Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam
Tóm tắt
Thuật ngữ “tròn vành rõ chữ” từ lâu đã trở thành tiêu chuẩn, yêu cầu, quan niệm, không những đối với
ca hát cổ truyền dân tộc mà cả nghệ thuật “hát Mới”- hát bằng tiếng Việt với kỹ thuật thanh nhạc
phương Tây (chủ yếu kỹ thuật hát Bel Canto). Việc kết hợp kỹ thuật hát Bel Canto vào tác phẩm thanh
nhạc Việt Nam, đặc biệt là Opera Việt Nam sao cho vừa có thể có được âm thanh đạt yêu cầu mà vẫn
giữ được bản sắc dân tộc của tiếng Việt là một vấn đề không dễ dàng. Người làm công tác giảng dạy
thanh nhạc hay người nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu đều phải nghiên cứu, nắm rõ các vấn đề xử lý âm
tiết, nguyên âm, phụ âm, thanh điệu tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới của dân tộc. Tất cả những vấn
đề này đều cần được ứng dụng tốt trong quá trình giảng dạy, dàn dựng và biểu diễn trong ca hát và vẫn
đang được các học giả, các nhà chuyên môn tiếp tục quan tâm, nghiên cứu.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 123 Thể hiện “tròn vành rõ chữ” các tiết mục đơn ca giọng nữ cao trong các Opera Việt Nam “Full and clear singing concept” for Soprano performances in Vietnam’s Opera ThS. Nguyễn Khánh Trang, Nhạc viện TP.HCM Nguyen Khanh Trang, M.A., Ho Chi Minh City Conservatoire Tóm tắt Thuật ngữ “tròn vành rõ chữ” từ lâu đã trở thành tiêu chuẩn, yêu cầu, quan niệm, không những đối với ca hát cổ truyền dân tộc mà cả nghệ thuật “hát Mới”- hát bằng tiếng Việt với kỹ thuật thanh nhạc phương Tây (chủ yếu kỹ thuật hát Bel Canto). Việc kết hợp kỹ thuật hát Bel Canto vào tác phẩm thanh nhạc Việt Nam, đặc biệt là Opera Việt Nam sao cho vừa có thể có được âm thanh đạt yêu cầu mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc của tiếng Việt là một vấn đề không dễ dàng. Người làm công tác giảng dạy thanh nhạc hay người nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu đều phải nghiên cứu, nắm rõ các vấn đề xử lý âm tiết, nguyên âm, phụ âm, thanh điệu tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới của dân tộc. Tất cả những vấn đề này đều cần được ứng dụng tốt trong quá trình giảng dạy, dàn dựng và biểu diễn trong ca hát và vẫn đang được các học giả, các nhà chuyên môn tiếp tục quan tâm, nghiên cứu. Từ khóa: tròn vành rõ chữ, Opera Việt Nam, trích đoạn, tiếng Việt, kỹ thuật thanh nhạc phương Tây, biểu diễn. Abstract The musical term “full and clear singing” has been long used to describe the standard and the concept not only for folk music but also for “the new singing concept”, i.e. singing in Vietnamese by using Western vocal music techniques (mainly known as Bel Canto). It is not easy to apply Bel Canto techniques in Vietnamese music works, especially Vietnam’s Opera, while retaining its traditional core values. Vocal teachers or performers have to study and master the Vietnamese syllables, vowels, consonants, rhythm and intonation in “the new singing concept” techniques. Those issues need to receive good application and adaptation in teaching, directing and performance from music researchers, authors and gurus. Keywords: full and clear singing, Vietnam’s Opera, performance, Vietnamese language, Western vocal music techniques. 1. Đặt vấn đề Nghệ thuật ca hát với “kỹ thuật hát đẹp” của nền âm nhạc kinh viện Châu Âu (Bel Canto - hay còn gọi là “nghệ thuật hát Mới”) đã du nhập và trở thành thịnh hành ở nước ta từ giữa thế kỷ XX khi các trường âm nhạc chuyên nghiệp ra đời (trường Âm nhạc Việt Nam, trường Quốc gia Âm nhạc Sài gòn năm 1956). Nền Tân nhạc Việt Nam đã hết sức chủ động đưa “Nghệ thuật THỂ HI N “TRÒN VÀNH RÕ CHỮ” CÁC TIẾT MỤC ĐƠN CA GIỌNG NỮ CAO TRONG CÁC OPERA VI T NAM 124 hát Mới” xâm nhập vào nghệ thuật ca hát Việt Nam khi Đảng và Nhà nước gửi nhiều nhạc sĩ, ca sĩ du học ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, khi các chuyên gia thanh nhạc Nga (Liên Xô cũ), Triều Tiên... sang Việt Nam tập huấn, dàn dựng các vở Opera như: “Evgeni Onegin” của Tchaikovsky, “Núi rừng lên tiếng” của Triều Tiên... cho các nghệ sĩ, diễn viên Việt Nam hát bằng tiếng Việt. Cũng từ những khởi đầu này, những năm tiếp theo là sự ra đời, dàn dựng và biểu diễn một số vở Opera Việt Nam mà vở đầu tiên đã gây được tiếng vang lớn đó là vở “Cô Sao” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Có thể kể đến những gương mặt nghệ sĩ, giảng viên thuộc thế hệ đầu tiên như: Quốc Hương, Mai Khanh, Trần Thụ, Ngọc Dậu, Trần Hiếu, Kim Ngọc, Trung Kiên, Quốc trụ v.v... những người đã xây dựng, phát triển với nhiều sáng tạo trong nghệ thuật hát Bel Canto không chỉ đóng góp xây dựng nên sân khấu Opera Việt Nam mà còn có những đóng góp xuất sắc cho nền âm nhạc cách mạng trong các lĩnh vực đào tạo và biểu diễn. Bên cạnh đó, cũng không ít những giọng hát được đào tạo bài bản, chính quy ở trong nước cũng như ở nước ngoài nhưng khi thể hiện tác phẩm bằng tiếng Việt thì không đạt được yêu cầu “tròn vành, rõ chữ”. Có thể, do lạm dụng kỹ thuật thanh nhạc Bel Canto, do việc đóng, mở chữ không hợp lý, do “hát mở” quá nên không rõ lời, “tròn vành” nhưng không "rõ chữ" hoặc “hát khép” quá âm thanh bị khô, cứng... đã tạo nên những câu hát mà người nghe chỉ “lờ mờ” nhận thức được giai điệu mà không thể hiểu đang “được nghe” điều gì (!). Chính yêu cầu phải thể hiện “rõ chữ” để người Việt có thể hiểu được chính... tiếng Việt nên đã có nhiều những công trình nghiên cứu, những cuốn sách, những bài báo khoa học khẳng định về sự tất yếu, tầm quan trọng của sự “tròn vành, rõ chữ" trong ca hát bằng tiếng Việt của rất nhiều tác giả, tiến sĩ, giáo sư... thuộc các lĩnh vực ngôn ngữ học, âm nhạc học: “Sự tròn vành rõ chữ của tiếng hát dân tộc” của tác giả Vĩnh Long đã nhấn mạnh sự rõ lời là thuộc tính tất yếu của nghệ thuật ca hát, cần phải nắm vững cấu âm tiếng Việt để bảo đảm sự rõ lời của giọng hát [11, tr.26 ]; Công trình ngữ âm học Việt Nam về “Những vấn đề liên quan đến thanh nhạc” của tác giả Văn Cẩn; “Sách học thanh nhạc” của tác giải Mai Khanh; "Phương pháp sư phạm thanh nhạc” của tác giả Nguyễn Trung Kiên; “Thanh điệu tiếng Việt và âm nhạc cổ truyền” của tác giả Hoàng Kiều; “Phương pháp dạy thanh nhạc” của tác giả Hồ Mộ La; “Phương pháp hát tốt tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát” của tác giả Trần Ngọc Lan; “Phát âm tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát” của tác giả Võ Văn Lý; “Xử lý ngôn ngữ vùng miền trong đào tạo thanh nhạc...” của tác giả Trương Ngọc Thắng v.v... “Tròn vành, rõ chữ” tiếng Việt trong thể hiện các tác phẩm thanh nhạc Việt mà vẫn sử dụng tốt “kỹ thuật hát đẹp” của nền âm nhạc kinh viện Châu Âu đã trở thành một yêu cầu, một vấn đề được nhiều học giả, nhà chuyên môn nghiên cứu. Người làm công tác giảng dạy thanh nhạc hay người nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu đều phải nghiên cứu, nắm rõ các vấn đề xử lý âm tiết tiếng Việt, xử lý nguyên âm tiếng Việt, xử lý phụ âm tiếng việt, xử lý thanh điệu tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới của dân tộc. Tất cả những vấn đề này đều cần được ứng dụng tốt trong quá trình giảng dạy, dàn dựng và biểu diễn trong ca hát, trong sự kết hợp giữa hát tiếng Việt bằng kỹ thuật thanh nhạc phương Tây NGUYỄN KHÁNH TRANG 125 [ 7,tr.60 - 114 ]. 2. Kết hợp kỹ thuật hát Bel Canto và yêu cầu “tròn vành rõ chữ” trong thể hiện Opera Việt Nam Có thể thấy rằng, hát Opera Việt Nam – một thể loại âm nhạc “vua” của nền âm nhạc kinh viện Châu Âu, với yêu cầu sử dụng kỹ thuật “hát đẹp” phương Tây bằng ngôn ngữ tiếng Việt nhiều đặc điểm riêng và để đạt được yêu cầu hát chuẩn, “Tròn vành rõ chữ”... quả là một điều không dễ dàng. Có hai vấn đề lớn nảy sinh là: (1) Thể hiện âm nhạc với kỹ thuật hát đẹp Bel Canto và (2) thể hiện hình tượng âm nhạc thông qua ngôn ngữ tiếng Việt với nhiều đặc điểm riêng. Nghệ thuật hát cổ điển châu Âu và thế giới là lối hát Bel canto, với kỹ thuật “hát mở” âm, tạo độ vang lớn, âm thanh nghe sáng đẹp, trong chuyên ngành thanh nhạc hay gọi là "lối hát mở", phù hợp với ngôn ngữ đơn thanh đa âm tiết như tiếng Pháp, Anh, Nga, Đức, đặt biệt là tiếng Ý (ngôn ngữ của âm nhạc)... trong khi đó tiếng Việt lại là ngôn ngữ đơn âm, đa thanh, có dấu giọng, nhiều âm đóng hơn âm mở, phù hợp với “lối hát đóng” (hát khép) hơn. Việc kết hợp kỹ thuật hát Bel Canto vào các tác phẩm thanh nhạc Việt Nam, đặc biệt là trong Opera Việt Nam sao cho vừa có thể có được âm thanh đạt yêu cầu mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc của tiếng Việt là một “vấn đề” cần nghiên cứu. Để người nghe cảm thấy không bị “cưỡng âm”, âm thanh không bị biến dạng, từ ngữ không bị sai nghĩa, không làm giảm đi chất lượng nghệ thuật của tác phẩm thanh nhạc, bảo đảm chuẩn mực “tròn vành rõ chữ”... đòi hỏi người hát ngoài việc được trang bị những kỹ thuật hát cần thiết, âm thanh ổn định, một cột hơi vững chắc..v.v, cần phải nắm vững kiến thức cơ bản về cấu trúc âm thanh tiếng Việt, những chuyển động về đóng âm, mở âm của tiếng Việt. PGS. TS. Trần Ngọc Lan nhận định: "Nghệ thuật ca hát phong phú, đa dạng, đa phong cách, đa thể loại. Người hát muốn hát tốt tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới, ngoài những yếu tố cần có như giọng hát tốt, kỹ thuật thanh nhạc tốt, kiến thức âm nhạc, cảm nhận âm nhạc, kỹ năng thể hiện, biểu diễn,... biết chọn lựa thể loại, phong cách cho phù hợp với sở thích, giọng hát, khả năng của mình (thính phòng cổ điển, dân gian, nhạc nhẹ,...) còn cần phải tìm hiểu đặc điểm, cấu trúc, nắm vững những kiến thức cơ bản chuyển động đóng âm, mở âm của ngôn ngữ tiếng Việt" [7, tr.110]. PGS. TS. Trần Ngọc Lan cũng đã đưa ra những phần luyện tập, một số giải pháp, bài tập nâng cao chất lượng hát tiếng Việt vừa có tính lý thuyết vừa có tính thực hành và ứng dụng như: luyện tập nguyên âm, luyện tập phụ âm đầu kết hợp với vần đóng, luyện tập một số làn điệu trong nghệ thuật ca hát truyền thống ứng dụng vào nghệ thuật hát mới... [7, tr.75-109]. Đây là một tài liệu quý rất tốt cho những người làm công tác sư phạm thanh nhạc, biểu diễn và nghiên cứu chuyên ngành thanh nhạc. Đối với người nghệ sĩ biểu diễn, nhất là những nghệ sĩ của dòng nhạc thính phòng cổ điển, hát bằng tiếng Việt với kỹ thuật Bel Canto thì xử lý tác phẩm, xử lý phát âm tiếng Việt sao cho được “tròn vành rõ chữ”, không bị “cưỡng âm”, chuyển tải được nội dung, cảm xúc của tác phẩm đến người nghe là điều rất quan trọng. Những khó khăn thường bắt đầu từ hai nguyên do: yếu tố chủ quan và khách quan. 2.1. Yếu tố chủ quan Do người hát quá chú trọng đến kỹ thuật thanh nhạc, vận dụng lối hát cộng minh. để khuếch đại âm thanh, mở rộng tầm THỂ HI N “TRÒN VÀNH RÕ CHỮ” CÁC TIẾT MỤC ĐƠN CA GIỌNG NỮ CAO TRONG CÁC OPERA VI T NAM 126 cữ, âm thanh phát ra nghe “tròn vành” nhưng không rõ lời, rõ chữ. Ví dụ: Trong Aria của Sao tiết mục 2 màn1, vở "Cô Sao" (tác giả Đỗ Nhuận) Trong tác phẩm này, người hát phải lưu ý ở câu hát nói: “Không, không....ta không phải là ma..” Chúng tôi đã làm một cuộc khảo sát nhỏ ngay tại lớp thanh nhạc có khoảng hơn 10 sinh viên đại học và trung cấp, khi cho các em nghe đoạn hát này do một vài nghệ sĩ thể hiện.. thì hầu hết các em ghi nhận kết quả nghe được là: “Không, không... đó không phải là mơ....”, nguyên âm A bị nghiêng nhiều về O (và cả Ô, Ơ nữa). Như vậy, từ “TA” ĐÓ, và từ “MA” MƠ. Điều đó chứng tỏ các nghệ sĩ hát rất chú trọng đến vị trí âm thanh, độ vang, độ mở của âm thanh nhưng chưa chú ý nhiều đến nghệ thuật phát âm, nhả chữ tiếng Việt sao cho “tròn vành rõ chữ” để người nghe nhận biết được hiểu được ngữ nghĩa của câu hát. PGS. TS. Trần Ngọc Lan nhận định: “Nghệ thuật Bel Canto - nghệ thuật hát Mới, nếu vận dụng một cách máy móc, thiếu sáng tạo vào hát tiếng Việt sẽ có âm thanh mà không rõ lời, mở rộng âm vang và tầm cữ giọng nhưng quá trình đóng, mở, kết thúc từ không giữ được yếu tố cơ bản của tiếng Việt, nghe không rõ lời, giống người nước ngoài hát tiếng Việt (trai với tai nghe, thẩm mỹ truyền thống). Hoặc người hát có thể hát rất tốt khi hát, biểu diễn tác phẩm thanh nhạc nước ngoài nhưng hát không hay hoặc không thích hát ca khúc tiếng Việt”. [7, tr.13]. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: ở đây không có một cái khung chuẩn nào, hay một phương pháp biểu hiện nào để đạt được kết quả tuyệt đối cả, mà nó hoàn toàn được rút ra qua kinh nghiệm, trải nghiệm, kỹ năng, cảm nhận... của riêng mỗi người nghệ sĩ trong quá trình ca hát, biểu diễn trên sân khấu, và sự cân đối giữa kỹ thuật hát cổ điển, nghệ thuật diễn viên (tính kịch trên sân khấu), nghệ thuật phát âm (tiếng Việt)... của mỗi người đến người nghe mà thôi . 2.2. Yếu tố khách quan + Do những đặc điểm riêng của tiếng Việt (âm đóng, âm khép nhiều, có nhiều âm mũi v.v...), cấu âm của tiếng Việt (âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối, dấu giọng v.v...) trong khi phải kết hợp với lối hát “Mở” của kỹ thuật Bel Canto sẽ tạo nên những hạn chế. Điển hình qua Aria chính của nhân vật Sao “Em nghĩ sao không ra..”, trích opera “Cô Sao”, (tác giả Đỗ Nhuận). NGUYỄN KHÁNH TRANG 127 Đây là Aria hay và khó nhất của vở Opera này. Có những chỗ nhảy quãng nghịch rất khó hát, âm đóng "biết" hát luyến nhanh ở nốt La (quãng tám thứ 2) nhả chữ cẩn thận nếu không, từ “BIẾT” sẽ trở thành “BIẾN”. Nhiều chỗ hát với sắc thái to, nhỏ, nhiều nốt ngân dài, đòi hỏi người nghệ sĩ phải có một cột hơi vững chắc, âm thanh phải ổn định, biết tiết chế cảm xúc, biết xử lý ngôn ngữ nhất là ở những chỗ có nốt cao, ngân dài và hát với âm đóng. Có như vậy mới chuyển tải được tác phẩm đến người nghe như một lời tự tình sâu sắc với nhiều khắc khoải trong lòng với giai điệu đẹp, nhẹ nhàng, đôi lúc trào dâng nghẹn ngào, thể hiện nhiều màu sắc cảm xúc của tình yêu. + Do người sáng tác tác phẩm cho thanh nhạc chưa quan tâm đến những đặc trưng cơ bản của tiến trình đóng âm, mở âm, cấu trúc âm, cũng như một số đặc điểm khác của tiếng Việt mà chỉ quan tâm đến nội dung, cảm xúc âm nhạc. Người hát khi thể hiện phải có những kinh nghiệm, trải nghiệm của bản thân cũng như kinh nghiệm của những người đi trước đúc kết được từ thực tiễn để xử lý, khắc phục những nhược điểm của ca từ, thể hiện được âm nhạc với những ràng buộc của phát âm tiếng Việt nhằm chuyển tải được cảm xúc, nội dung tác phẩm đến người nghe một cách rõ ràng. Điều này đòi hỏi người hát cũng cần có thêm kiến thức về văn học và người sáng tác cũng cần có kiến thức về ca hát. Theo tác giả Hoàng Kiều: “Ở Trung Quốc, người học sáng tác cho thanh nhạc phải học cả hát” [7, tr.67]. Trong tổng phổ vở "Cô Sao" của nhạc sĩ Đỗ Nhuận (bản chép tay đến nay vẫn còn giữ lại được), ở trang cuối ông đã viết như sau: “Kỹ thuật áp dụng nhiều ở phần dàn nhạc, còn thanh nhạc cố ý làm cho quần chúng dễ nghe được lời”. Chúng tôi rất tâm đắc vấn đề này bởi như vậy mới có được một tác phẩm hoàn thiện từ người sáng tác, người biểu diễn đến người nghe.Đây cũng chính là sáng tạo của các nhạc sĩ Việt Nam trong việc viết Opera theo xu hướng dân tộc hoá [13, tr.127]. Và đây cũng chính là đặc điểm quan trọng của các giọng hát, nhất là giọng nữ cao trong các vở Opera Việt Nam. Người hát muốn hát chuẩn “tròn vành rõ chữ” trước hết phải nói chuẩn vì nói chuẩn sẽ giúp hát chuẩn và để hát chuẩn, hát “tròn vành rõ chữ” người hát cần luyện nói tiếng Việt ngay trong tác phẩm mình muốn thể hiện trước, phát âm đúng qui luật chuyển động, phối hợp các nguyên âm, phụ âm, âm đóng, âm mở, các dấu giọng... Sau đó, kết hợp lời hát vào giai điệu của tác phẩm, người hát cần nghiên cứu cách luyện thanh kết hợp những mẫu âm với nguyên âm, phụ âm, dấu giọng của tiếng Việt [7, tr.75-114], nếu có những chỗ vẫn chưa rõ lời được (do tác phẩm có giai điệu cưỡng âm, khó hát) trừ trường hợp nội dung, tính cách nhân vật yêu cầu thể hiện (như đối với nhân vật là người thuộc dân tộc thiểu số - cần thể hiện giọng nói - cách nói tiếng Việt “lơ lớ”) thì người hát buộc phải xử lý bằng cách thêm vào nốt hoa mỹ, nốt luyến ngay phía trước nốt để làm rõ dấu giọng. Có thể luyến lên hoặc luyến xuống để làm rõ dấu giọng cũng như cân đối được độ ngân, độ ngắt sao cho phù hợp tương đối nhất là với những từ kết bằng âm đóng mà phải hát ở nốt cao, nốt ngân dài Có những trường hợp người hát phải linh động (bất khả kháng) đổi bằng một từ khác tương đương, đồng nghĩa, với mục tiêu hát được rõ lời mà vẫn giữ được ngữ nghĩa của lời hát (đòi hỏi người hát có cả kiến thức cơ bản về âm nhạc và văn học). Một điển hình như trong Opera THỂ HI N “TRÒN VÀNH RÕ CHỮ” CÁC TIẾT MỤC ĐƠN CA GIỌNG NỮ CAO TRONG CÁC OPERA VI T NAM 128 “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” của Nhạc sĩ Đỗ Nhuận, các trích đoạn thanh nhạc mang đậm chất âm nhạc cổ truyền như dân ca Nam bộ, dân ca Bắc bộ, Chèo, Ca trù, Hát đối đáp Người hát cần nghiên cứu kỹ và ứng dụng kỹ thuật và kinh nghiệm xử lý ngôn ngữ của nghệ thuật ca hát truyền thống vào tác phẩm qua sách “Phương pháp hát tốt tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát” của PGS. TS. Trần Ngọc Lan, sẽ giúp ích rất nhiều trong vấn đề phát âm, nhả chữ, làm rõ tính chất đặc trưng của từng vùng miền được sử dụng trong tác phẩm. Ví dụ: Bài hát của nhân vật Trúc (Nguyễn Thị Lộ), Opera “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”. Tiết mục số 3 màn 1, được viết ở giọng c-moll. Lấy bối cảnh là chợ hoa ngày Tết giữa cô Trúc và những cô gái khác. Trước khi vào bài hát là hợp xướng Nữ với âm hưởng vui tươi, rộn ràng trong giai điệu bài “Tứ Quí” Chèo. Hay trong Aria của Đào Xuân, Opera “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”. Tiết mục số 6 của màn 1, đoạn đầu của tác phẩm được viết ở giọng d- moll. - Đây là một Aria rất đặc sắc, pha trộn và sử dụng nhiều chất liệu trong Âm nhạc Cổ Truyền (dân ca Nam Bộ, dân ca Bắc Bộ, Ca Trù, hát đối đáp...), giai điệu man mác buồn, nhiều chỗ nhịp chẻ (đảo phách), tốc độ chậm rãi, lời ca theo thể thơ dân gian Việt Nam (song thất lục bát), đậm chất Oán trong dân ca Nam Bộ. NGUYỄN KHÁNH TRANG 129 Hay trong Aria “Chờ mong” vai H'Lim, trích Opera “Bên bờ K’rông Pa” của nhạc sĩ Nhật Lai. Đây là một Aria trữ tình, kịch tính rất khó, âm vực rộng. Tác phẩm có nhiều chỗ luyến láy, nhiều biến Âm, nhiều nốt cao ngân dài ở La2, Si2 và nhảy quãng 8 với nốt cao sol1- sol2 ở ô nhịp số 3; chú ý phát âm chuẩn từ “rộn rã” (phân biệt rõ sự khác nhau giữa các phụ âm: r, gi, d). Có thể nói Aria này rất hay và rất khó hát cho tròn chữ, rõ chữ. 3. Kết luận Thuật ngữ "tròn vành rõ chữ" từ lâu đã trở thành tiêu chuẩn, yêu cầu, quan niệm không những đối với ca hát cổ truyền dân tộc và cả nghệ thuật ca hát bằng ngôn ngữ tiếng Việt với kỹ thuật thanh nhạc phương Tây. Các dân tộc trên thế giới có thể học tập kỹ thuật thanh nhạc, thể hiện âm nhạc bằng các loại giọng hát... của nhau nhưng vận dụng để thể hiện bằng các ngôn ngữ khác nhau thì không thể hoàn toàn “sơ cứng”, hoàn toàn giống nhau, bởi, tiếng nói các dân tộc đều có những điểm khác biệt. Bảo đảm cho tiếng hát rõ lời cũng là một biểu hiện cụ thể về tính khoa học của mọi phương pháp ca hát mà mỗi dân tộc trên thế giới luôn phải cố gắng, phấn đấu để tạo ra cho mình một phương pháp ca hát riêng. Điều quan trọng hơn là chúng ta (cả người biểu diễn và người sáng tác) có điều kiện học hỏi, tiếp thu cái hay cái đẹp về văn hóa, nghệ thuật, tinh hoa âm nhạc thế giới, cả phương Đông lẫn phương Tây nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc của dân tộc Việt Nam. Như vậy, mới không ngừng làm giàu cho nền âm nhạc của nước nhà. Những nhạc sĩ Việt Nam cũng đã thấm nhuần và phát huy được những giá trị ấy khi viết nên những vở Opera Việt Nam. Học tập lối hát Bel Canto của châu Âu nhưng các nhạc sĩ Việt Nam vẫn chú trọng sự hài hòa giữa kỹ thuật thanh nhạc và phát âm tiếng Việt để sáng tác nên những vở Opera Việt Nam phù hợp với tai nghe, phù hợp với khả năng hát Opera bằng tiếng Việt của người Việt Nam. Trong các vở Opera Việt Nam, những trích đoạn viết cho thanh nhạc, đặc biệt là những trích đoạn dành cho giọng nữ cao (Soprano) - giọng hát với vai diễn chính trong vở thường được viết với kỹ thuật không quá khó hay quá phức tạp, tốc độ không quá nhanh và âm vực giọng hát không quá rộng bởi các nhạc sĩ đã chú ý đến yếu tố hát rõ lời hơn là vận dụng nhiều những kỹ thuật quá phức tạp vào giọng hát. Và, chúng tôi đồng quan điểm với những nghiên cứu, những nhận định của các tác giả đã nêu trên và cũng đồng quan điểm với ý kiến của PGS. TS. Trần Ngọc Lan: “...Yếu tố về ngôn ngữ, xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong nghệ thuật hát Bel Canto THỂ HI N “TRÒN VÀNH RÕ CHỮ” CÁC TIẾT MỤC ĐƠN CA GIỌNG NỮ CAO TRONG CÁC OPERA VI T NAM 130 cho đến nay vẫn tiếp tục có nhiều vấn đề cần quan tâm, tìm hiểu, phân tích và khắc phục. Những vướng mắc cần được tiếp tục nghiên cứu, sáng tạo và bổ sung không chỉ giới hạn trong phạm vi ngôn ngữ mà cả trong quan niệm và thẩm mỹ, tai nghe truyền thống về nghệ thuật ca hát” [7, tr.14]. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn Cẩn (1997), Công trình ngữ âm học Việt Nam - “Những vấn đề liên quan đến thanh nhạc”. 2. Phạm Đình Hổ (2012), Vũ trung tuỳ bút, Nxb Trẻ. 3. Nguyễn Trung Kiên (2001), “Phương pháp sư phạm thanh nhạc”, Viện Âm Nhạc Hà Nội. 4. Hoàng Kiều (2001), Thanh điệu tiếng Việt và âm nhạc cổ truyền, Viện Âm Nhạc, Hà Nội. 5. Hồ Mộ La (2008), Lịch sử nghệ thuật thanh nhạc phương Tây, Nxb Từ điển Bách Khoa. 6. Hồ Mộ La (2008), Phương pháp dạy thanh nhạc, Nxb Từ điển Bách Khoa. 7. Trần Ngọc Lan (2011), Phương pháp hát tốt tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát, Nxb Giáo Dục Việt Nam. 8. Vũ Tự Lân (1997), Những ảnh hưởng của âm nhạc Châu Âu trong ca khúc Việt Nam giai đoạn 1930-1950, Nxb Thế Giới. 9. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2002), “Âm nhạc dân tộc học - Phương pháp biện chứng trong nghiên cứu những truyền thống âm nhạc ngoài nền âm nhạc cổ điển châu Âu”, Tạp chí Thông Báo Khoa Học, Viện Âm Nhạc, (số 7, tháng 7- 12/2002). 10. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2015), Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học dành cho Đại học, Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh. 11. Vĩnh Long (1976), Sự tròn vành rõ chữ của tiếng hát dân tộc, Nxb Văn Hóa. 12. Võ Văn Lý (2011), “Phát âm tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát”, luận án Tiến Sĩ. 13. Nguyễn Thị Tố Mai (2012), Opera trong sự phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sĩ - Học viện âm nhạc Hà Nội. 14. Trương Ngọc Thắng (2014), Xử lý ngôn ngữ vùng miền trong đào tạo thanh nhạc khu vực miền Trung - Tây Nguyên, Hội Nhạc Sĩ Việt Nam. 15. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ (2002), Tự điển văn hoá dân gian, Nxb Văn Hóa. * Một số DVD, kịch bản, tổng phổ, trích đoạn của các vở Opera như: _ “Người giữ Cồn” của nhạc sĩ Ca Lê Thuần; “Cô Sao”, “Người tạc tượng”, “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận;”Bên bờ K rông Pa” của nhạc sĩ Nhật Lai, “Bông Sen” của nhạc sĩ Hoàng Việt; “Tình yêu của em” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn; “Lá đỏ” của nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân. Ngày nhận bài: 17/02/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017
File đính kèm:
- the_hien_tron_vanh_ro_chu_cac_tiet_muc_don_ca_giong_nu_cao_t.pdf