Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính
Thế giới đang chuyển mình sang một giai đoạn mới- cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ 4 (4.0) với đặc điểm là công nghệ kỹ thuật số, công nghệ vật
lý và công nghệ sinh học. Từng lĩnh vực của nền kinh tế đều chịu tác động
theo những thay đổi do công nghệ ứng dụng phát triển trên quy mô toàn thế
giới và thời gian được đo lường bởi từng giây, từng phút. Bài viết tập trung
vào hai vấn đề: (i) Công nghệ kỹ thuật số; (ii) Tác động của công nghệ kỹ
thuật số tới hoạt động của khu vực tài chính.
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính
51 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 208- Tháng 9. 2019 Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính Đinh Thị Thanh Long Khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 08/05/2019 Ngày nhận bản sửa: 20/07/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019 Thế giới đang chuyển mình sang một giai đoạn mới- cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0) với đặc điểm là công nghệ kỹ thuật số, công nghệ vật lý và công nghệ sinh học. Từng lĩnh vực của nền kinh tế đều chịu tác động theo những thay đổi do công nghệ ứng dụng phát triển trên quy mô toàn thế giới và thời gian được đo lường bởi từng giây, từng phút. Bài viết tập trung vào hai vấn đề: (i) Công nghệ kỹ thuật số; (ii) Tác động của công nghệ kỹ thuật số tới hoạt động của khu vực tài chính. Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0; công nghệ kỹ thuật số; khu vực tài chính; dịch vụ tài chính. The impacts of digital technology on financial sector transactions Abstract: The World is on a paradigm shift into a new phase of development- the Fourth Industrial Revolution, characterized by digital technology, physical technology, and biological technology. There have been achieved unprecedented changes drived by technologies respectively in economic own fields every second or minute. This paper will forcus on: (i) Digital techonology; and (ii) analyze how digitalization delivery its tasks on financial sector. Keywords: fourth industrial revolution, digital technology/ digitalization, financial sector; financial service. Long Thi Thanh Dinh, MEc. Email: longdtt@hvnh.edu.vn Fuculty of Internation Business, Banking Academy of Vietnam 1. Công nghệ kỹ thuật số Cho tới nay, lịch sử nhân loại đang chuyển mình theo yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). CMCN 4.0 khác với các cuộc CMCN trước đó bởi đặc tính ứng dụng rộng rãi của các thiết bị thông minh hóa sản xuất (smart) tạo thành một hệ thống có thể lưu trữ thông tin và giao dịch độc lập với nhau (Cyber Physical system) trong môi trường sản xuất. CMCN 4.0 được tiến hành dựa trên nền tảng cốt lõi hội nhập sâu hơn về trí tuệ nhân tạo và hệ thống mạng lưới. Công nghệ kỹ thuật số, công nghệ vật lý và công nghệ sinh học là ba trụ cột quan trọng của CMCN 4.0. Ba loại công nghệ Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201952 này sẽ dẫn dắt cuộc CMCN 4.0 với những ứng dụng mạnh mẽ trong từng lĩnh vực của nền kinh tế (Bảng 1) và sự tích hợp giữa các loại công nghệ với nhau. Nếu như CMCN 3.0 tập trung vào các lĩnh vực phần cứng thì CMCN 4.0 có đặc điểm bắt nguồn từ các ứng dụng phần mềm của công nghệ kỹ thuật số, công nghệ vật lý và công nghệ sinh học. Công nghệ kỹ thuật số được coi là lực đẩy quan trọng của CMCN 4.0. Công nghệ số cho phép tất cả các các mạng lưới tích hợp với nhau thông qua dòng thông tin xuyên suốt chuỗi giá trị. Ý tưởng đầu tiên của Internets kết nối vạn vật là làm thế nào để mọi giao dịch hiện hữu xung quanh chúng ta có thể giao tiếp với nhau để đạt được những mục tiêu chung. Internet kết nối vạn vật sẽ tích hợp sự nhận diện đa hình thức thông qua cảm ứng của các mạng không dây và có dây cho phép truyền dữ liệu, phân phối cảm ứng thông minh từ các trạm thông minh. Internet kết nối vạn vật có khả năng nhận diện, định vị, lần theo dấu vết và quản lý đối tượng. Những ứng dụng của Internet kết nối vạn vật ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các ứng dụng đời sống như ngôi nhà thông minh, dịch vụ logistic, bảo vệ môi trường, dịch vụ an ninh công cộng, kiểm soát thông minh thiết bị báo cháy, hệ thống kiểm soát trong dây chuyền công nghiệp, và các lĩnh vực khác như đo lường, kiểm soát sức khỏe con người. Các phát kiến về đường truyền, tốc độ, tăng dung lượng lưu trữ và trí tuệ nhân tạo đã cho phép các thiết bị này suy nghĩ và hành xử (như hoạt động học tập, suy đoán, tư duy và lên kế hoạch) giống như con người. Trí tuệ nhân tạo đã giúp cho máy tính đạt tới những ứng dụng cao hơn tương tự như những hành động của con người. Bằng cách sử dụng các thuật toán, máy tính có thể nhận diện các dữ liệu hiện có, lặp lại các quyết định trước khi tìm ra các dữ liệu mới. Ngày nay, phân tích dữ liệu có thể được sử dụng rộng rãi trong phân tích tình cảm trong văn bản, nhận diện sinh trắc con người, phân tích thị trường chứng khoán và nhận dạng qua hình ảnh Dữ liệu lớn và điện toán đám mây là ứng dụng thứ ba của công nghệ số. Lý thuyết 4V (Li Grouping, 2017) là một khái niệm điển hình cho dữ liệu lớn. Dữ liệu lớn có thể được thu thập từ nhiều nguồn và nhiều chủng loại, chứa dung lượng lớn, tốc độ truyền cao và xử lý ngay lập tức. Để xử lý dữ liệu lớn đòi hỏi các thiết bị phần cứng với dung lượng khổng lồ thì điện toán đám mây ra đời đã Bảng 1. Các loại công nghệ và ứng dụng trong CMCN 4.0 Công nghệ Lĩnh vực áp dụng Công nghệ số - Kết nối Internet vạn vật (The Internet of things) - Trí tuệ nhân tạo và phương pháp phân tích dữ liệu (Artificial intelligence and machine learning) - Dữ liệu lớn và điện toán đám mây (Big data and cloud computing) Công nghệ vật lý - Xe không người lái (Autonomous cars) - Công nghệ in 3D Công nghệ sinh học - Công nghệ gien (Genetic Engineering) - Công nghệ thần kinh (Neurotechnology) Nguồn: Li Guoping et all, 2017 ĐINH THỊ THANH LONG Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 53 khắc phục được điểm yếu này. Ngoài các lĩnh vực kể trên, phải kể tới các sáng kiến liên quan tới giao diện. Trên quy mô toàn cầu, giao diện giúp xây dựng nền kinh tế hoạt động đáp ứng theo nhu cầu (ví dụ như nền kinh tế chia sẻ). Giao diện đã ngay lập lức làm giảm chi phí giao dịch khi cá nhân và tổ chức chia sẻ quyền sử dụng một tài sản hoặc cung cấp chung dịch vụ. Các giao diện tạo ra các cách thức mới tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ, chỉ cần có điện thoại thông minh. Cũng có nhiều thay đổi xảy ra với các nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ, Uber, công ty vận chuyển lớn nhất thế giới không sở hữu một phương tiện nào; Facebook, chủ sở hữu trang báo lớn nhất thế giới không cung cấp một nội dung cụ thể nào; Alibaba, nhà bán lẻ lớn nhất thế giới, không hề có kho hàng. Các giao diện cũng cho phép cung cấp hàng loạt dịch vụ mới từ giặt là cho tới mua sắm, từ nhà cung cấp dịch vụ tại nhà hay giao hàng đường dài. Giao diện sẽ hoạt động như nhà môi giới thông tin khớp lệnh đặt mua từ phía người tiêu dùng và lệnh đặt bán từ phía nhà cung cấp với chi phí rẻ nhất, người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn và cho phép các bên tương tác, đưa ra đánh giá về sản phẩm. 2. Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính Thời đại công nghệ số đang dần dần thay đổi cấu trúc và hoạt động của khu vực tài chính, từ sự thay đổi chức năng của khu vực tài chính, công nghệ mới ứng dụng trong khu vực tài chính, sự ra đời của các định chế tài chính điện tử, sự ra đời của các sản phẩm tài chính điện tử, sự tương tác giữa các chủ thể trong khu vực tài chính. 2.1. Các thuật ngữ mới trong lĩnh vực tài chính Một số thuật ngữ mới đã xuất hiện và ngay lập tức được chấp nhận rộng rãi trong các hoạt động đang diễn ra hàng ngày của khu vực tài chính. Để hiểu rõ hơn những thay đổi trong hoạt động của khu vực tài chính, bài viết sẽ đề cập tới các thuật ngữ này. - Tài chính số (Digital Finance): Tài chính số mô tả quá trình số hóa trong khu vực tài chính nói chung và là nền tảng cho sự ra đời của các sản phẩm tài chính điện tử như thẻ tín dụng (credit), thẻ chip, trao đổi dữ liệu điện tử (electronic trading system), dịch vụ ngân hàng tại nhà (home banking), các dịch vụ giao dịch tại nhà khác (home trading services), máy rút tiền tự động (automated teller machines) Hơn nữa, tài chính số còn giúp người sử dụng tiếp cận dịch vụ ngân hàng ở những vùng chưa có sự hiện diện thương mại của các định chế tài chính với sự hỗ trợ của điện thoại và các ứng dụng thông minh khác. Ở một số nước, người ta còn sử dụng dịch vụ thanh toán trước kèm theo dịch vụ Internet (Rizzo, 2014). - Công nghệ tài chính (Fintech): Thuật ngữ Fin Tech, Fin- tech, Fintech cho dù được viết khác nhau nhưng đều là từ ghép của hai từ “Tài chính/Financial”và “Công nghệ/Technology”, mô tả mối quan hệ giữa việc sử dụng các công nghệ ứng dụng Internet (như điện toán đám mây, điện thoại kết nối Internet) với các dịch vụ tài chính (như hoạt động cho vay và các dịch vụ thanh toán khác). Thông thường Fintech sẽ liên quan tới các sáng kiến hoặc khó khăn trong quá trình xử lý giao dịch tài chính thông qua mạng Internet. Fintech giúp các công ty có mô hình giao dịch linh hoạt hơn, an toàn hơn, hiệu quả hơn, Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201954 có nhiều cơ hội lựa chọn dịch vụ và nhà cung cấp hơn chứ không phải tập trung vào việc thiết kế ra các sản phẩm tài chính (Lee, 2015a). - E- finance (tài chính điện tử): Có nhiều định nghĩa về tài chính điện tử do các nhà kinh tế- tài chính tiếp cận khác nhau đối với thuật ngữ “electronic”; còn thuật ngữ “finance” thì đều được hiểu chung là các sản phẩm, dịch vụ và/ hoặc định chế tài chính trong khu vực tài chính. Thuật ngữ “electronic”, hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động giao tiếp và xử lý thông tin điện tử (Allen và các cộng sự, 2002). Còn Zask (2001) lại nhấn mạnh vai trò của Internet như là công nghệ điện tử, làm nền móng cho tài chính điện tử. Nhưng cũng cần phải lưu ý, nếu e- Finance được tiếp cận trong mối tương quan với Internet thì người ta sẽ tập trung tiêu chuẩn hóa các sản phẩm tài chính. Còn ngược lại, người ta sẽ tập trung vào năng lực cạnh tranh và sự hợp tác giữa các định chế tài chính khi nhìn nhận từ giác độ các định chế. Do thuật ngữ “Digital Finance” và “e- Finance” thường xuyên được sử dụng trong đời sống hàng ngày nên nó có thể được hiểu với nghĩa tương tự như nhau. Về cơ bản, “Digital Finance”, “Fin tech” và “e- Finance” đều mô tả quá trình vận động trong khu vực tài chính thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin và giao dịch. 2.2. Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính Tác động của CMCN 4.0 nói chung và công nghệ kỹ thuật số nói riêng tới hoạt động của khu vực tài chính được nhìn nhận là sự tác động trong một tổng thể gọi là “Không gian tài chính số/Digital Finance Cube” (Hình 1). Đây được hiểu như là một tổ hợp không gian ba chiều: (i) chức năng của Digital Finance; (ii) các Hình 1. Không gian tài chính số Nguồn: Gomber, 2017 ĐINH THỊ THANH LONG Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 55 công nghệ có liên quan; (iii) các định chế tài chính cung cấp giải pháp tài chính. 2.2.1. Tác động của công nghệ số tới các chức năng của khu vực tài chính Quá trình số hóa khu vực tài chính sẽ ảnh hưởng tới các chức năng kinh doanh, với sự tương tác giữa trung gian tài chính và khách hàng (Business to Customer- B2C) và giữa các định chế tài chính với nhau (Business to Business- B2B) với sự ra đời của các dịch vụ tài chính mới như hoạt động tài trợ số, đầu tư số, tiền kỹ thuật số, thanh toán điện tử, bảo hiểm kỹ thuật số và dịch vụ đánh giá tài chính số. ○ Hoạt động tài trợ số (Digital Financing) Thuật ngữ “Digital Financing” (tạm dịch là giao dịch tài trợ số) là khác biệt với thuật ngữ “Digital Finance” (tài chính số). Theo truyền thống, ngân hàng sẽ là nhà cung cấp nguồn vốn tài trợ cho cá nhân và doanh nghiệp. Các nguồn tài trợ khác có thể có từ hoạt động liên doanh, các chương trình tài trợ của Chính phủ cho các công ty hoặc các hoạt động khởi nghiệp (Klohn và Hornuf, 2012). Digital Financing cho phép các cá nhân, doanh nghiệp và hoạt động khởi nghiệp tiếp cận nguồn vốn hiện có sẵn trên thị trường hoàn toàn độc lập so với các phương thức truyền thống bằng cách sử dụng Internet. Các giao diện vốn hóa dịch vụ Digital Financing được chào mời ở hoạt động bao thanh toán (Factoring), chiết khấu hóa đơn (Invoicing), cho thuê (Leasing) và hoạt động tài trợ sáng kiến (Crowdfunding)1. Điểm nhấn của hoạt động tài trợ số là hai loại hình chiết khấu hóa đơn và tài trợ 1 Crowdfunding là một giao diện, một website được tạo ra cho các chiến dịch quyên góp tiền để hỗ trợ các sáng kiến sáng kiến. Ngày càng nhiều công ty sử dụng hóa đơn điện tử để trao đổi dữ liệu nhanh hơn do quá trình xử lý hóa đơn tự động, do đó rút ngắn thời gian thanh toán hóa đơn. Một ưu việt nữa là người bán có thể được tài trợ bằng hóa đơn điện tử. Ví dụ, từ năm 2011, MarketInvoice, một công ty mới khởi nghiệp tại Anh, điều hành chợ giao dịch điện tử, hỗ trợ các công ty nhỏ bán các hóa đơn chưa thanh toán cho nhà đầu tư với giá chiết khấu. Người bán có thể thu tiền sớm hơn và người mua thu được chênh lệch giữa giá bán và trị giá hóa đơn. Crowdfunding là một giao diện, một website được tạo ra cho các chiến dịch quyên góp tiền để hỗ trợ các sáng kiến. Đây là nguồn tài trợ (funding) từ phía đám đông (crowd). Nguồn tài trợ có thể là nguồn quyên góp (donation), nguồn tiền đầu tư để đổi lấy sản phẩm trong tương lai, hay đơn giản chỉ là giải thưởng (reward). Nguồn tiền hỗ trợ sáng kiến được kêu gọi qua mạng Internet và mang lại lợi ích cho cả người khởi tạo sáng kiến và người sẵn sàng chi tiền đầu tư. Nhà đầu tư có thể chỉ phải chi một khoản tiền nhỏ cho sáng kiến, nhưng với sự tham gia của đám đông sẽ tạo thành khoản tiền lớn. Do vậy giúp nhà đầu tư san sẻ bớt rủi ro nếu như sáng kiến đó không thành công. ○ Hoạt động đầu tư số (Digital Invest- ment) Hoạt động đầu tư số hỗ trợ cá nhân và doanh nghiệp ra quyết định và thực hiện giao dịch đầu tư thông qua cách sử dụng thiết bị và công nghệ tương ứng. Hoạt động đầu tư số có thể là giao dịch qua mạng điện thoại (Mobile trading), giao dịch qua mạng xã hội (Social trading) và môi giới trực tuyến (Online brokers). Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201956 Chúng ta cũng đã khá quen thuộc với việc giao dịch qua mạng điện thoại (Mobile trading) để thực hiện lệnh đặt mua và đặt bán chứng khoán hoặc các giao dịch thanh toán khác. Giao dịch qua mạng xã hội cho phép nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán trên các giao diện mạng xã hội và chiến lược đầu tư được kết nối Internet. Ngoài các sản phẩm truyền thống ở các sở giao dịch, giao diện mạng xã hội cũng mời chào sản phẩm giao dịch qua quầy như ngoại hối và các loại hàng hóa khác (Doering và các cộng sự, 2015). Sự phát triển của giao dịch trên mạng xã hội hứa hẹn kênh giao dịch thay thế ngân hàng và các nhà tư vấn đầu tư- vốn đã chịu thách thức về lòng tin sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Ngày càng nhiều nhà đầu tư cá nhân tìm kiếm thông tin về đối tượng đầu tư và càng nhiều công ty truyền thông hay cung ... ng vai trò như nhà môi giới truyền thống nhưng có thể hoạt động không kể thời gian và địa điểm với số lượng nhân viên điều hành ít đi, chi phí giao dịch cũng giảm. Các nhà đầu tư cá nhân cũng có cơ hội tiếp cận các công cụ và thông tin phân tích thị trường cho đến các phần mềm giao dịch chuyên dụng. ○ Tiền kỹ thuật số (Digital Money) Trong thế giới truyền thống, khi nói tới tiền ta thường hình dung dưới dạng giấy, xu và thẻ tín dụng do cơ quan quản lý tiền tệ của một quốc gia ban hành và kiểm soát tương ứng với nhu cầu của nền kinh tế. Ngày nay, các hình thái khác của tiền tệ (tiền kỹ thuật số- Digital money) ra đời và có tên gọi khác như tiền ảo (virtual currency), tiền điện tử (e- currency), tiền mã hóa (cyptocurrency). Tiền kỹ thuật số cũng thực hiện ba chức năng tương tự như tiền tệ và tồn tại ở dạng tiền số (digital). Ví dụ điển hình nhất của tiền kỹ thuật số là Bitcoin. Theo NHTW Châu Âu, “tiền ảo là tiền kỹ thuật số nhưng không do cơ quan quản lý tiền tệ kiểm soát, mà tiền ảo được phân phối và kiểm soát bởi người sáng lập ra nó”. Cũng cần phải phân biệt giữa tiền điện tử và thanh toán điện tử (Digital Payments). Thanh toán điện tử là hoạt động thanh toán điện tử sử dụng tiền theo nghĩa truyền thống, tức là tiền được kiểm soát bởi NHTW các nước. ○ Hoạt động thanh toán điện tử (Digital Payments) Thanh toán điện tử được Hartmann (2006) định nghĩa là “mọi hoạt động thanh toán được khởi tạo, xử lý và thu chi qua giao dịch điện tử”. Dịch vụ ngân hàng online là loại hình thanh toán điện tử, xử lý các giao dịch qua tài khoản giữa khách hàng và nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Dịch vụ thanh toán qua điện thoại cũng được coi là một bộ phận của thanh toán điện tử. Ngoài ra còn có các dịch vụ thanh toán ngang hàng (Peer-to-peer payments), thanh toán giữa cá nhân với cá nhân (person-to-person payments), private-to- private, hay P2P payment giữa các cá nhân với nhau. Đại diện cho loại hình thanh toán này là Paypal dùng để thực hiện và thanh toán trên trang mua sắm eBay. Trong loại hình thanh toán điện tử phải kể ĐINH THỊ THANH LONG Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 57 đến ví điện tử (e- wallet), một công cụ lưu trữ điện tử thực hiện chức năng như một chiếc ví bình thường như lưu trữ thông tin cá nhân (chứng minh thư, bằng lái xe..); thực hiện thanh toán bằng tiền mặt hoặc thẻ tín dụng; và lưu trữ bằng chứng mua hàng ưu đãi như phiếu quà tặng (vouchers), vé ô tô buýt Ví điện tử chỉ đòi hỏi được kết nối với điện thoại thông minh để thực hiện chức năng của một chiếc ví thông thường. ○ Giao dịch bảo hiểm điện tử (Digital Insurance) Arumugam and Cusick (2008) đã đề cập tới loại hình bảo hiểm điện tử. Nó được diễn ra dưới dạng các thành viên trong gia đình, bạn bè, những người thân, thậm chí là những người được kết nối thông qua giao diện bảo hiểm điện tử. Những người tham gia sẽ thỏa thuận đóng góp một số tiền thành một quỹ và sau đó thỏa thuận chia quỹ thành 2 phần. Một phần được duy trì như là một khoản tiền bảo hiểm cho các thành viên tham gia. Một phần sẽ là phần mua bảo hiểm tại công ty bảo hiểm. Trong những tình huống nghiêm trọng thì người tham gia bảo hiểm sẽ được nhận tiền bồi thường từ công ty bảo hiểm. Ngược lại, khoản tiền bảo hiểm duy trì trên tài khoản của các thành viên vẫn tiếp tục duy trì cho năm sau mà không phải đóng góp. Loại hình bảo hiểm điện tử sẽ giúp loại trừ hiện tượng thông tin bất cân xứng do người mua bảo hiểm cung cấp. Đồng thời người mua bảo hiểm vẫn giữ được tiền nếu như không có sự kiện gì xảy ra. Và công ty bảo hiểm cũng không phải mất chi phí quản lý cho khoản phí bảo hiểm tương đối nhỏ. ○ Dịch vụ đánh giá tài chính số (Digital Financial Advice) Rất nhiều nhà cung cấp mở website riêng để quảng cáo cho sản phẩm dịch vụ của mình và cho phép người sử dụng đánh giá, chấm điểm, xếp hạng, bình luận về sản phẩm của nhà cung cấp cũng như so sánh với các sản phẩm tương tự của các nhà cung cấp khác. Đây thực sự là kênh tư vấn tốt cho khách hàng tiềm năng. Bởi vì khách hàng khó có khả năng đánh giá chất lượng sản phẩm của một công ty cho đến khi phải sử dụng hết tất cả sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất khác. Điều này mất nhiều thời gian và chi phí. Do đó, trước khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ mới, khách hàng thường tham khảo những đánh giá của những người sử dụng trước đó làm căn cứ lựa chọn sản phẩm. Trong hoạt động đầu tư thì lại có các website riêng như cộng đồng kinh doanh, cộng đồng chứng khoán, cộng đồng đầu tư với nỗ lực chia sẻ thông tin về doanh nghiệp, chứng khoán, hàng hóa mình đang và sẽ quan tâm. 2.2.2. Tác động tới công nghệ tài chính kỹ thuật số Công nghệ tài chính kỹ thuật số cho phép khu vực tài chính thay đổi các chức năng theo hướng số hóa. Chúng ta có thể kể đến công nghệ cho phép truyền tải dữ liệu một cách an toàn dựa vào hệ thống mã hoá vô cùng phức tạp (blockchain), mạng xã hội (social network), công nghệ giao tiếp tầm ngắn (near field communication- NFC), phân tích dữ liệu lớn và công nghệ bảo mật. Blockchain là một công nghệ cho phép truyền tải dữ liệu một cách an toàn dựa vào hệ thống mã hoá vô cùng phức tạp, tương tự cuốn sổ cái kế toán của một công ty, dùng để giám sát dòng tiền. Có Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201958 thể hiểu Blockchain là một cuốn sổ cái kế toán hoạt động trong lĩnh vực kỹ thuật số. Hệ thống mã hóa vô cùng phức tạp ban đầu (Blockchain 1.0) dùng cho các giao dịch tiền kỹ thuật số như chuyển đổi tiền tệ, chuyển kiều hối và tạo lập hệ thống thanh toán kỹ thuật số. Thế hệ blockchain 2.0 được ứng dụng vào hoạt động của thị trường tài chính- tiền tệ như ký kết hợp đồng (contracting), kêu gọi dòng tiền đầu tư cho sáng kiến (crowdfunding) và ví điện tử (e- wallet). Blockchain 3.0 liên quan tới thiết kế và giám sát, vượt ra khỏi hoạt động tài chính, đi vào các hoạt động như y tế, giáo dục, văn hóa và nghệ thuật (Swan, 2015). Mạng xã hội cho phép con người cung cấp thông tin cá nhân, bày tỏ ý kiến, kinh nghiệm hoặc đề xuất thảo luận về một chủ đề cụ thể. Công nghệ giao tiếp tầm ngắn (NFC) được hỗ trợ bởi mạng không dây tầm ngắn kết nối với nhau, dựa trên nguyên lý nhận dạng sóng radio. Trong phạm vi ngắn, khi hai thiết bị trên điện thoại được nhận dạng, hoạt động thanh toán diễn ra và tiền được chuyển từ tài khoản của người tiêu dùng hàng hóa/dịch vụ sang tài khoản của nhà cung cấp. Hiện diễn đàn NFC có 140 thành viên trong đó bao gồm rất nhiều thương hiệu lớn như LG, Nokia, HTC, Motorola, RIM, Samsung, Sony Ericsson, Google, Microsoft, PayPal, Visa, Mastercard, American Express, Intel, Qualcomm... Hoạt động thanh toán bằng điện thoại di động đã được ứng dụng khoảng 10 năm ở Nhật Bản. Hệ thống thanh toán ngang hàng (Peer to peer system) cho phép bất kỳ một chủ thể nào trong hệ thống sử dụng dịch vụ mạng mà không bị hiện tượng quá tải hoặc tắc nghẽn mạng. Còn các công cụ phân tích dữ liệu lớn sẽ thực hiện phân tích dữ liệu dựa trên các mô hình, thực hiện truyền tải dữ liệu và tính toán. Ngoài ra còn hàng loạt các thiết bị điện thoại kết nối Internet, trí tuệ nhân tạo, công nghệ bảo mật cũng sẽ hỗ trợ quá trình số hóa. 2.2.3. Tác động tới các định chế tài chính Đối tượng chịu ảnh hưởng thứ ba trong mô hình là các định chế tài chính. Quá trình số hóa cho ra đời các công ty Fintech, và cũng đòi hỏi bản thân các định chế tài chính phải áp dụng công nghệ tài chính vào hoạt động của chính mình. Công ty Fintech ban đầu chỉ là công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ, nhưng dần dần chuyển sang lĩnh vực tài chính và coi đó như là một thị trường mục tiêu. Căn cứ vào quy định cụ thể mà các nước có coi Fintech như là định chế tài chính hay không. Bởi theo nghĩa truyền thống, định chế tài chính là công ty quản lý tài sản, ngân hàng, công ty bảo hiểm và nhà môi giới. Các chủ thể này nếu tiến hành số hóa hoạt động tài chính thì vẫn được xếp vào định chế tài chính. Do đó một số nước đều liệt kê trong luật các loại hình định chế tài chính, trong đó có hoặc không có công ty Fintech. Quan điểm ủng hộ thì cho rằng công ty Fintech có lợi hơn các định chế tài chính truyền thống ở các điểm mạnh là tính linh hoạt, tính hiệu quả, tính bảo mật và tạo cơ hội cho khách hàng so sánh dịch vụ tài chính sử dụng do các công ty Fintech và các định chế tài chính truyền thống cung cấp. Nhưng quan điểm phản đối thì cần giám sát chặt chẽ hoạt động của các công ty và quá trình tạo tiền số, nhất là sau sự kiện Bitcoin thay đổi giá trị bất thường trong giai đoạn hiện nay. 3. Kết luận và một số khuyến nghị cho Việt Nam ĐINH THỊ THANH LONG Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 59 Sự vận động luôn diễn ra trong nền kinh tế nói chung và khu vực tài chính nói riêng. Công nghệ số đã làm thay đổi hoạt động của khu vực tài chính từ chức năng, công nghệ tài chính, định chế tài chính. Không thể phủ nhận những sáng tạo do công nghệ mang lại cho công chúng trong lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát ảnh hưởng của công nghệ kỹ thuật số tới hoạt động tài chính và sự ra đời của các định chế tài chính mới cũng như việc quản lý tiền kỹ thuật số đã đặt ra nhiều thách thức cho cơ quan quản lý tiền tệ và các nhà nghiên cứu. Thứ nhất, sự ra đời của tiền kỹ thuật số sẽ ảnh hưởng tới chức năng quản lý tiền tệ của NHTW. Tiền kỹ thuật số được chấp nhận rộng rãi trong lưu thông và trong hoạt động ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới cơ chế nhận tiền tiết kiệm và tiếp cận tín dụng của ngân hàng. Thứ hai, hoạt động thanh toán điện tử không qua ngân hàng sẽ trở thành đối thủ đáng gờm với dịch vụ thanh toán bù trừ liên ngân hàng với cơ sở hạ tầng được xây dựng hàng trăm năm. Vai trò truyền thống của các định chế tài chính cung cấp dịch vụ bán lẻ giờ đây cũng phải chuyển đổi thành hệ thống thanh toán có giá trị cao. Và cũng khó khăn với NHTW theo dõi, quản lý, giám sát dòng tiền khi thanh toán cổ phiếu, trái phiếu, công cụ tài chính phái sinh và các giấy tờ có giá bằng các mạng xã hội. Thứ ba, NHTW sẽ phải tiếp tục quản lý dòng tiền và sự phát triển của tiền kỹ thuật số cũng như ảnh hưởng của tiền kỹ thuật số tới sự ổn định của khu vực tài chính dưới hai giác độ. Một là triển vọng phát triển tiền kỹ thuật số và rủi ro đi kèm với tiền kỹ thuật số khi nền kinh tế sử dụng, giao dịch. Và NHTW cũng nhìn nhận việc Tài liệu tham khảo 1. Ayondo markets Ltd (2016) Social trading: innovative network trading. https://www.ayondo.com/en/ial-trading/. Accessed 8 Feb 2016 2. Allen F, McAndrews J, Strahan P (2002) E-Finance: an introduction. J Financ Serv Res 22(1):5–27. 3. Arumugam M, Cusick K (2008) General insurance 2020: insurance for the individual. 4. Banks E (2001) e-Finance: the electronic revolution, 1st edn. Wiley, Chichester. 5. Doering P, Neumann S, Paul S (2015) A primer on social trading networks, institutional aspects and empirical evidence. Working paper 5th May, 2015. 6. Gomber P, Arndt B, Lutat M, Uhle T (2011) High-frequency trading. SSRN J. 7. Hartmann ME (2006) E-Payments Evolution. In: Lammer T (ed) Handbuch E-Money, E-Payment & M-Payment. Physica-Verlag, Heidelberg 8. Hemmadi M (2015) FinTech is both friend and FOE. Can Bus 88(6):10–11. 9. Koch J, Siering M (2015) Crowdfunding success factors: the characteristics of successfully funded projects on crowdfunding platforms. In: Proceedings of the 10. twenty-third European conference on information systems (ECIS 2015), Mu¨nster, Germany. 11. Lee P (2015a) The fintech entrepreneurs aiming to reinvent finance. Euromoney (UK) 46(552):42–48 12. Lee S (2015b) Fintech and Korea’s financial investment industry. KCMI—Capital Market Opinion 13. Li Grouping et al, 2017, Fourth Industrial Revolution: Technological Drivers, Impacts and Coping Methods, China Geographical Science Vol. 27 No. 4 pp. 626–637 14. Rizzo M (2014) Digital Finance: empowering the poor via new technologies. feature/2014/04/10/digital-finance-empowering-poor-new-technologies. Accessed 1 Feb 2016. 15. Swan M (2015) Blockchain: blueprint for a new economy, 1st edn. O’Reilly, Sebastopol. 16. Xu T (2015) Financial disintermediation and entrepreneurial learning: evidence from the crowdfunding market. Annual Meeting of the European Zask E (ed) (2001) The E-finance report. McGraw-Hill, New York. 17. Zhang Z, Teo HH (2014) The impact of mobile trading technology on individual investors’ trading behaviors: the ‘‘Two-Edged Sword’’ effect. In: Proceedings of the twenty second European conference on information systems (ECIS 2014), Tel Aviv, Isreal. xem tiếp trang 71 LÊ HÀ TRANG Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 71 hiệu quả trong thu hút FDI, chi phí ngân sách và các chi phí khác liên quan đến ưu đãi thuế nhìn chung còn tương đối cao. Từ thực trạng này, bài viết đưa ra một số kiến nghị chính sách để cải cách công cụ ưu đãi thuế tại Việt Nam, đồng thời xác định các cân nhắc và chiến lược liên quan để hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế thu hút FDI thế hệ mới trong tương lai ■ tiếp theo trang 70 kiểm soát tiền kỹ thuật số như là một sự đổi mới trong hoạt động của hệ thống tài chính. Nhưng hiện nay, theo Thống đốc NHTW Áo Ewald Nowotny2, Bitcoin đã tỏ ra là đồng tiền không ổn định và dễ tổn thương trước hoạt động đầu cơ nên khó có thể chấp nhận như là phương tiện thanh toán chính thức NHTW các nước trên thế giới cũng đang đề cập nhiều phương án phân loại, giám sát tiền ảo khi mà doanh số giao dịch đồng tiền này hàng ngày đã lên tới mức 3.000 tỷ USD (Ayondo, 2016). Tóm lại, trong những năm gần đây, khu vực tài chính đã dần làm quen với sự xuất hiện của yếu tố công nghệ số làm thay đổi hoạt động của khu vực tài chính. Câu hỏi “liệu công nghệ số mang lại nhiều phát minh, đổi mới hay thách thức cho khu vực tài chính” cho đến nay chưa có lời đáp bởi cần có thời gian để chứng minh. Tuy nhiên, công nghệ số thực sự là cuộc cách mạng trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế. ■ 2 https://www.reuters.com/article/us-eurozone-ecb-bit- coin-idUSKBN1A40GE?il=0 tiếp theo trang 59 thời, đặc biệt là những thông tin về pháp lý của KH và nhóm KH liên quan. 4. Kết luận Để nâng cao năng lực hoạt động và quản trị rủi ro trong bối cảnh hội nhập, tiến gần hơn với các chuẩn mực an toàn quốc tế, và đặc biệt là để đảm bảo an toàn đối với nguồn vốn cấp tín dụng, các NHTM Việt Nam cần xây dựng và triển khai hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tín dụng nói chung và nhóm KH nói riêng. Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả đã tổng hợp một số tình huống rủi ro tín dụng điển hình với nhóm KH cũng như phân tích thực trạng công tác cảnh báo sớm rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam, từ đó đưa ra những bài học và khuyến nghị làm cơ sở cho các tiếp theo trang 32
File đính kèm:
- tac_dong_cua_cong_nghe_so_toi_hoat_dong_cua_khu_vuc_tai_chin.pdf