten Children 
1. Đặt vấn đề1
Trên thế giới có khoảng 7% - 13% trẻ 
em trong độ tuổi đi học được chẩn đoán rối 
loạn phát triển, trong đó có tự kỷ. Ở Mỹ, 
cứ 88 trẻ em thì có 1 trẻ được chẩn đoán 
mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ. Biểu hiện ở 
trẻ em trai nhiều hơn trẻ em gái (C. Segen 
Joseph, 2006).
(*) TS., Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng; 
Email: hangphuong19@gmail.com
(**) ThS., Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà 
Nẵng; Email: lethiphi1963@gmail.com
Một số nghiên cứu khác cho rằng, 
khoảng 15% - 20% dân số trên thế giới 
có vấn đề tâm bệnh lý; và cũng có khoảng 
15% - 20% trẻ em gặp các rối nhiễu tâm 
lý nói chung (L. Scahill, M. Schwab-Stone, 
2000; L.M. Hamilton, 2000).
Những biểu hiện rối loạn phổ tự kỷ thể 
hiện tương đối rõ trong quãng thời gian trẻ 
đến trường mầm non. Vì vậy, một trong 
những năng lực sư phạm của giáo viên 
mầm non là nhận biết các đặc điểm, biểu 
hiện của trẻ tự kỷ để có được những dự báo 
và tìm cách can thiệp sớm nhất có thể. 
Thực trạng nhận thức... 45
Bài viết mô tả thực trạng nhận thức của 
giáo viên mầm non đối với trẻ phổ tự kỷ trên 
cơ sở khảo sát thực tế từ tháng 9 đến tháng 
12/2017 bằng phỏng vấn sâu và bằng bảng 
hỏi với 271 giáo viên mầm non trên địa bàn 
thành phố Đà Nẵng (nữ chiếm 99,27%, còn 
0,73% là giáo viên nam dạy âm nhạc và võ 
thuật). Độ tuổi trung bình của các giáo viên 
được khảo sát là 28,2. Thời gian công tác 
Bảng 1: Biểu hiện của trẻ phổ tự kỷ
Ngôn 
ngữ
- Chậm nói hoặc không có khả năng nói 
chuyện
- Sử dụng lặp đi lặp lại một số từ ngữ
- Không có khả năng lảm nhảm, nói 
chuyện hoặc phát triển các kỹ năng xã hội 
ở mọi lứa tuổi
- Không bập bẹ khi đã được 12 tháng
Giao 
tiếp
- Hạn chế khả năng giao tiếp xã hội
- Không tiếp xúc bằng mắt khi đối diện 
với người khác
- Không có khả năng chia sẻ hoặc chỉ ra 
đối tượng mình quan tâm
- Không có khả năng tương tác với người 
khác
- Không thể bắt đầu hoặc duy trì một cuộc 
trò chuyện
- Thiếu linh hoạt khi chơi hoặc chơi một 
mình
Hành 
vi 
- Không dùng những động tác như vẫy 
tay khi 12 tháng
- Khó khăn trong việc sử dụng hoặc hiểu 
các ám hiệu không lời như nét mặt, dáng 
điệu và cử chỉ 
- Kỹ năng vận động thô rất khó khăn như 
chạy dễ ngã hoặc nắm một cây bút chì 
không chặt
Cảm 
xúc
- Không phát âm, cười hoặc có các biểu 
cảm khác trên gương mặt khi 9 tháng tuổi 
- Dễ buồn bởi những thay đổi nhỏ
- Phản ứng bất thường với cách nếm, 
nhìn, ngửi hoặc cảm thấy
Nhận 
thức
- Luôn lặp lại một thói quen hay nghi 
thức nào đó
- Có những chuyển động lặp đi lặp lại, 
chẳng hạn như vỗ tay hoặc xoắn các ngón 
tay, lắc mình hoặc quay vòng tròn.
trung bình của các giáo viên này tại trường 
mầm non là 8,9 năm, người làm việc lâu 
năm nhất là 27 năm (hiện là hiệu trưởng) và 
người ít thời gian nhất là 1 tháng (tính đến 
ngày nghiên cứu). Về học vấn, giáo viên 
trình độ trung cấp chiếm 57,2%, trình độ 
cao đẳng 0,11%; trình độ cử nhân đại học 
20,2%, trình độ thạc sĩ 0,18%. Dữ liệu thu 
thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.
2. Một số đặc điểm của rối loạn phổ tự kỷ
Theo một số nghiên cứu, rối loạn phổ 
tự kỷ bao gồm: rối loạn tự kỷ, rối loạn phát 
triển lan tỏa không đặc hiệu (PDD-NOS) 
và hội chứng Asperger (L.M. Hamilton, 
2000; F.R. Volkmar và cộng sự, 2005). 
Hình thức bề ngoài của những trẻ 
rối loạn phổ tự kỷ không có gì khác với 
những trẻ khác, nhưng cách trẻ phổ tự kỷ 
giao tiếp, tương tác, hành xử và học tập 
thì khác với hầu hết những trẻ khác (R. 
Searight, 2001; G. Polanczyk và cộng sự, 
2007). Khả năng học tập, suy nghĩ và giải 
quyết vấn đề của những trẻ rối loạn phổ 
tự kỷ có thể dao động từ rất có tài năng 
đến khó khăn nghiêm trọng (F.R. Volkmar 
và cộng sự, 2005; L. Scahill, M. Schwab-
Stone, 2000). 
Theo các nghiên cứu về rối loạn phổ 
tự kỷ, các rối loạn này có những đặc trưng, 
mức độ khác nhau nhưng đều gây ra những 
trở ngại đáng kể về mặt tương tác xã hội; 
về giao tiếp có lời và không lời; và có các 
hành vi lặp lại (P. Szatmari và cộng sự, 
1989; G. Polanczyk và cộng sự, 2007; L.M. 
Hamilton, 2000). 
Trẻ tự kỷ khó phát triển quan hệ với 
mọi người, chậm nói và không có khả 
năng sử dụng ngôn ngữ khi đã nói được 
(Leo Kanner, 1943; L. Scahill, M. Schwab-
Stone, 2000). Ngoài ra, trẻ phổ tự kỷ thường 
có hành vi trùng lặp và rập khuôn, thiếu trí 
tưởng tượng, giỏi học vẹt, bị ám ảnh đối 
Thông tin Khoa học xã hội, số 5.201846
với sự trùng lặp, diện mạo bên ngoài vẫn 
bình thường (Neil J. Salkin, 2002).
Trẻ phổ tự kỷ nằm trong 5 nhóm biểu 
hiện sau: nhóm ngôn ngữ; nhóm giao tiếp; 
nhóm hành vi; nhóm cảm xúc; nhóm nhận 
thức (R. Searight, 2001; G. Polanczyk và 
cộng sự, 2007; P. Szatmari và cộng sự, 
1989; M. Ives, N. Munro, 2002; L. Scahill, 
M. Schwab-Stone, 2000). 
Các đặc điểm của rối loạn phổ tự kỷ 
được chúng tôi tập hợp trong Bảng 1. Đây 
là những biểu hiện đặc trưng nhất của 
trẻ phổ tự kỷ mà giáo viên cần nhận ra. 
Chúng tôi cũng lựa chọn các biểu hiện 
này để đánh giá mức độ nhận biết của giáo 
viên mầm non về trẻ phổ tự kỷ khi khảo 
sát thực tế.
Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào 
khẳng định được chính xác nguyên nhân gây 
ra rối loạn phổ tự kỷ. Theo F.R. Volkmar và 
cộng sự (2005), một số nguyên nhân có thể 
kể đến là: Di truyền học; Môi trường trước 
khi sinh; Sự nhiễm trùng của mẹ; Bệnh đái 
tháo đường; Nhân tố gây quái thai; Thuốc 
trừ sâu; Vấn đề tuyến giáp; Axit folic; Sự 
căng thẳng; Kích tố dục nam của bào thai; 
Sóng siêu âm; 
Đối với trẻ phổ tự kỷ, những người có 
thể hỗ trợ tích cực cho trẻ là bố mẹ (những 
người thân trong gia đình), các bác sĩ, giáo 
viên, các nhà tâm lý học và chuyên viên trị 
liệu ngôn ngữ... (M. Ives, N. Munro, 2002; 
G. Polanczyk, 2007).
3. Kết quả nghiên cứu và bà n luậ n
* Hiểu biết của giáo viên mầm non về 
các biểu hiện của trẻ phổ tự kỷ 
Kết quả khảo sát nhận thức về trẻ 
phổ tự kỷ ở giáo viên mầm non cho thấy, 
100% giáo viên có biết đến cụm từ “tự kỷ, 
tăng động giảm chú ý”, nhưng có 76,3% 
cho rằng không biết cụ thể tự kỷ là gì. Có 
39,8% giáo viên trả lời chưa bao giờ nghe 
nói về rối loạn phổ tự kỷ (mà chỉ nghe nói 
đến “tự kỷ” và “tăng động”). 
Nhiều giáo viên không chắc chắn về 
các biểu hiện của trẻ. Nhận biết về các rối 
loạn của trẻ cần một thời gian dài, vừa để 
theo dõi, vừa so sánh với các cháu khác 
và cũng tìm hiểu thêm, nên tôi không dám 
chắc. Thời của tôi học, cách đây hai chục 
năm, thì không có mấy cái rối loạn này. 
Các biểu hiện này là mới với chúng tôi 
(PVS cô N.P.L.H, 45 tuổi, Trường Mầm 
Non HL).
Khi khảo sát mức độ nhận diện trẻ 
phổ tự kỷ của giáo viên mầm non theo các 
nhóm vấn đề (ngôn ngữ, giao tiếp, hành vi, 
cảm xúc, nhận thức), kết quả cho thấy có 
14,69% trong tổng số trẻ được giáo viên 
nhận diện có các biểu hiện rối nhiễu. Cụ 
thể: 15,1% trẻ có biểu hiện rối nhiễu về 
ngôn ngữ; 22,5% trẻ có rối nhiễu về giao 
tiếp; 24,1% trẻ có rối nhiễu về hành vi; 
9,2% trẻ có những biểu hiện cảm xúc khác 
thường và 2,59% trẻ nhận thức chậm hơn 
các trẻ cùng lứa tuổi. 
Nhóm biểu hiện về ngôn ngữ được 
các giáo viên nhận ra nhiều nhất (với điểm 
trung bình = 3,15). Các biểu hiện về ngôn 
ngữ được nhận thấy là: Chậm nói hoặc 
không có khả năng nói chuyện (80,3%); Sử 
dụng lặp đi lặp lại một số từ ngữ (15,6%); 
Không có khả năng nói chuyện hoặc phát 
triển các kỹ năng xã hội ở mọi lứa tuổi 
(19,3%); Không bập bẹ khi đã được 12 
tháng (10,3%).
Nhóm các biểu hiện về giao tiếp xếp 
vị trí thứ 2 (với điểm trung bình 2,81), với 
các biểu hiện dễ nhận thấy là: Không tiếp 
xúc bằng mắt khi đối diện với người khác 
(45,2%); Không có khả năng chia sẻ hoặc 
chỉ ra đối tượng mình quan tâm (62,1%); 
Không có khả năng tương tác với người 
khác; Không thể bắt đầu hoặc duy trì một 
Thực trạng nhận thức... 47
cuộc trò chuyện; Thiếu linh hoạt khi chơi 
hoặc chơi một mình (71,3%).
Nhóm các biểu hiện về hành vi được 
các giáo viên kể đến là: Không dùng những 
động tác như vẫy tay khi 12 tháng (17,2%); 
Khó khăn trong việc sử dụng hoặc hiểu các 
ám hiệu không lời như nét mặt, dáng điệu 
và cử chỉ (45,2%); Kỹ năng vận động thô 
rất khó khăn như chạy dễ ngã hoặc nắm 
một cây bút chì không chặt (25,8%). Ngoài 
ra còn có các biểu hiện như hiếu động quá 
mức, hay chạy nhảy la hét, quá nghịch, 
không có cảm giác nguy hiểm (1,3%).
Bảng 2. Mức độ nhận thức của giáo viên 
đối với trẻ có rối loạn phát triển
Nhóm biểu 
hiện
Tỷ lệ học 
sinh có 
biểu hiện 
phổ tự kỷ 
(%)
Nhận thức của giáo 
viên về biểu hiện 
rối nhiễu của trẻ
Điểm 
trung 
bình
Độ lệch 
chuẩn
Ngôn ngữ 15,1 3,15 0,32
Giao tiếp 22,5 2,81 0,41
Hành vi 24,1 2,69 0,32
Cảm xúc 9,2 1,87 0,39
Nhận thức 2,59 2,59 0,5
Trung bình 14,69 2,6 0,43
Bảng 2 cho thấy mức độ tự nhận thức 
của giáo viên đối với trẻ có rối loạn phát 
triển thể hiện ở ngôn ngữ là tốt nhất. Tiếp 
đến là những biểu hiện về giao tiếp và sau 
đó là đến các biểu hiện về hành vi. Điểm 
trung bình nhận thức của giáo viên về các 
biểu hiện của trẻ phổ tự kỷ là 2,6 - ở mức 
trung bình. 
Xem xét tương quan giữa số năm đứng 
lớp và mức độ hiểu biết về biểu hiện của 
trẻ phổ tự kỷ, kết quả có sự khác biệt trong 
việc nhận diện các biểu hiện của trẻ phổ tự 
kỷ giữa giáo viên lâu năm (từ 5 năm làm 
việc trở lên) và giáo viên mới vào nghề 
(dưới 3 năm), với điểm trung bình của giáo 
viên lâu năm là 2,35 và giáo viên mới vào 
nghề là 1,79 (Bảng 3). 
Bảng 3: So sánh giữa nhóm giáo viên lâu năm 
và giáo viên mới vào nghề
Nhóm 
biểu 
hiện
Giáo viên 
lâu năm
Giáo viên mới 
vào nghề
Mức ý 
nghĩaĐiểm 
trung 
bình
Độ 
lệch 
chuẩn
Điểm 
trung 
bình
Độ 
lệch 
chuẩn
Ngôn 
ngữ
2,75 0,51 1,98 0,22 0,02*
Giao 
tiếp
2,13 0,31 1,18 0,21 0,001
Hành 
vi 
1,54 0,23 1,37 0,34 0,13
Cảm 
xúc
2,02 0,14 1,42 0,42 0,00*
Nhận 
thức
1,68 0,17 1,13 0,41 0,025*
* Cách thức giáo viên mầm non sử 
dụng để hỗ trợ trẻ phổ tự kỷ
Khi so sánh các nhóm biểu hiện của 
phổ tự kỷ (ngôn ngữ; giao tiếp; hành vi; 
cảm xúc; nhận thức) trong nhận thức của 2 
nhóm giáo viên (nhóm lâu năm và mới vào 
nghề), kết quả cho thấy có sự khác biệt. 
Giáo viên lâu năm đều nhận biết tốt hơn 
về trẻ phổ tự kỷ so với giáo viên mới. Cụ 
thể là:
- Ở biểu hiện về ngôn ngữ, điểm trung 
bình nhận thức của nhóm giáo viên lâu năm 
là 2,75, trong khi nhóm giáo viên mới chỉ 
là 1,98.
- Ở biểu hiện về giao tiếp, điểm trung 
bình của nhóm giáo viên lâu năm là 2,13, 
còn nhóm giáo viên mới là 1,18. 
Thông tin Khoa học xã hội, số 5.201848
- Ở biểu hiện về nhận thức, ít có sự 
khác biệt giữa 2 nhóm. 
Khảo sát cách thức giáo viên mầm non 
sử dụng để hỗ trợ trẻ phổ tự kỷ khi nhận ra 
vấn đề của trẻ, chúng tôi nhận được kết quả 
như sau (Biểu 1): 
Cách thứ nhất là nói chuyện với trẻ 
(Điểm trung bình = 2,42). Một giáo viên 
cho biết: tôi dành nhiều thời gian hơn cho 
các trẻ mà tôi nhận định là có rối loạn 
phát triển hơn so với các trẻ khác (PVS 
cô T.L.P). 
Một cách khác được giáo viên sử dụng 
là cho trẻ chơi các trò chơi về ngữ pháp 
hoặc con số (điểm trung bình = 2,23) nhằm 
giúp trẻ củng cố thông tin 
sau mỗi buổi học. Bên 
cạnh đó, các giáo viên 
còn tổ chức các hoạt động 
nhóm, thi đua giữa các 
nhóm với nhau để hỗ trợ 
các trẻ nhút nhát, có biểu 
hiện lo lắng, sợ hãi (điểm 
trung bình = 2,61). Nhiều 
cháu rất sợ nhóm, không 
dám đứng lên trước lớp, 
tôi chia nhóm cho các 
cháu và cử bạn hỗ trợ cho 
con, sau nhiều lần, tôi thấy các cháu nhút 
nhát có cải thiện, mạnh dạn hơn ban đầu 
(PVS cô P.L.Y).
Hoạt động được nhiều giáo viên lựa 
chọn là cho trẻ vẽ (điểm trung bình = 
2,82). Ngoài ra, giáo viên còn thực hiện 
các hoạt động khác như: Cho 
trẻ chơi trò chơi đóng vai, 
tưởng tượng; Kể chuyện; Sử 
dụng các hình ảnh, video; Tổ 
chức cho trẻ tham gia các 
hoạt động thi đua
Như vậy, các cách thức 
chủ đạo được giáo viên mầm 
non sử dụng để hỗ trợ trẻ phổ 
tự kỷ tập trung ở các lĩnh vực: 
ngôn ngữ, vận động tinh, vận 
động thô, tương tác cá nhân 
và xã hội. 
* Mong muốn của giáo 
viên mầm non trong hỗ trợ trẻ phổ tự kỷ
Để hỗ trợ trẻ phổ tự kỷ, giáo viên cần 
hiểu biết, có kiến thức về trẻ (với điểm 
trung bình = 3,13). Nếu giáo viên không 
có kiến thức về trẻ phổ tự kỷ thì chẳng 
làm gì để giúp đỡ được trẻ, nếu các cô 
không có kiến thức làm việc với trẻ chỉ 
làm hỏng vấn đề thêm mà thôi (PVS cô 
T.L.Y). Thấy các con học mãi không nhớ, 







    
&ҫQFyNӃQWKӭFYӅWUҿSKәWӵNӹ
&ҫQFyÿӗGQJSKѭѫQJWLӋQÿҫ\ÿӫ
&ҫQFyNӻQăQJ[ӱOêWuQKKXӕQJ
&ҫQFyJLiRWUuQK
&ҫQKӛWUӧFӫDFiFJLiRYLrQNKiF
&ҫQVӵWѭѫQJWiFFӫDJLDÿuQKWUҿ
&ҫQKӛWUӧWKrPNLQKSKtFKRJLiRYLrQ









      
1yLFKX\ӋQ
&iFWUzFKѫLQJӳSKiSFRQVӕ
7әFKӭFWUzFKѫLWKHRQKyP
ĈӑFWKѫÿӗQJGDR
&Kҥ\QKҧ\
&KѫLWUzFKѫLWƭQK
9Ӂ
1һQ
9ұQÿӝQJSKӕLKӧSPҳWYjWD\
Biểu 1: Các hoạt động hỗ trợ của giáo viên
sử dụng với trẻ phổ tự kỷ
Biểu 2: Mong muốn của giáo viên mầm non
trong hỗ trợ trẻ phổ tự kỷ
Thực trạng nhận thức... 49
chạy nhảy khắp nơi, không hiểu lời bạn 
bè nói, tôi xót xa lắm. Chúng tôi có được 
học một ít về trẻ tự kỷ, trẻ chậm phát triển 
nhưng chỉ học trên lý thuyết, chưa đủ để 
làm việc với các con (PVS một giáo viên 
Trường Mầm non VN). Giáo viên cũng 
cần có kinh nghiệm, có thêm đồ dùng, 
phương tiện dạy học.
Ngoài ra, nhiều giáo viên mầm non 
mong muốn phụ huynh, bố mẹ của trẻ hiểu 
và chia sẻ với giáo viên nhiều hơn trong 
việc chăm sóc trẻ (điểm trung bình = 3,84). 
Nhiều phụ huynh quá mong đợi ở giáo viên 
nên có những lời lẽ không tích cực, khiến 
giáo viên rất vất vả.
Khi trong lớp có trẻ phổ tự kỷ, giáo 
viên mầm non mong muốn có được sự hỗ 
trợ của các giáo viên khác (điểm trung bình 
= 2,95). Có giáo viên chia sẻ: trong lớp có 
một trẻ phổ tự kỷ thôi là lớp đó đã rất khó 
khăn để đưa vào nề nếp, giờ ngủ trưa của 
các con cũng bị ảnh hưởng. 
Số lượng trẻ phổ tự kỷ trong lớp chỉ 
nên tối đa 1 - 2 trẻ để có thể theo dõi và hỗ 
trợ trẻ tốt nhất.
Ngoài ra, một số giáo viên còn mong 
đợi có thêm khoản thu nhập hợp lý để có thể 
giúp đỡ trẻ phổ tự kỷ nhiều hơn (điểm trung 
bình = 2,67). Trông 10 cháu bình thường 
thì vẫn tốt, nhưng trông 1 cháu tự kỷ thì 
công bỏ ra gấp 10 lần, thậm chí 20 lần mới 
đủ. Nên thật sự là rất mệt. Nếu được, cần 
có hỗ trợ thêm kinh phí cho các cô thì rất 
là quý. Tuy nhiên chúng tôi biết rằng, chăm 
các con là phần nào giúp cho các gia đình 
yên tâm công tác (PVS cô T.L.K, quản lý 
một trường mầm non).
4. Kết luận 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhận thức 
của giáo viên mầm non trên địa bàn thành 
phố Đà Nẵng đối với trẻ phổ tự kỷ đang 
ở mức trung bình (điểm trung bình = 2,6), 
các giáo viên đã nghe nói đến trẻ rối loạn 
phát triển, việc nhận ra được các biểu hiện 
của trẻ có phổ tự kỷ mới ở mức trung bình. 
Theo đánh giá và nhận biết của các giáo 
viên mầm non được khảo sát, trung bình 
có 14,69% trẻ có các biểu hiện của phổ tự 
kỷ trong các trường mầm non hiện nay. 
Giáo viên lâu năm (trên 5 năm công tác) 
nhận biết về các biểu hiện của trẻ phổ tự 
kỷ tốt hơn so với các giáo viên mới vào 
nghề (dưới 3 năm).
Biểu hiện về ngôn ngữ và giao tiếp của 
trẻ phổ tự kỷ được các giáo viên nhận ra 
sớm nhất. Các cách thức hỗ trợ cho trẻ phổ 
tự kỷ được giáo viên mầm non sử dụng là: 
nói chuyện; chơi với các con số, chữ cái; 
các trò chơi nhóm như đọc thơ, nhảy, leo 
trèo, vẽ hình...
Mong đợi của giáo viên là có thêm 
kiến thức, kỹ năng; cần có dụng cụ, giáo 
trình để góp phần hỗ trợ cho trẻ phổ tự 
kỷ. Tuy nhiên, điều cần thiết nhất là cần 
sự hỗ trợ, hợp tác của gia đình trẻ và các 
giáo viên khác. 
Từ kết quả nghiên cứu trên đây, chúng 
tôi cho rằng cần đề xuất chương trình tập 
huấn cho giáo viên mầm non về đặc điểm/ 
nhận biết về trẻ phổ tự kỷ; tập huấn các 
cách thức hỗ trợ/giáo dục cho trẻ phổ tự kỷ 
và tập huấn các kỹ năng cho gia đình trẻ tự 
kỷ nhằm tạo ra sự hợp tác chặt chẽ giữa các 
bên giúp hỗ trợ cho trẻ được tốt nhất  
Tài liệu tham khảo
1. L.M. Hamilton (2000), Facing Autism, 
Water Brook Press, U.S.A.
2. M. Ives, N. Munro (2002), Caring For 
A Child With Autism, Jessica Kingsley 
Publishers, London, UK.
3. Neil J. Salkin and al (2002), Child 
Development, Macmillan Reference 
USA. 
Thông tin Khoa học xã hội, số 5.201850
4. G. Polanczyk, M.S. de Lima, B.L. Horta, 
J. Biederman, L.A. Rohde (2007), “The 
worldwide prevalence of ADHD: a 
systematic review and metaregression 
analysis”, The American Journal of 
Psychiatry, 164, 6, 942-948.
5. L. Scahill, M. Schwab-Stone (2000), 
Epidemiology of ADHD in school-
age children, Child and adolescent 
psychiatric clinics of North America.
6. R. Searight (2001), “Conduct Disorder: 
Diagnosis and Treatment in Primary 
Care”, American Family Physician, 
April 15, 1579-1589.
7. C. Segen Joseph (2006), Concise 
Dictionary of Modern Medicine 
(Illustrated ed.), McGraw-Hill.
8. P. Szatmari, D.R. Off ord, M.H. Boyle 
(1989), “Ontario Child Health Study: 
prevalence of attention defi cit disorder 
with hyperactivity”, Journal of Child 
Psychology and Psychiatry, 30, 2, 219-
223.
9. F.R. Volkmar, R. Paul, A. Klin, D. 
Cohen (2005), Handbook of Autism and 
Pervasive Developmental Disorders, 
Volume Two, Published by John Wiley 
& Sons, Inc., U.S.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_nhan_thuc_cua_giao_vien_mam_non_ve_dac_diem_tam_l.pdf