Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị đảo Bạch Long Vĩ

TÓM TẮT: Là một đảo nhỏ nằm gần giữa vịnh Bắc Bộ, Bạch Long Vĩ có những giá trị to lớn về tài nguyên vị thế địa - Kinh tế và địa - chính trị. Về tài nguyên địa - kinh tế, đảo là một vị trí ưu tiên đối với phát triển kinh tế biển - đảo của đất nước; vị trí trung tâm trong không gian kinh tế vịnh Bắc Bộ; trực thuộc Hải Phòng - trung tâm kinh tế lớn nhất ở Duyên hải phía Bắc; địa bàn thuận lợi cho phát triển nhiều loại hình dịch vụ biển như hậu cần nghề cá, dầu khí, du lịch, tìm kiếm cứu nạn và y tế, môi trường, ngân hàng và viễn thông. Về tài nguyên địa - chính trị, đảo có những giá trị rất lớn về khẳng định, mở rộng và đảm bảo chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển; an ninh quốc phòng liên quan tới phần phía Bắc của đất nước; văn hoá biển đảo với tình yêu tổ quốc sâu đậm nơi đảo xa

pdf 9 trang yennguyen 2780
Bạn đang xem tài liệu "Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị đảo Bạch Long Vĩ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị đảo Bạch Long Vĩ

Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị đảo Bạch Long Vĩ
 207 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 3; 2013: 207-215 
ISSN: 1859-3097 
TÀI NGUYÊN VỊ THẾ ĐỊA - KINH TẾ VÀ ĐỊA - CHÍNH TRỊ 
ĐẢO BẠCH LONG VĨ 
Trần Đức Thạnh1, Lê Đức An2 
1Viện Tài nguyên và Môi trường Biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
246 Đà Nẵng, Ngô Quyền, Hải Phòng, Việt Nam 
E-mail: thanhtd@imer.ac.vn 
2Viện Địa lý- Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Ngày nhận bài: 5-11-2012 
TÓM TẮT: Là một đảo nhỏ nằm gần giữa vịnh Bắc Bộ, Bạch Long Vĩ có những giá trị to lớn về tài 
nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị. Về tài nguyên địa - kinh tế, đảo là một vị trí ưu tiên đối với phát 
triển kinh tế biển - đảo của đất nước; vị trí trung tâm trong không gian kinh tế vịnh Bắc Bộ; trực thuộc Hải 
Phòng - trung tâm kinh tế lớn nhất ở Duyên hải phía Bắc; địa bàn thuận lợi cho phát triển nhiều loại hình dịch 
vụ biển như hậu cần nghề cá, dầu khí, du lịch, tìm kiếm cứu nạn và y tế, môi trường, ngân hàng và viễn thông... 
Về tài nguyên địa - chính trị, đảo có những giá trị rất lớn về khẳng định, mở rộng và đảm bảo chủ quyền và lợi 
ích quốc gia trên biển; an ninh quốc phòng liên quan tới phần phía Bắc của đất nước; văn hoá biển đảo với 
tình yêu tổ quốc sâu đậm nơi đảo xa. 
Từ khóa: Đảo Bạch Long Vĩ, vị thế địa kinh tế và địa chính trị, tài nguyên. 
MỞ ĐẦU 
Đảo Bạch Long Vĩ (BLV) nằm gần giữa vịnh 
Bắc Bộ (VBB), trong hệ toạ độ 20o07'35'' - 
20o08'36''B và 107o42'20'' - 107o44'15''Đ, cách cảng 
Hải Phòng 135km về phía Đông Nam. Đảo có hình 
dáng đồi thoải dạng hình tam giác, góc nhọn nhất 
nằm ở phía Đông Bắc, độ cao tuyệt đối 61,5m, cao 
tương đối khoảng 90m, nhô lên từ mặt đồng bằng 
đáy biển sâu khoảng 30m. Tính theo đường 0m lục 
địa, đảo có chu vi 6,7km. Theo niên giám thống kê 
năm 2011 của Hải Phòng, huyện đảo BLV có diện 
tích 3,2km2 [3]. Diện tích đảo nổi trên mực triều cao 
nhất là 1,78km2, trên mực biển trung bình (ngang 
0m lục địa) là 2,33km2; đến mực triều thấp nhất là 
3,05km2. BLV là đảo đá trầm tích Đệ Tam duy nhất 
ở ven bờ Việt Nam, đặc biệt có trầm tích Paleogen 
lộ ra tại đảo [1, 8]. 
Nằm giữa VBB, đảo BLV làm tăng thêm giá trị 
cho vịnh, đồng thời được thừa hưởng và hội tụ tất cả 
các phần giá trị của vịnh. BLV có giá trị lớn về tài 
nguyên vị thế - đó là những lợi ích có được từ vị trí 
địa lý và các thuộc tính về cấu trúc, hình thể sơn văn 
và cảnh quan, sinh thái của một khu vực, có giá trị 
sử dụng cho các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, 
đảm bảo an ninh, quốc phòng và chủ quyền quốc 
gia. Tài nguyên vị thế được đánh giá theo ba hợp 
phần: vị thế tự nhiên, vị thế địa-kinh tế và vị thế địa-
chính trị [6]. Bài viết này trình bày kết quả nghiên 
cứu về tài nguyên địa - kinh tế và tài nguyên địa -
chính trị của đảo. 
GIÁ TRỊ TÀI NGUYÊN ĐỊA-KINH TẾ 
Vị trí ưu tiên đối với phát triển kinh tế biển - đảo 
của đất nước 
Do có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh quốc 
phòng và chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển nên 
đảo BLV được đặc biệt quan tâm và ưu tiên phát 
triển kinh tế theo hướng dân sự hoá đảo và được thể 
Trần Đức Thạnh, Lê Đức An 
 208
hiện rõ qua các chủ trương và nghị quyết của Đảng. 
Từ năm 1997, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị 20-CT/TW 
ngày 22/9/1997 về phát triển kinh tế biển, trong đó 
nhấn mạnh cần quy hoạch và xây dựng chương trình 
phát triển kinh tế hải đảo, trước hết tập trung vào 
một số đảo quan trọng về kinh tế và quốc phòng, an 
ninh như Phú Quốc, Thổ Chu, Côn Sơn, Phú Quý, 
Lý Sơn, Cát Bà, Cô Tô, Vĩnh Thực và BLV. Trong 
Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 5/8/2003 của Bộ 
Chính trị (khoá IX) về việc xây dựng và phát triển 
Tp. Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hoá - 
hiện đại hoá đất nước, đảo BLV được nhấn mạnh 
cần phải được xây dựng để sớm trở thành trung 
tâm chế biến và dịch vụ nghề cá cho các tỉnh ven 
biển Bắc Bộ. 
Chính phủ đã ra Nghị định số 15/NĐ/CP ngày 
09/02/1992 về việc thành lập huyện đảo BLV thuộc 
Tp. Hải Phòng. Cho đến nay, BLV trở thành một 
trong mười huyện đảo ven bờ của cả nước, có 
khoảng cách thuộc loại xa bờ nhất và diện tích tự 
nhiên chỉ lớn hơn huyện đảo Cồn Cỏ. Đó là một sự 
ưu tiên đặc biệt của Đảng và Nhà nước gắn phát 
triển tổ chức hành chính với phát triển kinh tế BLV 
và vùng biển xung quanh đảo. 
Để thúc đẩy nhanh chóng phát triển tổ chức 
hành chính và kinh tế, Thủ tướng Chính phủ đã ra 
Quyết định số 379/TTg ngày 27/7/1994 phê duyệt 
luận chứng kinh tế - kỹ thuật tổng thể xây dựng 
BLV trở thành một đơn vị hành chính cấp huyện, 
phát triển kinh tế - quốc phòng - xã hội toàn diện, 
một trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá của ngư 
trường VBB. 
Sự ưu tiên đặc biệt đối với phát triển đảo còn 
được thể hiện qua quyết sách đưa lực lượng thanh 
niên xung phong ra xây dựng đảo theo Công văn số 
3110/NC-CP ngày 13/8/1998 của Văn phòng Chính 
phủ về xây dựng huyện đảo BLV thành huyện đảo 
thanh niên. Đồng thời, Chính phủ đã có các chủ 
trương cụ thể, quyết định về phát triển một số lĩnh 
vực kinh tế trọng yếu tại đây như: xây dựng “Trung 
tâm dịch vụ nghề cá ngư trường VBB theo Quyết 
định 339/TTg; “Trung tâm nuôi thuỷ sản quý hiếm” 
theo Thông báo số 40-TB/VPCP của Văn phòng 
Chính Phủ và “Khu du lịch” theo Công văn số 
2112/VPCP-KTTH ngày 17/5/1999 của Văn phòng 
Chính phủ. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã ra 
Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 26/5/2010 về việc 
phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển 
Việt Nam đến 2020, gồm 16 khu, trong đó có BLV. 
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, BLV 
đã khẳng định được lợi thế và định hướng phát triển 
kinh tế của mình trong tổng thể phát triển kinh tế xã 
hội Tp. Hải Phòng đến năm 2020 và tầm nhìn đến 
2025 với việc UBND Tp. Hải Phòng đã ra Quyết 
định số 1056/QĐ-UBND ngày 01/6/2009 về việc 
phê duyệt Quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2.000 huyện 
đảo BLV. 
Vị trí trung tâm của không gian kinh tế vịnh Bắc 
Bộ 
VBB là một vùng biển phát triển kinh tế năng 
động với các lĩnh vực hàng hải, nghề cá, khai 
khoáng, du lịch và các dịch vụ khác. Vượt qua VBB 
là những tuyến đường hàng hải quan trọng của Bắc 
Việt Nam và Nam Trung Quốc với các nước trong 
khu vực và quốc tế, đặc biệt là từ cảng Hải Phòng 
(Việt Nam) và Bắc Hải (Trung Quốc). Lòng đất 
dưới đáy và khối nước của vịnh chứa đựng nhiều tài 
nguyên thiên nhiên, đặc biệt là về dầu khí và hải sản 
[4, 7]. Nằm ở trung tâm vịnh, khu vực biển - đảo 
BLV được hưởng thụ từng phần của tất cả các lợi 
thế này và vấn đề chỉ ở chỗ làm thế nào để phát triển 
các lợi ích ấy. 
Hình 1.Vị trí đảo Bạch Long Vĩ trong không gian 
phát triển vùng Duyên hải Bắc Bộ 
 (Nguồn: Nguyễn Thành Biên và nnk, 2008. Báo cáo 
quy hoạch xây dựng vùng Duyên hải Bắc Bộ đến 
năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050) 
BLV là một đơn vị hành chính cấp huyện của Tp. 
Hải Phòng, nhưng có quan hệ không gian kinh tế gần 
cách đều với tất cả các tỉnh thành thuộc dải ven bờ 
Tây VBB từ Quảng Ninh đến Quảng Bình, gồm 8 
tỉnh và 01 thành phố trực thuộc Trung ương với tổng 
số 6 thành phố (1 loại I; 5 loại II), 7 quận, 4 thị xã và 
34 huyện, với 7 triệu dân, mật độ 397 người/km2, 
Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị  
 209 
chiếm 40,3% dân số các tỉnh ven biển, có tổng GDP 
năm 2007 chiếm khoảng 18% toàn quốc (461.443 tỷ 
đồng). Nhóm GDP cao gồm Hải Phòng, Quảng Ninh, 
Thanh Hoá và Nghệ An, cao hơn bình quân cả nước 
1,3 - 1,6 lần. Tốc độ tăng trưởng các tỉnh hàng năm 
8,3 - 15,3% giai đoạn 2001-2007, cao hơn trung bình 
cả nước (7,7%) [2, 5]. 
Chính phủ đã có quyết định phê duyệt quy 
hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển Bắc 
Bộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong 
đó mức tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành đến năm 
2020 đều trên 12% với cơ cấu chuyển dịch mạnh mẽ 
sang công nghiệp và dịch vụ. Trong không gian phát 
triển vùng, BLV có vai trò như là vị trí cửa ngõ, phụ 
trợ cho các dòng vào và dòng ra trong quá trình phát 
triển kinh tế hội nhập và hướng ngoại (hình 1). Đây 
là nơi có những cơ hội phát triển lớn gắn với vành 
đai kinh tế VBB, nối tuyến với hai hành lang kinh tế 
Hải Phòng - Côn Minh và Hải Phòng - Nam Ninh 
thuộc tiểu vùng sông Mê Kông. Hợp tác một vành 
đai và hai hành lang được thực hiện từ năm 2005 ở 
4 tỉnh của Trung Quốc là Vân Nam, Quảng Tây, 
Quảng Đông, Hải Nam và 5 tỉnh, thành của Việt 
Nam là Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Nội, Hải Phòng và 
Quảng Ninh với tổng diện tích 869.000km2, dân số 
184 triệu người. Các lĩnh vực hợp tác gồm thương 
mại, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, khai thác tài 
nguyên, chế biến và điện lực ... trong khuôn khổ khu 
vực mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN và hợp tác 
tiểu vùng Mê Kông [5, 9]. 
Trực thuộc Thành phố Hải Phòng - Trung tâm 
kinh tế lớn nhất ở Duyên hải phía Bắc 
BLV là một trong số 15 quận, huyện trực thuộc 
Tp. Hải Phòng, xa trung tâm thành phố nhất, nhưng 
là một điểm tựa để mở rộng phát triển kinh tế Hải 
Phòng, đồng thời được thừa hưởng những nền tảng 
cơ bản và sức lan tỏa của một thành phố lớn loại I, 
trực thuộc trung ương để phát triển kinh tế của chính 
mình. Đây chính là một lợi thế phát triển kinh tế của 
vùng biển đảo BLV. 
Hải Phòng nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa đồng 
bằng châu thổ sông Hồng và vùng núi ven biển 
Đông Bắc, có dân số 1.878 triệu người (năm 2011), 
diện tích đất tự nhiên 1.507km2, chiếm 0,47% của 
cả nước, có một vị trí thuận lợi đối với phát triển 
kinh tế xã hội và đặc biệt quan trọng đối với an 
ninh, quốc phòng. Hải Phòng chỉ cách thủ đô Hà 
Nội 100km, có điều kiện giao thông thuận tiện, kể 
cả đường thuỷ, đường bộ, đường sắt và hàng không, 
vì thế trở thành một trong những trung tâm công 
nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch của cả nước và 
của vùng duyên hải Bắc Bộ; là thành phố cảng, cửa 
ngõ chính ra biển của các tỉnh phía Bắc; là đầu mối 
giao thông quan trọng của miền Bắc và cả nước.Với 
vị trí địa lý đặc biệt, điều kiện tự nhiên thuận lợi và 
tài nguyên thiên nhiên đa dạng, giàu có, Hải Phòng 
có tiềm năng lớn phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh 
tế biển. Hải Phòng nằm trong trọng điểm kinh tế Hà 
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh của vùng kinh tế Bắc 
Bộ. Đây là điểm nút của tuyến vành đai kinh tế 
VBB nối với hai tuyến hành lang kinh tế. 
Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt 
nhiệm vụ đến năm 2020 phải tập trung xây dựng và 
phát triển để Hải Phòng xứng đáng là thành phố 
cảng, công nghiệp hiện đại; là đô thị trung tâm cấp 
quốc gia; đầu mối giao thông quan trọng và cửa 
chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, có cảng nước 
sâu; một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh 
tế động lực phía Bắc; một trọng điểm phát triển kinh 
tế biển; một trong những trung tâm công nghiệp, 
thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, 
du lịch, thủy sản, giáo dục và y tế của vùng duyên 
hải Bắc Bộ. 
Theo định hướng phát triển kinh tế đến năm 
2015, tầm nhìn đến năm 2020, cơ cấu kinh tế với tỷ 
trọng dịch vụ của Hải Phòng là 55 - 56%; công 
nghiệp 37 - 38%; nông nghiệp 6 - 7% vào năm 2015 
và tương ứng 62 - 64%; 33 - 34% và 3 - 4% vào 
năm 2020 (nguồn: Thành ủy Hải Phòng, 2007). Việc 
phát triển hệ thống cảng (đặc biệt cảng nước sâu 
Lạch Huyện), dịch vụ cảng, vận tải biển đảm bảo 
đến năm 2015 lượng hàng thông qua các cảng 55 -
60 triệu tấn/năm; đến năm 2020 đạt 80 - 100 triệu 
tấn/năm. Hải Phòng đẩy mạnh phát triển các khu 
kinh tế, các khu công nghiệp, khu đô thị ven biển; 
công nghiệp đóng mới, sửa chữa tàu thuỷ và phương 
tiện nổi; kinh tế thuỷ sản và du lịch. Cùng với định 
hướng phát triển đó của Hải Phòng, huyện đảo BLV 
phát triển theo mô hình kinh tế đảo tiền tiêu, cơ cấu 
kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ-công 
nghiệp - nông nghiệp, trong đó tỷ trọng dịch vụ đến 
năm 2015 là 80%, năm 2020 trên 80%. 
Địa bàn thuận lợi cho phát triển nhiều loại hình 
kinh tế dịch vụ biển. 
Với vị trí thuận lợi nằm giữa VBB có nhiều 
hoạt động kinh tế sôi động và với điều kiện diện tích 
tự nhiên cho phép, BLV có tiềm năng trở thành một 
trung tâm dịch vụ quan trọng về nhiều lĩnh vực ở 
Trần Đức Thạnh, Lê Đức An 
 210
quy mô khác nhau: hậu cần nghề cá, dầu khí, du 
lịch, tìm kiếm cứu nạn và y tế, dịch vụ môi trường, 
ngân hàng và viễn thông, ... 
Dịch vụ hậu cần nghề cá. BLV là một trong 
các ngư trường tốt nhất của VBB, vào mùa cá tập 
trung 800 - 900 tầu thuyền đánh bắt, đến từ nhiều 
địa phương [7]. Thực tế đã đặt ra cho vùng biển đảo 
nhiều yêu cầu dịch vụ, từ nơi trú đậu tránh gió bão, 
cung cấp xăng dầu, nước ngọt, lương thực, thực 
phẩm, ngư cụ, đến sửa chữa nhỏ, thu mua hải sản, 
bảo quản, chế biến; dịch vụ tài chính và y tế. Chính 
vì vậy, Nghị quyết số 32-NQ/TW đã đặt nhiệm vụ 
“Nghiên cứu xây dựng đảo BLV sớm trở thành trung 
tâm chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá cho các 
tỉnh ven biển Bắc Bộ”. Trung tâm này còn phục vụ 
hữu hiệu cho thực hiện Hiệp định hợp tác nghề cá, 
đáp ứng được tình hình hợp tác sử dụng, khái thác 
bền vững tài nguyên sinh vật trong VBB và trong 
tương lai là một ưu thế kinh tế dịch vụ tại đây. BLV 
còn có thể trở thành một cửa khẩu với xuất nhập 
khẩu tiểu ngạch, chủ yếu về hải sản, có ý nghĩa kinh 
tế lớn vì thu hút được hàng hóa hải sản trôi nổi trên 
biển, mà Nhà nước không kiểm soát được. Mặc dù 
cơ sở hạ tầng bến bãi và khu dịch vụ hậu cần nghề 
cá được xây dựng và đưa vào sử dụng chưa phải là 
đồng bộ và hiện đại, nhưng Trung tâm dịch vụ hậu 
cần nghề cá BLV đi vào hoạt động từ cuối tháng 3 
năm 2003 đã phát huy được tác dụng. Từ khi cảng, 
khu neo đậu tầu và khu dịch vụ hậu cần nghề cá đi 
vào hoạt động, tầu thuyền đánh cá đến ngư trường 
BLV tăng lên rất nhanh. Ngoài ra, còn nhiều tầu thu 
mua, dịch vụ thuỷ sản đến đây kinh doanh buôn bán 
nhộn nhịp. 
Dịch vụ dầu khí. Trong những năm tới, dịch 
vụ dầu khí có thể hoạt động và mang lại lợi ích đáng 
kể khi tiềm năng dầu khí trở thành hiện thực. Nhận 
thức được khả năng này, một khu đất rộng 8,53ha kế 
cận phía Đông cảng hiện nay cần được quy hoạch 
dự trữ cho dịch vụ dầu khí bao gồm hệ thống các 
khách sạn, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng, văn phòng, 
nhà hội thảo, phòng nghiệp vụ địa chất dầu khí, kỹ 
thuật khai thác và kinh tế mỏ, khu hậu cần kỹ thuật, 
thiết bị thăm dò và khai thác dầu khí, ... Khu này trở 
thành cơ sở hậu cần của trường dầu, bãi giếng, giảm 
tải và chí phí xây dựng giàn khoan trên biển. 
Dịch vụ du lịch và nghỉ dưỡng. Du lịch BLV 
sẽ trở thành một điểm hấp dẫn trong hệ thống du 
lịch biển Việt Nam nối liền với Cô Tô, Móng Cái, 
Hạ Long - Bái Tử Long, Cát Bà, Đồ Sơn, Sầm Sơn, 
Cửa Lò và các điểm du lịch phía Nam. Do vị trí 
thuận lợi, BLV sẽ là điểm đến của nhiều khách du 
lịch quốc tế từ tầu du lịch vượt đại dương nếu được 
tổ chức tốt. Đối tượng du lịch ở đây là cảnh quan bờ 
đảo có bãi đá, bãi cát và vành đai xanh, các công 
trình kiến trúc như nhà đèn biển, trạm khí tượng, 
trạm nghiệm triều, cảng, công viên cây xanh, không 
khí trong lành, các công trình văn hóa như nhà bảo 
tàng, đài tưởng niệm, đền chùa, khu nuôi Bào ngư, 
khu bảo tồn biển có cảnh quan ngầm độc đáo. Các 
hoạt động du lịch và nghỉ dưỡng giữa biển khơi bao 
gồm du lịch lữ hành quốc tế; du lịch khoa học địa 
chất và sinh thái, du ngoạn không gian du lịch ba 
chiều: mặ ...  đảo. Huyện đảo BLV có dân số 910 
người vào năm 2011 [3], nhưng chưa ổn định, 
thường xuyên ở mức trên 1.000 người. Ngoài ra, 
còn có một số lượng lớn dân vãng lai từ các tàu cá 
neo đậu quanh đảo và công nhân của các đơn vị xây 
dựng. Nếu tính tổng cộng cả dân cư thường xuyên 
và vãng lai thì khu vực huyện đảo thường có 3.500 
đến 4.000 người, với mật độ dân trên đảo xấp xỉ 
2.000 người/km2. 
Giá trị mở rộng chủ quyền quốc gia trên biển. 
Theo đường phân định ranh giới VBB giữa Việt 
Nam và Trung Quốc của Hiệp định ký kết này 25 
tháng 12 năm 2000 tại Bắc Kinh thì diện tích vịnh 
phía Việt Nam khoảng 53,23% và phía Trung Quốc 
khoảng 46,77%. Hiệp định quy định đường phân 
định từ điểm số 9 đến điểm số 21 là ranh giới vùng 
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước và 
đường biên giới này đi cách đảo BLV điểm gần nhất 
về phía Đông là 15 hải lý. Trong Hiệp định, đảo 
BLV đã được hưởng khoảng 25% hiệu lực, mang lại 
cho Việt Nam khoảng 300km2 giữa vịnh với những 
tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong khối nước 
và lòng đất dưới đáy [4, 6]. Thỏa thuận phân định 
này có được là nhờ vị thế đặc biệt và vai trò mở 
rộng chủ quyền vô cùng to lớn của đảo. 
Trần Đức Thạnh, Lê Đức An 
 212
Là một đảo có đời sống kinh tế sôi động nằm 
giữa VBB, BLV còn có đóng góp to lớn trong quá 
trình thực thi Hiệp định và các thỏa thuận khác, là 
cầu nối hợp tác hòa bình và hữu nghị giữa hai nước. 
Việc giành được một vùng biển rộng đầy tiềm năng 
xung quanh đảo có ý nghĩa rất quan trọng trong việc 
bảo vệ chủ quyền, quốc phòng an ninh và phát triển 
kinh tế đất nước. Hiệp định phân định VBB đã tạo 
ra một vành đai an toàn, ổn định tình hình, tạo môi 
trường cho phát triển kinh tế - xã hội và góp phần 
củng cố thế trận quốc phòng - an ninh trên biển. 
Trước kia, BLV thường bị tàu nước ngoài vào đánh 
cá phi pháp và nhiều lần xâm nhập sâu, bao vây đảo. 
Với Hiệp định được ký, vành đai phòng thủ đã được 
đẩy ra cách đảo 15 hải lý, giảm bớt căng thẳng về 
bảo vệ chủ quyền vùng đảo. 
Lợi ích kiểm soát đường biên giới, vùng đánh 
cá chung và vùng quá độ trên VBB 
Hình 2. Đường phân định ranh giới, vùng đánh cá 
chung và vùng quá độ Việt - Trung trong vịnh Bắc 
Bộ (Nguồn: Hiệp định Việt - Trung về phân định 
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 
trong VBB và Hiệp định hợp tác nghề cá ngày 
25/12/2000) 
Theo Hiệp định hợp tác nghề cá và Nghị định 
thư bổ sung Hiệp định hợp tác nghề cá VBB, vùng 
đánh cá chung giữa hai nước có tổng diện tích là 
33.500km2, chiếm khoảng 27,9% diện tích vịnh. 
Thời hạn vùng đánh cá chung có hiệu lực là 12 năm 
và 3 năm mặc nhiên gia hạn. 
Hiệp định còn xác định vùng quá độ có diện 
tích 9.080km2. Tổng công suất máy tàu của Trung 
Quốc được phép vào vùng quá độ đánh bắt là 
78.200 CV sẽ giảm dần 25% mỗi năm (tương đương 
230 chiếc) và chấm dứt hoạt động sau 4 năm. Tàu cá 
Việt Nam sang hoạt động tại hai vùng nước Hiệp 
định phía Đông đường phân định tương đương về số 
lượng và tổng công suất tàu cá Trung Quốc sang 
hoạt động ở hai vùng nước Hiệp định phía Tây 
đường phân định. Hiệp định hợp tác nghề cá Việt -
Trung tạo điều kiện cho quản lý tốt hơn tài nguyên 
sinh vật trong VBB, phù hợp với quy định về hợp 
tác giữa các nước ven biển nửa kín theo Công ước 
năm 1982 về Luật biển. Hợp tác hai bên trong vùng 
đánh cá chung và đánh cá tạm thời giúp tránh được 
việc đánh bắt cạn kiệt tài nguyên bằng các phương 
thức huỷ diệt. Tuy nhiên, vùng biên giới cả trên đất 
liền và trên biển, nhất là nơi giàu có tài nguyên thiên 
nhiên, luôn là vùng nhạy cảm. Do nằm gần sát 
đường phân định biên giới trên biển và nằm sát phía 
Bắc vùng đánh cá chung (hình 2), đảo BLV có giá 
trị kiểm soát đường biên giới, vùng đánh cá chung 
và vùng quá độ trên VBB, nhằm phát hiện kịp thời 
các vi phạm và các tình huống đặc biệt hoặc khẩn 
cấp cần xử lý. 
Giá trị về đảm bảo an ninh quốc phòng 
Đối với cả Việt Nam và Trung Quốc, VBB có 
tầm quan trọng chiến lược về quốc phòng và an ninh, 
nhưng với Việt Nam càng đặc biệt quan trọng vì liên 
quan tới cả một nửa phía Bắc của đất nước, từ vĩ 
tuyến Cồn Cỏ trở ra, trong đó có thủ đô Hà Nội. 
Một cứ điểm quân sự vững chắc giữa VBB 
Đảo BLV là một chiến hạm lớn không thể bị 
đánh chìm, một cứ điểm quân sự vững chắc giữa 
VBB. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước sự 
tấn công điên cuồng của tầu chiến và máy bay hiện 
đại nhất, với hàng ngàn tấn bom đạn, BLV vẫn kiên 
cường đánh trả, bắn rơi 24 máy bay, bắn cháy và 
bắn chìm nhiều tầu chiến địch, góp phần đánh tan ý 
đồ chiến lược của Mỹ và đã vinh dự được công nhận 
là đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang. Với một diện 
tích đủ lớn, địa hình đồi cao 50 - 60m, các mũi đá ra 
sát bờ biển, có điều kiện mở đường giao thông thuận 
Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị  
 213 
tiện, làm sân bay trực thăng hoặc sân bay phản lực, 
lập các căn cứ phòng thủ, địa đạo và bến cảng, BLV 
đủ điều kiện để trở thành một thành trì vững chắc 
bảo vệ toàn vẹn vùng biển chủ quyền của đất nước. 
Giữ được đảo là giữ được toàn bộ vùng biển chủ 
quyền trên VBB, cũng đồng thời là khống chế được 
cả khu vực trung tâm VBB. 
Mắt xích quan trọng nhất trong phòng tuyến 
các đảo ven bờ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ 
Việc liên kết giữa các đảo, cụm và tuyến đảo 
với nhau sẽ tạo thành một trận tuyến phòng thủ 
vững chắc trên mặt biển để ngăn ngừa và đẩy lùi các 
hoạt động lấn chiếm của nước ngoài. Tuyến phòng 
thủ tiền tiêu đó bao gồm các đảo Vĩnh Thực - Trần-
Thanh Lân - Hạ Mai - BLV - Hòn Mê - Hòn Mắt, ... 
trong đó BLV là có vai trò số một, do vị trí tiền tiêu 
- biên giới giữa VBB của đảo. Ở vị trí này, đảo có 
thể có được thông tin nhanh nhất, đa dạng, nhiều 
chiều của đối phương, nhưng đồng thời lại là nơi đối 
phương có thể tiếp cận sớm nhất, quan tâm đến 
nhiều nhất trong các ý đồ chiến thuật của họ. 
Trạm gác, tháp canh tiền tiêu và bao quát rộng 
lớn trên VBB 
Nằm giữa VBB, BLV án ngữ đường vào cảng 
cửa ngõ Hải Phòng và kiểm soát tất cả các con 
đường hàng hải trong vịnh. Từ đảo, bằng các 
phương tiện quan sát hiện đại, có thể kiểm tra, kiểm 
soát mọi ngả đường thủy từ phía Nam, phía Bắc và 
phía Đông vịnh đi vào Hải Phòng, Quảng Ninh và 
các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Hơn thế nữa, mọi hoạt 
động quân sự trong vịnh cũng đều có thể được phát 
hiện nhanh chóng kịp thời, kể cả các hoạt động 
không quân. Có thể nói BLV là một trong các cứ 
điểm quan trọng nhất, là tai - mắt của Bộ chỉ huy 
bảo vệ vùng biển chủ quyền trong VBB và cả vùng 
đất liền Bắc Bộ. 
Trong chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế 
quốc Mỹ, các cuộc không kích, pháo kích của đối 
phương vào Hải Phòng và các tỉnh ven VBB đều đi 
qua BLV và được phát hiện kịp thời. Trong giai 
đoạn hòa bình, đảo vẫn là một tiền đồn quan trọng 
đứng gác trong VBB, làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến 
đấu, canh phòng và bảo vệ đảo cùng vùng biển xung 
quanh.Với vị trí tiền tiêu đặc biệt quan trọng đã 
được khẳng định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, 
đảo đã trở thành căn cứ tiền đồn vững chắc để tham 
gia vào mạng lưới bảo vệ, kiểm soát vùng biển, 
vùng trời của Tổ quốc, kiểm tra các hoạt động tàu 
thuyền ra vào, đi lại trên vùng biển của ta. Đảo là 
địa bàn thuận lợi để bố phòng và triển khai lực 
lượng quân sự khi cần thiết. 
Cơ sở hậu cần và vị trí trung chuyển cho các 
hoạt động tác chiến xa bờ 
BLV là cơ sở hậu cần và vị trí trung chuyển cho 
các hoạt động tác chiến xa bờ. Với vị trí giữa vịnh 
của mình, đảo có điều kiện vô cùng thuận lợi làm 
nhiệm vụ hậu cần cho các tầu thuyền làm nhiệm vụ 
an ninh trên biển trong hòa bình và thực thi các 
nhiệm vụ tác chiến trong chiến tranh hoặc chống 
khủng bố. BLV cũng có thể trở thành nơi dự trữ 
chiến lược, làm nhiệm vụ trung chuyển cho các hoạt 
động của tầu thuyền xa bờ và dài ngày. Ngoài ra, 
đảo còn là các cơ sở hậu cần trên biển cả về nhân 
lực và vật lực, làm cầu nối giữa đất liền với biển 
khơi, đảm bảo an toàn và thuận lợi cho các hoạt 
động quân sự trên biển. Đây là một trong những tiền 
đồn kiểm soát tình hình an ninh trật tự trên biển, 
phòng thủ từ xa, làm tốt việc phát triển kinh tế, kết 
hợp chặt chẽ với an ninh quốc phòng. 
Trong bối cảnh quốc tế và tiềm lực quân sự hiện 
nay, nếu chỉ dựa vào yếu tố quân sự thì không đủ để 
giữ đảo. Phát triển kinh tế - xã hội vững mạnh sẽ tạo 
điều kiện bảo vệ đảo tốt hơn. Nhưng nếu chỉ lo phát 
triển kinh tế - xã hội, lơ là cảnh giác thì sẽ dễ để mất 
an ninh, chủ quyền trên đảo. Giải quyết mối quan hệ 
giữa phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc 
phòng an ninh không chỉ là nhiệm vụ của huyện đảo 
và Tp. Hải Phòng, mà cần phải có sự chỉ đạo sát sao 
của Trung ương. 
Giá trị về văn hoá biển đảo 
Đảo BLV là một điểm sáng của văn hoá Việt 
Nam trên biển, mang đậm nét huyền thoại. Người 
Việt nhận mình là con Rồng, cháu Tiên và Rồng là 
một hình tượng thiêng liêng nhưng quen thuộc trong 
đời sống văn hóa - tâm linh của người Việt Nam từ 
hàng nghìn năm trước. Nhiều vùng đất nổi tiếng của 
đất nước gắn với tên Rồng (Long): thủ đô thì có 
Thăng Long (Rồng Thăng); đồng bằng thì có Cửu 
Long (Chín Rồng); sông thì có Hoàng Long (Rồng 
Vàng, ở Ninh Bình); vịnh thì có Hạ Long (Rồng Hạ) 
và Bái Tử Long (Rồng Phục), đảo thì có BLV (Đuôi 
Rồng Trắng), quần đảo có Long Châu (Ngọc Rồng) 
ở vùng biển Hải Phòng và bãi biển có Long Hải 
(Rồng Biển) ở Tp.Vũng Tàu. Hạ Long, Bái Tử Long 
và BLV có chung một truyền thuyết đẹp. Thủa xưa, 
khi người Việt gặp nạn giặc ngoại xâm, Ngọc 
Trần Đức Thạnh, Lê Đức An 
 214
Hoàng đã sai Rồng mẹ đưa theo một đàn Rồng con 
xuống hạ giới giúp dân đánh giặc. Nơi Rồng mẹ 
xuống là vịnh Hạ Long, nơi Rồng con xuống là vịnh 
Bái Tử Long, còn nơi đuôi Rồng quẫy nước trắng 
xóa là đảo BLV. 
Đảo BLV còn có những tên đẹp khác như Phù 
Thuỷ Châu (Hòn Ngọc nổi trên mặt nước) và Hoạ 
Mi (hình dáng đảo được liên tưởng với chim hoạ 
mi). Phạm Quang Trung và đồng nghiệp (1999), đã 
dùng hai tên Hoạ Mi và Phù Thủy Châu để đặt tên 
cho hai phân vị địa tầng địa chất mới được thành lập 
là Hệ tầng Hoạ Mi (N12 - N2 hm) và Hệ tầng Phù 
Thuỷ Châu (E3 ptc) [8]. 
Chùa Bạch Long Tự đã được xây dựng và hoàn 
thành vào ngày 22/3/2009, được thiết kế với diện 
tích 300m2 trong khuôn viên 1.000m2 toạ lạc ở khu 
vực trung tâm đảo. Đi chùa thờ Phật là một phần 
không thể thiếu của đời sống tâm linh và văn hoá 
người Việt, dù ở hòn đảo nhỏ giữa biển khơi. Đồng 
thời, chùa Bạch Long Tự để lại dấu ấn cùng thời 
gian, mãi mãi góp phần khẳng định chủ quyền quốc 
gia trên vùng biển đảo BLV. 
“BLV đảo quê hương” như tên bài hát của nhạc 
sỹ Huy Du là hình ảnh tuyệt đẹp của tình yêu quê 
hương nơi biển đảo. Đó là tình yêu thiết tha với 
thiên nhiên và con người nơi đảo xa của Tổ quốc, ở 
đó có thôn xanh Phủ Thuỷ Châu với trúc anh đào 
xanh thắm, quê hương của Bào ngư với sóng bạc 
đầu và gió biển rì rào năm tháng. Hòn đảo đầy nắng 
gió giữa biển xanh ấy ngày càng được khu vực và 
thế giới biết đến như một huyện đảo trù phú, an 
lành, hòa bình và hữu nghị của Việt Nam. 
KẾT LUẬN 
Về tài nguyên địa - kinh tế, BLV là một đảo tiền 
tiêu, nên đặc biệt được ưu tiên đối với phát triển 
kinh tế. Đảo nằm ở vị trí trung tâm của không gian 
kinh tế VBB, nên được hưởng thụ từng phần của tất 
cả các lợi thế của vịnh. Đảo trực thuộc Hải Phòng, 
trung tâm kinh tế lớn nhất ở duyên hải phía Bắc, nên 
vừa là một điểm tựa để mở rộng phát triển kinh tế 
Hải Phòng, đồng thời được thừa hưởng những yếu 
tố nền tảng của một thành phố lớn loại I, trực thuộc 
trung ương. Đảo là địa bàn thuận lợi cho phát triển 
nhiều loại hình dịch vụ biển như hậu cần nghề cá, 
dầu khí, du lịch, tìm kiếm cứu nạn và y tế, dịch vụ 
môi trường, ngân hàng và viễn thông, ... 
Về tài nguyên địa - chính trị, BLV có giá trị 
khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam ở khu 
vực trung tâm VBB, có lợi ích to lớn mở rộng chủ 
quyền quốc gia trên biển và kiểm soát đường biên 
giới, vùng đánh cá chung và vùng quá độ trên VBB. 
Đây là một cứ điểm quân sự vững chắc giữa VBB; 
một mắt xích quan trọng nhất trong phòng tuyến các 
đảo ven bờ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; là trạm gác, 
tháp canh tiền tiêu và bao quát rộng lớn trên vịnh và 
là cơ sở hậu cần và vị trí trung chuyển cho các hoạt 
động tác chiến xa bờ. Đảo BLV còn là một điểm 
sáng của văn hoá Việt Nam trên biển, mang đậm nét 
huyền thoại, một địa danh đẹp, thiên nhiên đẹp và 
sâu đậm tình yêu biển đảo nơi xa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Đức An, Uông Đình Khanh, 2012. Địa mạo 
Việt Nam: cấu trúc - tài nguyên - môi trường. 
Nxb. KHTN&CN. Hà Nội. 659tr. 
2. Cục Thống kê tỉnh các tỉnh phía Bắc (Quảng 
Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh 
Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng 
Bình), 2008. Niên giám Thống kê các tỉnh năm 
2007. Nxb. Thống kê. Hà Nội. 
3. Cục Thống kê Tp. Hải Phòng, 2012. Niên giám 
thống kê Tp. Hải Phòng 2011. Nxb. Thống kê. 
Hà Nội. 287tr. 
4. Lưu Văn Lợi, 2007. Những điều cần biết về Đất, 
Biển, Trời Việt Nam, 303tr. Nxb. Thanh Niên. 
Hà Nội. 
5. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Công 
Thung, Trần Đình Lân, Đinh Văn Huy, Phạm 
Hoàng Hải, 2011. Định hướng quản lý tổng hợp 
vùng bờ biển Bắc Bộ. Nxb. KHTN&CN. Hà Nội. 
250tr. 
6. Đức Thạnh, Lê Đức An, Nguyễn Hữu Cử, Trần 
Đình Lân, Nguyễn Văn Quân và Tạ Hoà 
Phương, 2012. Biển đảo Việt Nam - Tài nguyên 
vị thế và những kỳ quan địa chất, sinh thái tiêu 
biểu. Nxb. KHTN&CN. Hà Nội. 324tr. 
7. Thược, 2010. Nghề cá VBB qua những chặng 
đường điều tra nghiên cứu. Nxb. Nông nghiệp. 
Hà Nội. 200tr. 
8. Phạm Quang Trung, Nguyễn Quốc An, Đỗ Bạt, 
Đặng Vũ Khởi, 1997. Tài liệu mới về tuổi trầm 
tích Đệ Tam ở đảo Bạch Long Vĩ. Tài nguyên và 
Môi trường biển. T.IV. Nxb. KH&KT. Hà Nội. 
Tr. 81-87. 
9. Viện Nghiên cứu Trung Quốc, 2007. Khu kinh 
tế vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây). Tạp chí Nghiên 
cứu Trung Quốc. Số 5. Tr. 82-85. 
Tài nguyên vị thế địa - kinh tế và địa - chính trị  
 215 
GEO-ECONOMIC AND GEO-POLITIC POSITION 
RESOURCES OF THE BACH LONG VY ISLAND 
Tran Duc Thanh1, Le Duc An2 
1Institute of Marine Environment and Resources-VAST 
2Institute of Geography-VAST 
ABSTRACT: As a small island located near the approximately centre of The Gulf of Tonkin, the Bach 
Long Vi island possesses great values on geo-economic and geo-politic position resources. On the geo-
economic resources, the island is a priority site for the country’s sea-island economy development; a central 
location in the economic space of the Gulf f of Tonkin; belonging directly to Haiphong city-the biggest 
economic centre in the Northern coastal zone; an advantageous area to develop many marine services such as 
fishery logiistics, petroleum, tourism, seeking for/and rescue, health, environment, banking and telecom etc. On 
the geo-politic resources, the island possesses very great values on the determination, enlargement, and guard 
of national marine sovereignty and benefit; national defense and security concerning the country’s Northern 
Part; and sea-island culture with the deepfelt love of Vietnam country in the far island. 
Keywords: Bach Long Vi island, geo-economic and geo-politic position, resources. 

File đính kèm:

  • pdftai_nguyen_vi_the_dia_kinh_te_va_dia_chinh_tri_dao_bach_long.pdf