Tài chính vi mô của ngân hàng chính sách xã hội với chương trình giảm nghèo bền vững tại Việt Nam

TÓM TẮT

Trong những thập kỷ gần đây, hoạt động

tài ch́nh vi mô trên thế gíi đang phát trỉn

nhanh chóng, góp phần mang đến thành công

trong cuộc chiến xóa đói nghèo. Tại Việt Nam,

thực hiện Chiến lược quốc gia về xóa đói giảm

nghèo, Ngân hàng Ch́nh sách xã hội (Vietnam

Bank for Social Policies - VBSP) được thành

lập năm 2002 v́i mục đ́ch đ̉ thực hiện ch́nh

sách t́n dụng ưu đãi đối v́i ngừi nghèo. Bằng

khoản vay t́n dụng nh̉, điều kiện tiếp cận phù

hợp, VBSP đã giúp hàng triệu hộ nghèo được

tiếp cận các khoản vay, qua đó, nhiều ngừi

đã thoát kh̉i đói nghèo và nâng cao thu nhập.

Tuy nhiên do không v̀ mục đ́ch lợi nhuận nên

VBSP rất khó khăn trong việc huy động tiền gửi,

chưa thu hút được khoản tiết kiệm nh̉ từ ngừi

nghèo như các mô h̀nh tài ch́nh vi mô cho

ngừi nghèo thành công trên thế gíi. Bài viết

sẽ đánh giá những thành công và những hạn chế

c̉a VBSP trong hoạt động tài ch́nh vi mô nhằm

thực hiện ch́nh sách xoá đói nghèo bền vững tại

Việt Nam, qua đó, đề xuất một số hàm ý ch́nh

sách cho quá tr̀nh phát trỉn VBSP.

pdf 6 trang yennguyen 4980
Bạn đang xem tài liệu "Tài chính vi mô của ngân hàng chính sách xã hội với chương trình giảm nghèo bền vững tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài chính vi mô của ngân hàng chính sách xã hội với chương trình giảm nghèo bền vững tại Việt Nam

Tài chính vi mô của ngân hàng chính sách xã hội với chương trình giảm nghèo bền vững tại Việt Nam
44
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÀI CHÍNH VI MÔ CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI 
VỚI CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TẠI VIỆT NAM
MICROFINANCE OF VIETNAM BANK FOR SOCIAL POLICIES TO 
SUSTAINABLE POVERTY REDUCTION PROGRAMMES IN VIETNAM
Nguyễn Thế Bính(*), Phạm Anh Thủy(**)
(*) TS, Trường đại học Ngân hàng TP.HCM, 36 Tôn hất Đạm, Q.1, TP.Hồ Chí Minh - ĐT: 0989959497 
– Email: ntbinh05@gmail.com.
(**) TS, Trường đại học Ngân hàng TP.HCM, 36 Tôn hất Đạm, Q.1, TP.HCM.
TÓM TẮT
Trong những thập kỷ gần đây, hoạt động 
tài ch́nh vi mô trên thế gíi đang phát trỉn 
nhanh chóng, góp phần mang đến thành công 
trong cuộc chiến xóa đói nghèo. Tại Việt Nam, 
thực hiện Chiến lược quốc gia về xóa đói giảm 
nghèo, Ngân hàng Ch́nh sách xã hội (Vietnam 
Bank for Social Policies - VBSP) được thành 
lập nĕm 2002 v́i mục đ́ch đ̉ thực hiện ch́nh 
sách t́n dụng ưu đãi đối v́i ngừi nghèo. Bằng 
khoản vay t́n dụng nh̉, điều kiện tiếp cận phù 
hợp, VBSP đã giúp hàng triệu hộ nghèo được 
tiếp cận các khoản vay, qua đó, nhiều ngừi 
đã thoát kh̉i đói nghèo và nâng cao thu nhập. 
Tuy nhiên do không v̀ mục đ́ch lợi nhuận nên 
VBSP rất khó khĕn trong việc huy động tiền gửi, 
chưa thu hút được khoản tiết kiệm nh̉ từ ngừi 
nghèo như các mô h̀nh tài ch́nh vi mô cho 
ngừi nghèo thành công trên thế gíi. Bài viết 
sẽ đánh giá những thành công và những hạn chế 
c̉a VBSP trong hoạt động tài ch́nh vi mô nhằm 
thực hiện ch́nh sách xoá đói nghèo bền vững tại 
Việt Nam, qua đó, đề xuất một số hàm ý ch́nh 
sách cho quá tr̀nh phát trỉn VBSP.
Từ khoá: Tài chính vi mô; Ngân hàng 
chính sách xã hội; Giảm nghèo
ABSTRACT
In recent decades, microinance activities 
all over the world have been developing very 
fast and contributing to the success of hunger 
eradication and poverty reduction. In Vietnam, 
in order to implement National Strategy on 
hunger eradication and poverty reduction, 
Vietnam Bank for Social Policies – VBSP) was 
established in 2002 to perform preferential 
credit policies for the poor. With small credit 
loans and suitable approach, VBSP has helped 
millions of poor families to get access to loans, 
escape from poverty and increase their income. 
However, VBSP has a lot of dificulties in 
mobilizing deposits due to its non-proit aim and 
has yet to draw small savings from the poor like 
successful microinance models for the poor in 
the world. 
This article will evaluate VBSP’s successes 
and limitations in microinance activities to 
implement sustainable policies on hunger 
eradication and poverty reduction in Vietnam and 
propose a number of policies for VBSP’s growth. 
Key words: Vietnam Bank for Social 
Policies; Microinance; Poverty Reduction
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài chính vi mô (TCVM) đóng vai trò hết sức 
quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, 
đặc biệt trong công cuộc giảm nghèo đói tại các 
quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Sự phát 
triển mạnh mẽ của TCVM về phạm vi tiếp cận và 
các dịch vụ cung ứng, đặc biệt là các dịch vụ về tín 
dụng trong những nĕm qua đã đáp ứng được phần 
lớn nhu cầu vốn cho công cuộc giảm nghèo. 
Vai trò của TCVM đối với giảm nghèo cũng 
45
Tài chính vi mô của ngân hàng . . .
được khẳng định thông qua các nghiên cứu lý 
thuyết (Legerwood, 1999; ADB, 2000; Morduch 
and Haley, 2002; Khandker, 2003). Tầm quan 
trọng của tài chính vi mô đã được khẳng định trong 
thực tế thông qua giải thưởng Nobel Hòa bình nĕm 
2006 đã được trao cho Giáo sư Mohamet Yunus - 
người sáng lập ra Grameen Bank - ngân hàng vi 
mô dành cho người nghèo nổi tiếng tại Banglades.
Tại Việt Nam, trong suốt gần ba thập kỷ qua, 
TCVM đã và đang khẳng định được tầm quan 
trọng trong việc hỗ trợ người nghèo được tiếp cận 
các dịch vụ tài chính một cách thuận tiện và phù 
hợp. Trong các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính 
vi mô tại Việt Nam, Ngân hàng chính sách xã hội 
(NHCSXH) là tổ chức có quy mô và địa bàn hoạt 
động rộng khắp. Được thành lập nĕm 2002, là 
một tổ chức phi lợi nhuận tập trung vào trợ cấp 
“Cho vay theo chính sách xã hội” dành cho các hộ 
người nghèo. Với mức độ bao phủ 100% các xã 
trên toàn quốc, kể từ ngày thành lập, đã có trên 
23,4 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách 
khác được vay vốn ưu đãi, góp phần giúp 3,2 
triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo, góp phần giúp 
tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm từ 26% (nĕm 
2003) xuống còn khoảng 7,8% (nĕm 2014). Dù 
bối cảnh chung của nền kinh tế còn nhiều khó 
khĕn nhưng các chương trình cho người nghèo 
được vay vốn ưu đãi vẫn đang được NHCSXH 
tiếp tục hoàn thiện và tĕng cường để việc thoát 
nghèo của người dân thực sự bền vững.
Với cách tiếp cận về tài chính vi mô của 
Ngân hàng thế giới (World Bank – WB) trong 
xây dựng Chiến lược tổng thể để tĕng cường khả 
nĕng tiếp cận dịch vụ tài chính vi mô của người 
nghèo và người thu nhập thấp cho Việt Nam(1), 
các quy chuẩn xác định người nghèo và tiêu chí 
giảm nghèo được sử dụng tại các chương trình 
mục tiêu giảm nghèo của Việt Nam, nghiên cứu 
đánh giá những đóng góp của NHCSXH trong 
cung cấp tài chính vi mô góp phần giảm nghèo 
(1) Ngân hàng Thế gíi (2007), Việt Nam: Xây dựng 
Chiến lược tổng th̉ đ̉ tĕng cừng khả nĕng tiếp cận dịch 
vụ tài ch́nh vi mô [c̉a ngừi nghèo] - Tĕng cừng phạm 
vi, hiệu quả và t́nh bền vững 
tại Việt Nam cũng như gợi ý những chính sách 
nhằm thực hiện tốt hơn công tác này trong thời 
gian tới.
2. TÀI CHÍNH VI MÔ VÀ VẤN ĐỀ 
GIẢM NGHÈO ĐÓI TẠI VIỆT NAM
Tài chính vi mô bao gồm các dịch vụ tài 
chính gửi tiền, tín dụng, bảo hiểm, chuyển tiền 
 cho những hộ nghèo, có thu nhập thấp, và 
những doanh nghiệp của họ, trong đó, tín dụng 
vi mô là hình thức phổ biến nhất. Việc cấp tín 
dụng vi mô cho người nghèo, một hình thức tín 
dụng đã trở nên phổ biến từ những nĕm 1980 
theo kiểu một hệ thống tín dụng được cung cấp 
thông qua việc sử dụng các công cụ thay thế vật 
thế chấp để cấp và thu hồi những khoản vay vốn 
lưu động ngắn hạn cho những doanh nghiệp vi 
mô nghèo theo mô hình thành công của Ngân 
hàng Grameen tại Banglades mà cha đẻ của 
nó là GS. Mohamet Yunus, người được trao giải 
Nobel Hòa bình nĕm 2006. 
Tại Việt Nam có hàng trĕm tổ chức cung 
cấp dịch vụ tài chính vi mô thuộc ba khu vực: 
Khu vực chính thức (gồm, hệ thống quỹ tín dụng 
nhân dân, NHCSXH và Ngân hàng Nông nghiệp 
và phát triển nông thôn); khu vực bán chính thức 
(gồm, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài 
nước và chương trình của các tổ chức xã hội) 
và khu vực phi chính thức (các nhóm cho vay 
tương hỗ dưới hình thức phường, họ, hụi, thậm 
chí vay nặng lãi)(2). Tài chính vi mô cung cấp 
các dịch vụ tài chính đa dạng (cho vay, tiết kiệm, 
bảo hiểm, giáo dục tài chính cho khách hàng 
lập ngân sách và tiết kiệm, hỗ trợ tài chính kịp 
thời cho khách hàng gặp khó khĕn), giúp người 
nghèo hoạt động sản xuất kinh doanh, đa dạng 
các khoản thu nhập ngoài sản xuất nông nghiệp, 
như từ tiểu thủ công nghiệp, thương mại, kinh 
doanh doanh nhỏ. Đồng thời, góp phần giúp 
người nghèo tránh, giảm rủi ro về kinh tế và 
cuộc sống, từ đó, tĕng thu nhập hộ gia đình.
(2) Nhóm công tác Tài ch́nh vi mô (2013), Tài ch́nh vi 
mô - Quy định ch́nh sách cho Tài ch́nh vi mô tại Việt 
Nam, số 19
46
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Đa số người nghèo Việt Nam sống chủ yếu 
dựa vào nông nghiệp với nĕng suất lao động 
thấp, ít được tiếp cận với các dịch vụ tài chính và 
kiến thức. Tài chính vi mô có khả nĕng cung cấp 
các loại hình dịch vụ và sản phẩm tài chính cho 
cộng đồng người nghèo nhằm giúp họ cải thiện 
đời sống, phát triển kinh tế và đóng góp cho xã 
hội. Mặc dù, vốn vay của tài chính vi mô không 
lớn như ngân hàng thương mại hay ngân hàng 
chính sách nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan 
trọng. Bởi vì những khoản vay này đến được với 
người nghèo trong thời điểm cần thiết nhất, giúp 
họ khởi tạo sản xuất kinh doanh, tạo dựng tài sản, 
ổn định chỉ tiêu và bảo vệ họ khỏi nghèo đói.
Một khảo sát mới đây được Nhóm công 
tác Tài chính vi mô Việt Nam(3) tiến hành nhằm 
đánh giá mức độ bền vững của các tổ chức tài 
chính vi mô Việt Nam cho thấy, 90% đối tượng 
khảo sát bày tỏ sự hài lòng của mình khi vay 
vốn tại các tổ chức Tài chính vi mô vì sự thuận 
tiện và phù hợp với nhu cầu bản thân họ; 95,3% 
người được hỏi cho rằng, muốn được vay vốn 
từ tổ chức này. Những con số trên chứng tỏ nhu 
cầu vay vốn của nhiều dân nghèo từ các tổ chức 
tài chính vi mô là rất lớn.
Trong những nĕm qua, với với sự đóng góp 
của các dịch vụ tài chính vi mô, Việt Nam đã đạt 
được những thành tựu ấn tượng về giảm nghèo, 
cải thiện chất lượng cuộc sống người dân thông 
qua việc thực hiện đồng loạt các chương trình 
trọng điểm, duy trì mục tiêu quốc gia về xóa 
đói giảm nghèo Kết quả thực hiện các chỉ 
tiêu về giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2010 (áp 
dụng chuẩn nghèo cũ): Tỷ lệ hộ nghèo cả nước 
đã giảm từ 22% (nĕm 2005) xuống còn 18,1% 
(nĕm 2006); 14,75% (nĕm 2007); 12,1% (nĕm 
2008); 11,3% (nĕm 2009) và 9,45% (nĕm 2010). 
Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn 62 huyện nghèo giảm 
xuống còn 37%. Đối với giai đoạn 2010 - 2014 
(áp dụng chuẩn nghèo mới): Tỷ lệ hộ nghèo cả 
(3) Nhóm Công tác Tài ch́nh vi mô Việt Nam (MFWG) 
(2011), Tài ch́nh vi mô v́i giảm nghèo tại Việt Nam: 
Kỉm định và so sánh, NXB Thống kê;
nước đã giảm từ 14,2% (nĕm 2010) xuống còn 
11,76% (nĕm 2011) và 9,6% (nĕm 2012), nĕm 
2013 còn khoảng 7,6%-7,8%, nĕm 2014 còn 
khoảng 5,8%-6%(4). Đặc biệt, ngày 16/6/2013, 
tại Italia, Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc 
(FAO) đã tổ chức Sự kiện đặc biệt “Công nhận 
thành tích nổi bật trong đấu tranh xóa đói giảm 
nghèo” cho 38 quốc gia trên thế giới, trong đó 
có Việt Nam.
3. TÀI CHÍNH VI MÔ CHO NGƯỜI 
NGHÈO TẠI NHCSXH VIỆT NAM
Thực hiện chủ trương xây dựng chế độ tín 
dụng ưu đãi đối với hộ nghèo, hộ chính sách, 
vùng nghèo, vùng dân tộc thiểu số, thông qua 
việc mở rộng hình thức cho vay thông qua tín 
chấp, nĕm 1993 Chính phủ Việt Nam đã thành 
lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo với số vốn ban 
đầu là 400 tỷ đồng, do Ngân hàng Nông nghiệp 
và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại 
thương và Ngân hàng Nhà nước đóng góp. Quỹ 
được sử dụng cho vay hộ nghèo thiếu vốn sản 
xuất kinh doanh với lãi suất ưu đãi, mức cho 
vay 500.000 đồng/hộ, người vay không phải 
bảo đảm tiền vay. Sau hai nĕm thực hiện Quỹ 
cho vay ưu đãi hộ nghèo, ngày 31/8/1995, Thủ 
tướng Chính phủ ban hành Quyết định thành lập 
Ngân hàng Phục vụ người nghèo(5) (NHNNg), 
đặt trong Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển 
nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt Nam), 
hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, để cung 
cấp nguồn vốn ưu đãi cho hộ nghèo thiếu vốn 
sản xuất. Ngân hàng Phục vụ người nghèo thiết 
lập kênh tín dụng riêng để hỗ trợ tài chính cho 
các hộ nghèo ở Việt Nam với các chính sách tín 
dụng hợp lý, giúp hộ nghèo có vốn sản xuất, tạo 
(4) Ngân hàng thế gíi (2012), Báo cáo đánh giá nghèo 
Việt Nam nĕm 2012; Ban chỉ đạo Trung ương về giảm 
nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020 (2014), Báo cáo 
giảm nghèo nĕm 2014 và kế hoạch nĕm 2015.
(5) Quyết định số 525/QĐ-TTg, ngày 31/8/1995 c̉a Th̉ 
tứng Ch́nh ph̉ về việc thành lập Ngân hàng Phục vụ 
ngừi nghèo
47
Tài chính vi mô của ngân hàng . . .
công ĕn việc làm, tĕng thu nhập và có điều kiện 
thoát khỏi đói nghèo. Nĕm 2002, thực hiện cơ 
cấu lại hệ thống ngân hàng, từng bước tách tín 
dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, 
đồng thời cĕn cứ vào chính sách đối với người 
nghèo và các đối tượng chính sách khác, Chính 
phủ đã ban hành Quyết thành lập NHCSXH(6) 
trên cơ sở tổ chức lại NHNg nhằm tập trung các 
nguồn vốn ngân sách tài trợ cho người nghèo và 
các đối tượng chính sách khác, cụ thể là cho vay 
hộ nghèo, tạo việc làm, cho vay HSSV có hoàn 
cảnh khó khĕn  NHCSXH được thành lập để 
thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với 
người nghèo và các đối tượng chính sách khác. 
Hoạt động của NHCSXH không vì mục đích lợi 
nhuận, được Nhà nước bảo đảm khả nĕng thanh 
toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần 
trĕm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, 
được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân 
sách Nhà nước. NHCSXH là một trong những 
công cụ đòn bẩy kinh tế của Nhà nước nhằm 
giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo và đối tượng chính 
sách có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi 
để phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu 
nhập, cải thiện điều kiện sống, vươn lên thoát 
nghèo, góp phần thực hiện chính sách phát triển 
kinh tế gắn liền với xóa đói, giảm nghèo, bảo 
đảm an sinh xã hội. 
Sau hơn 12 nĕm hoạt động, NHCSXH 
với tổng nguồn vốn đạt trên 141.000 tỷ đồng, 
tổng dư nợ đạt trên 136.000 tỷ đồng. Nợ quá 
hạn chiếm tỷ lệ 0,42%/tổng dư nợ. Vốn chính 
sách đã góp phần giúp hơn 3,6 triệu hộ vượt qua 
ngưỡng nghèo, thu hút tạo việc làm cho trên 
11,8 triệu lao động, trong đó trên 104 nghìn lao 
động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, xây 
dựng được 6,6 triệu công trình nước sách, vệ 
sinh môi trường nông thôn, hỗ trợ 3,3 triệu học 
sinh sinh viên (HSSV) có hoàn cảnh khó khĕn 
(6) Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg, ngày 04/10/2002 
c̉a Th̉ tứng Ch́nh ph̉ về việc thành lập NHCSXH
được vay vốn học tập, xây dựng được 484 nghìn 
cĕn nhà cho hộ nghèo và các hộ gia đình chính 
sách, 700 chòi tránh lũ, trên 102 nghìn ngôi nhà 
vượt lũ cho hộ gia đình vùng đồng bằng Sông 
Cửu Long(7)
Về tín dụng vi mô cho người nghèo, tổng 
dư nợ của NHCSXH tính đến 30/6/2014 đạt 
126.666 tỷ đồng, gấp trên 18 lần so với thời 
điểm thành lập (nĕm 2002), tốc độ tĕng trưởng 
bình quân hàng nĕm đạt 29,4%. Hiện có gần 7 
triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng 
chính sách khác còn dư nợ, tĕng hơn 4 triệu 
khách hàng so với thời điểm thành lập với dư nợ 
bình quân hơn 18 triệu đồng/khách hàng (tĕng 
hơn 15 triệu đồng/khách hàng). Dư nợ cho vay 
hộ nghèo và các đối tượng chính sách tại các 
huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-
CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ là 9.796 
tỷ đồng với hơn 422 nghìn khách hàng còn dư 
nợ. Với mức độ bao phủ 100% các xã trên toàn 
quốc, kể từ ngày thành lập, đã có trên 23,4 triệu 
lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách khác 
được vay vốn ưu đãi, góp phần giúp 3,2 triệu 
hộ vượt qua ngưỡng nghèo, góp phần giúp tỷ lệ 
hộ nghèo ở Việt Nam giảm từ 26% (nĕm 2003) 
xuống còn khoảng 7,8% (nĕm 2014); thu hút, 
tạo việc làm cho trên 10 triệu lao động, trong đó 
trên 102 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn 
ở nước ngoài; giúp 3.236 nghìn học sinh sinh 
viên được vay vốn học tập...(8). 
Mặc dù vậy nhu cầu về tài chính vi mô hiện 
nay còn chưa được đáp ứng, thống kê cũng cho 
thấy, dù được Nhà nước hỗ trợ về nguồn lực tài 
chính song NHCSXH cũng chỉ giúp được khoảng 
50% số hộ nghèo tiếp cận tài chính vi mô. Trong 
khi đó, hoạt động của nhóm bán chính thức còn 
manh mún, dàn trải... Một vấn đề đặt ra hiện nay 
(7) Ngân hàng ch́nh sách xã hội Việt Nam, Báo cáo 
thừng niên 2009 - 2013
(8) Ngân hàng ch́nh sách xã hội Việt Nam, Báo cáo 
thừng niên 2009 - 2013
48
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đối với NHCSXH là theo cơ chế hoạt động, suốt 
những nĕm qua, ngân hàng đều nhận được sự trợ 
cấp của nhà nước. Mặt khác, người nghèo vay 
vốn tại ngân hàng cũng được vay với lãi suất 
thấp, dao động từ 0 - 10,8%/nĕm, thấp hơn cả lãi 
suất tiền gửi tại các NHTM, do vậy, NHCSXH 
rất khó khĕn trong việc huy động tiền gửi. Bên 
cạnh đó, cho vay người nghèo vẫn là hoạt động 
TCVM giúp giảm nghèo đói mà NHCSXH đang 
triển khai mà chưa tập trung nhiều đến tiết kiệm 
vi mô của người nghèo.
4. MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Đối với NHCSXH. Để thực hiện thành công 
Chiến lược giảm nghèo, NHCSXH cần tận dụng 
tối đa sức mạnh của hệ thống toàn quốc và sự 
gắn kết với các cơ quan đoàn thể. Mục tiêu hoạt 
động của NHCSXH trong thời gian tới là: nâng 
cao hiệu quả hoạt động của NHCSXH hướng 
tới bền vững về hoạt động và tài chính, giảm 
sự phụ thuộc vào nguồn vốn của Chính phủ cho 
hoạt động. 
Do vậy, giải pháp ngắn hạn của NHCSXH 
tập trung vào các vấn đề như: Cải tiến và đơn 
giản hóa các sản phẩm tín dụng, hướng tới mục 
tiêu thu hồi vốn nhanh hơn; áp dụng chính sách 
định giá tín dụng hợp lý, đảm bảo đủ bù đắp 
chi phí, mở rộng và trang trải các chi phí thanh 
khoản, các khoản lỗ tín dụng dự kiến; hoàn thiện 
việc cung cấp các sản phẩm khác, đặc biệt các 
sản phẩm huy động tiết kiệm nhằm xử lý vấn 
đề nguồn vốn, chuyển tiền kiều hối, sản phẩm 
thu chi hộ, hỗ trợ tài chính khởi nghiệp cho các 
doanh nghiệp nhỏ và vừa, khôi phục làng nghề 
truyền thống, tham gia một số công đoạn của 
hoạt động bảo hiểm vi mô.... Tại cấp trung ương, 
chuẩn bị báo cáo phân tích khe hở kỳ hạn theo 
tháng để đảm bảo kỳ hạn nguồn và tài sản phù 
hợp với nhau, và nếu có khe hở âm, cần đề xuất 
giải pháp tìm các nguồn vốn sẵn có để xử lý khe 
hở nhằm ngĕn chặn rủi ro thanh khoản tiềm ẩn. 
Về trung và dài hạn: hoàn thiện cơ chế tài 
chính theo hướng ổn định, tạo thế chủ động 
cho NHCSXH; tích cực chuẩn bị các điều kiện 
để chuyển sang thực hiện cơ chế tự bù đắp chi 
phí hoạt động sớm; có thể xem xét tới lựa chọn 
chuyển đổi NHCSXH thành đơn vị tài chính vi 
mô “bán buôn” để tận dụng lợi thế với các tổ 
chức bán lẻ là các Tổ chức Tài chính vi mô.
Tài chính vi mô có rất nhiều hoạt động, 
không chỉ cung cấp dịch vụ tín dụng mà còn các 
dịch vụ thanh toán, bảo hiểm, các dịch vụ xã 
hội vậy nhưng đến nay, rất nhiều người vẫn 
còn nhầm lẫn tài chính vi mô với tín dụng vi mô. 
Mặt khác, việc cung cấp các dịch vụ tài chính 
và dịch vụ xã hội không phải là một hoạt động 
từ thiện. Đặc trưng của tài chính vi mô là thực 
hiện hai chức nĕng: Chức nĕng xã hội là giúp đỡ 
những người nghèo; chức nĕng kinh tế là phải 
thu đủ bù chi, tự nuôi sống mình để tồn tại và 
phát triển. Từ đó, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng 
cao nhận thức về tài chính vi mô cũng như tĕng 
cường phổ biến kinh nghiệm và các mô hình 
hoạt động tài chính vi mô hiệu quả
Đối với Nhà nước. Cần xây dựng môi trường 
pháp lý đồng bộ, phù hợp với đặc thù của hoạt 
động tài chính vi mô như: Hoàn thiện vĕn bản 
quy phạm pháp luật; ban hành các chính sách 
hỗ trợ phù hợp; chính sách thuế, phí phù hợp; 
phát triển hoạt động bảo hiểm vi mô theo hướng 
chuyên nghiệp;
Xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô thuận 
lợi cho tài chính vi mô phát triển, trọng tâm là 
chính sách lãi suất, lãi suất phải đủ bù đắp được 
chi phí hoạt động, tình trạng mất vốn, lạm phát 
của tài chính vi mô trong quá trình mới thành 
lập. Còn trong quá trình hoạt động, khi các tổ 
chức tài chính vi mô theo đuổi các mục tiêu xã 
hội, Chính phủ xem xét miễn thuế giá trị gia 
tĕng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Thêm vào 
đó, cần phải bổ sung điều chỉnh những chính 
sách tài chính vi mô cho nông nghiệp, nông dân, 
nông thôn sao cho phù hợp thiết thực hiệu quả 
và khả thi.
49
Tài chính vi mô của ngân hàng . . .
5. KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng, tài chính vi mô tại 
Việt Nam đã và đang có những đóng góp to lớn 
cho chiến lược xoá đói nghèo. Tiềm nĕng phát 
triển dịch vụ tài chính này cũng tương đối thuận 
lợi bởi nhận được sự ủng hộ về mặt chính sách 
từ Chính phủ, bên cạnh đó, nĕng lực và khả 
nĕng tiềm tàng của các tổ chức tham gia cung 
cấp dịch vụ tài chính vi mô đa dạng và chuyên 
nghiệp, cộng với nhu cầu ngày càng tĕng đối với 
các dịch vụ tài chính vi mô. Tuy vậy, những khó 
khĕn và thách thức cho sự phát triển tài chính 
vi mô trong thời gian tới tại Việt Nam còn rất 
lớn. Để tĕng cường hiệu quả của tài chính vi mô, 
tác động tốt tới vấn đề giảm nghèo và nâng cao 
chất lượng cuộc sống, có rất nhiều việc phải làm 
trong thời gian tới. Cả khách hàng, nhà quản lý 
và các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính vi mô 
đều cần nỗ lực nhằm tận dụng cơ hội và vượt 
qua thách thức
Với NHCSXH, hành trình của nguồn vốn tín 
dụng ưu đãi vì an sinh xã hội ở nước ta đã tròn 20 
nĕm, kể từ nĕm 1995 do NHNg - tiền thân của 
NHCSXH đảm nhận đã thu được những thành 
tựu nổi bật là tập trung huy động các nguồn lực 
tài chính để tạo lập nguồn vốn, đồng thời vừa 
mở rộng, vừa tổ chức thực hiện hiệu quả các 
chương trình tín dụng chính sách. Thành tựu này 
được các đại biểu Quốc hội Việt Nam nhận xét 
là một “điểm sáng” và là một trong những “trụ 
cột” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo 
ở Việt Nam. ghi nhận của NHCSXH trong hơn 
12 nĕm qua. Điều này đã góp phần vào mục tiêu 
giảm nghèo nhanh và bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. AFD, BMZ, DFID và WB, “Thực hiện 
tĕng trưởng v̀ ngừi nghèo – nghiên cứu 
trừng hợp Việt Nam”;
[2]. Ban chỉ đạo Trung ương về giảm nghèo 
bền vững giai đoạn 2011 – 2015 (2014), Báo 
cáo giảm nghèo nĕm 2014 và kế hoạch nĕm 
2015;
[3]. Ban công tác tài chính vi mô (2014), Báo 
cáo về tài chính vi mô nĕm 2014;
[4]. Bộ KH&ĐT (2007), Tĕng trưởng và xóa 
đói giảm nghèo ở Việt Nam – Thành tựu, thách 
thức và giải pháp, Hà Nội;
[5]. Đào Vĕn Hùng (2005), Phát trỉn hoạt 
động Tài ch́nh vi mô ở Việt Nam, NXB Lao 
Động - Xã hội;
[6]. Ngân hàng chính sách xã hội, Thôn tin và 
Đặc san Ngân hàng Ch́nh sách Xã hội Việt 
Nam từ số 55 (2011) đến số 67 (2014);
[7]. Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, 
Báo cáo thừng niêm các nĕm 2008 – 2013
[8]. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Hệ 
thống các tổ chức t́n dụng Việt Nam, t́nh đến 
ngày 01/12/2014;
[9]. Nhóm Công tác Tài chính vi mô Việt Nam 
(MFWG) (2011), Tài ch́nh vi mô v́i giảm 
nghèo tại Việt Nam: Kỉm định và so sánh, 
NXB Thống kê;
[10]. Nhóm công tác Tài chính vi mô (2013), Tài 
ch́nh vi mô – Quy định ch́nh sách cho Tài ch́nh 
vi mô tại Việt Nam, số 19.
[11]. Ngân hàng thế giới – WB (2012), Báo cáo 
đánh giá nghèo Việt Nam nĕm 2012;
[12]. UNDP (11/2009), Rà soát tổng quan 
các chương tr̀nh dự án giảm nghèo ở Việt 
Nam, Hà Nội;
[13]. UNDP (2010), Ch́nh sách công nghiệp 
c̉a Việt Nam – Thiết kế ch́nh sách đ̉ phát 
trỉn bền vững;
[14]. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung 
ương (2012), Xoá đói giảm nghèo, Trung tâm 
Thông tin - Tư liệu;

File đính kèm:

  • pdftai_chinh_vi_mo_cua_ngan_hang_chinh_sach_xa_hoi_voi_chuong_t.pdf