Thực tiễn xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Nhóm nghiên cứu (NNC) được coi là tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo. Việc xây dựng và phát triển các NNC trong các trường đại học có ý nghĩa quan trọng, then chốt trong việc nâng cao tiềm lực khoa học - Công nghệ và chất lượng đào tạo của nhà trường. Bài báo này trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về NNC, đánh giá thực trạng các NNC trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay; những kết quả đạt được, thuận lợi, cũng như các khó khăn, hạn chế; bước đầu đề xuất việc xây dựng và ban hành chính sách nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển NNC. Bên cạnh đó, bài báo cũng đề xuất các tiêu chí cơ bản để phân loại và đánh giá NNC trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay

pdf 7 trang yennguyen 9300
Bạn đang xem tài liệu "Thực tiễn xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực tiễn xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay

Thực tiễn xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay
17
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
Đặt vấn đề
NNC có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong các 
trường đại học. Việc hình thành các NNC trong các trường đại 
học cũng như là tác động của nó đến hoạt động nghiên cứu 
khoa học (NCKH), đào tạo; vai trò và mối quan hệ nghiên cứu 
- đào tạo (bao gồm cả việc giảng dạy của giảng viên và học tập 
của sinh viên) đã được không ít tác giả trong và ngoài nước 
quan tâm nghiên cứu. 
Để có cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc ban hành các 
chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động của các NNC, 
thông qua kết quả khảo sát hiện trạng của một số NNC, bài viết 
đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng và phát triển các NNC 
trong các trường đại học hiện nay. 
Cơ sở lý luận, tổng quan và phương pháp nghiên cứu
Một trong những khái niệm khá kinh điển về NNC được 
Adrews [1] định nghĩa từ năm 1979, là một nhóm gồm có tối 
thiểu 3 người cùng làm việc với nhau tối thiểu trong 6 tháng và 
có kỳ vọng làm việc với nhau tối thiếu trong vòng 1 năm. Cũng 
tác giả Adrews [2] đã khảo sát khoảng 10.000 nhà khoa học 
trong 1.200 đơn vị của 6 nước, với các NNC từ 4 đến 40 thành 
viên và đưa ra nhận xét là tiêu chí và hiệu quả của NNC được 
đánh giá thông qua các tham số chủ yếu như: các bài báo được 
công bố, số trích dẫn các công trình công bố, số sách được xuất 
bản, số kinh phí từ các đề tài/dự án mà NNC đấu thầu được cho 
hoạt động nghiên cứu, các phát minh sáng chế, các phần mềm 
tính toán, sản phẩm nghe nhìn... Trong đó, số lượng bài báo và 
số trích dẫn là những tham số được cho là cơ bản nhất. Những 
tiêu chí khác cũng được đề cập để đánh giá hiệu quả của NNC 
là danh tiếng của nhóm, sự đảm bảo được tài chính cho hoạt 
động của nhóm, khả năng ứng dụng của các thành tựu nghiên 
cứu vào thực tiễn cũng như nhuệ khí của các thành viên trong 
nhóm.
Tác giả Nobahar [3] nghiên cứu về mức độ liên kết giữa 
các giảng viên trong hoạt động NCKH của các trường đại học 
tại Kermanshah cho thấy, sự liên kết giữa các giảng viên trong 
NCKH vướng các rào cản bao gồm: tài chính, học thuật, con 
người, cơ sở, chuyên môn và quản lý. Để nâng cao hiệu quả 
hoạt động của các NNC, tác giả đề xuất những giải pháp bao 
gồm: tăng cường liên kết đào tạo về học thuật với các nước 
khác; gia tăng sự hợp tác giữa các giảng viên trong các trường 
đại học khác nhau; tăng cường sự thu hút với những sinh viên, 
nhà nghiên cứu tài năng; gia tăng kinh phí cho các nhà nghiên 
cứu; tăng cường trang thiết bị và phương tiện cần thiết tại các 
trường đại học; tăng cường thông tin liên lạc, kết nối giữa nhà 
trường và doanh nghiệp; giảm thủ tục hành chính.
Nghiên cứu về các rào cản trong việc hình thành và phát 
triển NNC trong trường đại học, tác giả Main [2] đưa ra bảng 
đánh giá những nhân tố khác tác động đến NNC như: thái độ 
tích cực, thành viên NNC là những giáo viên có nhiều kinh 
nghiệm nghiên cứu, việc tuyển chọn thành viên NNC, hoạt 
động đào tạo trong nhóm, công nhận lợi ích trong nhóm, kỹ 
Thực tiễn xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu 
trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay
Nguyễn Thị Thu Hà1, Nguyễn Đình Đức2*
1Vụ Khoa học xã hội, Nhân văn và Tự nhiên, Bộ Khoa học và Công nghệ
2Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày nhận bài 11/2/2019; ngày chuyển phản biện 14/2/2019; ngày nhận phản biện 26/3/2019; ngày chấp nhận đăng 29/3/2019
Tóm tắt:
Nhóm nghiên cứu (NNC) được coi là tế bào của hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo. Việc xây dựng và phát 
triển các NNC trong các trường đại học có ý nghĩa quan trọng, then chốt trong việc nâng cao tiềm lực khoa học - 
công nghệ và chất lượng đào tạo của nhà trường. Bài báo này trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu trong và 
ngoài nước về NNC, đánh giá thực trạng các NNC trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay; những kết quả 
đạt được, thuận lợi, cũng như các khó khăn, hạn chế; bước đầu đề xuất việc xây dựng và ban hành chính sách nhằm 
thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển NNC. Bên cạnh đó, bài báo cũng đề xuất các tiêu chí cơ bản để phân 
loại và đánh giá NNC trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay. 
Từ khóa: các giải pháp thúc đẩy NNC trong các trường đại học, nhóm nghiên cứu (NNC), thực trạng các NNC ở 
Việt Nam, tiêu chí NNC. 
Chỉ số phân loại: 5.3
*Tác giả liên hệ: ducnd@vnu.edu.vn
18
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
năng quản trị xung đột, sự hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý, kỹ 
năng thiết lập mối quan hệ, hoạt động tự đánh giá và đánh giá 
trong nhóm. Trong đó, tác giả nhấn mạnh những thành viên 
của NNC cần hiểu được quá trình làm việc nhóm, bao gồm: 
quy tắc hoạt động, mục tiêu, vai trò của nhóm; thời gian lên kế 
hoạch chung; cách giao tiếp và nghi thức khi họp nhóm; sự ổn 
định của các thành viên. Những nhân tố thuộc nhà trường bao 
gồm: cơ sở vật chất, thói quen và truyền thống trong hợp tác 
NCKH, sự ủng hộ và hỗ trợ của các nhà quản lý; sự ổn định 
của các nhân viên. 
Qua các nghiên cứu khảo sát, Bland và Ruffin [4] đã chỉ 
ra khá đầy đủ, bao gồm 12 yếu tố tác động trực tiếp đến hiệu 
quả hoạt động của NNC là: mục tiêu rõ ràng (1); tập trung cho 
nghiên cứu (2); văn hóa của tổ chức (3); môi trường tích cực 
của NNC (4); sự tác động của các bộ phận hành chính (5); cách 
thức tổ chức nghiên cứu (6); sự trao đổi thường xuyên, trực tiếp 
với nhau trong nhóm (7); nguồn nhân lực (8); quy mô, độ tuổi 
và tính đa dạng của nhóm (9); các giải thưởng và sự khích lệ 
(10); khả năng tuyển và lựa chọn thành viên (11); sự lãnh đạo 
xuất sắc (12). 
Nghiên cứu của Beaver và Rosen [5] cũng đã chỉ ra tầm 
quan trọng của việc hình thành và phát triển cũng như sự cần 
thiết phải làm việc nhóm trong một NNC. Theo các tác giả, sự 
gia tăng các hoạt động liên ngành, tính phức tạp kèm theo chi 
phí cao trong khoa học hiện đại buộc các nhà khoa học phải 
hợp tác với nhau và chính sự hợp tác này sẽ hình thành mạng 
lưới khoa học rộng rãi, giúp chia sẻ kiến thức, chuyển giao 
công nghệ một cách nhanh chóng. 
Không chỉ dừng ở khuôn khổ một NNC, Bertolotti và các 
cộng sự [6] đã nghiên cứu về hiệu quả của MTM (Multiple 
team membership), khi thành viên NNC tham gia đồng thời 
vào nhiều nhóm khác nhau. Trong [6], các tác giả cũng đã chỉ 
ra hiệu quả của việc sử dụng công nghệ hiện đại để trao đổi hợp 
tác, giao tiếp công tác (nhắn tin, skype, email...) cũng như vai 
trò của môi trường xã hội nơi làm việc của các thành viên NNC 
và mối quan hệ giữa các tham số đó.
Kim và Bak [7] đã công bố kết quả nghiên cứu về ảnh 
hưởng của chính sách đến việc hợp tác giữa các thành viên của 
nhóm và thành tựu của NNC. Các tác giả nghiên cứu số liệu 
của các nhà khoa học trong lĩnh vưc nhân học và xã hội học của 
Hàn Quốc. Kết quả cho thấy, hoạt động nghiên cứu của nhóm 
cần được quan tâm song song cùng lúc với việc thúc đẩy sự 
nghiệp cũng như kiến thức của từng nhà khoa học; đồng thời 
các tổ chức phải đáp ứng, khuyến khích, khen thưởng kịp thời 
và xứng đáng các nhà khoa học để thúc đẩy họ có động lực 
nghiên cứu và cộng tác. 
Jeong và Choi [8] tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ 
giữa các thành viên cộng tác. Mục đích của nghiên cứu này là 
diễn tả thực tiễn các yếu tố liên quan đến đặc điểm NNC, động 
lực và quá trình ảnh hưởng đến chỉ số ảnh hưởng (research 
impact) của các công bố của các thành viên trong NNC, từ 
đó đề xuất phải tổ chức và quản lý một NNC cộng tác thế nào 
cho làm tăng hiệu quả nghiên cứu (research impact). “Research 
impact” được đo bằng số lần mà một bài báo được trích dẫn 
bởi những bài báo sau và IF của tạp chí, nơi xuất bản bài báo. 
Những kết quả nghiên cứu khảo sát trong [8] cho thấy, cùng 
với những tác nhân định lượng và định tính, những tác nhân 
đầu vào như: động lực nhóm làm đề tài, việc tổ chức, lãnh đạo 
nhóm, sự gặp mặt và trao đổi thường xuyên, việc liên kết với 
cộng tác viên ngoài nhóm nhiều hơn, nhiều nguồn lực hơn, việc 
phân công đều hơn đều làm tăng hiệu quả của research impact. 
Như vậy có thể thấy, có nhiều tác giả nước ngoài đã công bố 
các kết quả nghiên cứu của mình liên quan đến NNC, đánh giá 
vai trò và tìm hiểu các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động 
của NNC. Những nghiên cứu này ảnh hưởng và tác động tích 
The reality of establishing 
and developing the research 
groups in universities 
in Vietnam today
Thi Thu Ha Nguyen1, Dinh Duc Nguyen2*
1Department of Natural, Social and Human, 
Ministry of Science and Technology
2Vietnam National University, Ha Noi
Received 11 February 2019; accepted 29 March 2019
Abstract:
The research group (RG) is considered a cell of 
scientific research and training. The establishment 
and development of the research groups in universities 
play an important role in strengthening the science 
and technology potential, and the training quality of 
universities. This paper presents the overview on RGs 
nationally and internatinonally, and assessment on 
the reality of RGs in universities in Vietnam today. 
Achievements, advantages as well as difficulties and 
limitations, and initial proposal on the formulation and 
promulgation of policies to promote the establishment 
and development of RGs are also presented in this 
paper. Furthermore, the paper also recommends the 
basic criteria for classifying and evaluating RGs in 
universities in Vietnam today.
Keywords: criteria of research groups, research group, 
solutions to promoting research groups in universities, 
the reality of research groups in Vietnam.
Classification number: 5.3
19
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
cực tới định hướng phát triển của giáo dục đại học Việt Nam.
Tác giả Phan Kim Ngọc trong một bài viết của mình [9] đã 
chỉ ra rằng, “NNC khoa học là một tập thể các nhà khoa học và 
học thuật có năng lực chuyên môn tốt, có tâm huyết, đạo đức 
nghề nghiệp, sự chân thật trong công việc (honesty), có khát 
vọng định hướng cùng một mục đích, một lĩnh vực chuyên môn 
nhất định; thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo tại một 
đơn vị hạt nhân (hay xoay quanh đơn vị hạt nhân đó); được dẫn 
dắt bởi một (hay một vài) nhà nghiên cứu có uy tín khoa học, 
đạo đức và đồng thời phải có khả năng tổ chức, giao tiếp, tập 
hợp; có văn hóa nhóm riêng biệt. Nói một cách khái quát, 
mọi thành quả của nhóm phải xuất phát từ năng lực nội sinh”. 
Theo tác giả Trương Quang Học, “NNC - (Scientific 
Working Group - SWG)” là một tập thể nghiên cứu/hoạt động 
khoa học được thành lập một cách tự nguyện hay theo ý đồ phát 
triển của tổ chức (nhưng không phải là một đơn vị hành chính). 
Dẫn dắt NNC là người trưởng nhóm nhiệt tâm, chịu trách 
nhiệm chính về định hướng nghiên cứu, có năng lực chuyên 
môn, có khả năng tổ chức (bao gồm cả khả năng tạo dựng các 
mối quan hệ, tìm kiếm nguồn kinh phí hoạt động cho nhóm và 
được cả nhóm tín nhiệm). Các thành viên của NNC là các cán 
bộ khoa học có nhiệt huyết và khả năng, các nghiên cứu sinh, 
sinh viên cùng theo đuổi một hướng khoa học nhất định. 
Nhóm có đủ các điều kiện cơ bản bao gồm nơi làm việc, trang 
thiết bị, thông tin, tư liệu và kinh phí để đảm bảo cho các 
hoạt động nghiên cứu thành công một cách liên tục và thường 
là dài hạn” [10]. Định nghĩa này cũng được tác tác giả Phan Thị 
Thanh Trúc và các đồng nghiệp đồng thuận [11].
Theo tác giả Nguyễn Đình Đức [12], việc hình thành và 
phát triển các NNC trong trường đại học có tính tất yếu và mô 
hình NNC có dạng hình nón nhiều lớp: đỉnh chóp nón là trưởng 
NNC, tiếp đến là các thành viên là các GS, PGS, TS, rồi đến 
lớp các nghiên cứu sinh (NCS), lớp các học viên cao học và 
sinh viên. Từ thực tiễn xây dựng và phát triển NNC của mình, 
các tác giả [12, 13] cũng đưa ra 5 yếu tố quan trọng nhất của 
NNC là: vai trò tập hợp, dẫn dắt của người trưởng nhóm; sự 
quan tâm và chính sách, cơ sở vật chất của nhà trường hỗ trợ 
cho NNC; việc lựa chọn hướng nghiên cứu hiện đại, hội nhập 
với thế giới; chất lượng và năng lực nghiên cứu của các thành 
viên, đặc biệt có sự tham gia của các NCS; sự hợp tác trong và 
ngoài nước của NNC.Trên cơ sở khảo sát thực tiễn hoạt động 
của các NNC ở Đại học Quốc gia Hà Nội, tác giả Nguyễn Đình 
Đức cũng đưa ra nhận xét về vai trò cực kỳ quan trọng của 
người dẫn dắt NNC. Theo tác giả [12, 13], ở đâu có nhà khoa 
học đầu ngành, ở đó có NNC mạnh và từ những NNC mạnh sẽ 
đào tạo ra nhiều nhà khoa học giỏi, tiềm năng để kế tục và có 
thể xây dựng, phát triển các NNC mới. Đồng quan điểm này, 
tác giả Nguyễn Xuân Hùng [14] cho rằng, không chỉ là vai trò 
dẫn dắt và lãnh đạo, năng lực tổ chức cũng như tầm nhìn, tài 
năng và uy tín của người lãnh đạo có ý nghĩa quyết định tới sự 
thành công của NNC.
Thời gian gần đây còn xuất hiện khái niệm NNC mạnh. Tiêu 
chí NNC mạnh dường như đầu tiên được quy định trong Hướng 
dẫn số 1409/HD-ĐHQGHN ngày 08/5/2013 của Đại học Quốc 
gia Hà Nội [15], trong đó có các tiêu chí cứng với người trưởng 
NNC mạnh phải đáp ứng tiêu chí như trong 5 năm gần nhất: 
phải chủ trì đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, cấp bộ trở lên; 
là tác giả hoặc chủ biên của ít nhất 01 sách chuyên khảo; hoặc 
tác giả, đồng tác giả của ít nhất 05 công bố ISI; hoặc tác giả của 
ít nhất 01 phát minh, sáng chế; hoặc có các sản phẩm KH&CN 
được giải thưởng, có ứng dụng thực tiễn, có tác động xã hội 
lớn, có giá trị lý luận, làm cơ sở tư vấn cho hoạch định chính 
sách quốc gia hoặc tích hợp một số thành tích đã nêu; đã từng 
là báo cáo viên được mời (invited speaker) tại các hội nghị, hội 
thảo quốc gia, quốc tế; đã và đang hướng dẫn NCS; sử dụng 
thành thạo ít nhất 1 ngoại ngữ phổ biến (Anh, Nga, Pháp, Trung 
Quốc), trong đó giao tiếp được bằng tiếng Anh và đặc biệt phải 
có tầm nhìn, kế hoạch chiến lược dài hạn, có khả năng đánh 
giá tầm ảnh hưởng và xu hướng phát triển của lĩnh vực nghiên 
cứu, có quan điểm phát triển bền vững; đồng thời phải có cơ sở 
vật chất và các trang thiết bị cơ bản để triển khai hướng nghiên 
cứu và hàng năm gia tăng số lượng các sản phẩm KH&CN từ 
10-15%. Có thể thấy, tiêu chuẩn NNC mạnh của Đại học Quốc 
gia Hà Nội là khá cao so với tiêu chí chung về NNC. Kể từ khi 
ban hành quy định này đến nay (12/2018), Giám đốc Đại học 
Quốc gia Hà Nội đã xem xét và ký quyết định công nhận 29 
NNC mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội. Theo tác giả Nguyễn 
Hữu Đức, NNC vừa là phương thức, vừa là mục tiêu để phát 
triển đại học nghiên cứu [16].
Tháng 12/2014, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đã ban 
hành Thông tư 37/2014/TT-BKHCN quy định tiêu chí NNC 
mạnh. Theo đó, NNC mạnh phải đáp ứng các tiêu chí: trưởng 
nhóm có công bố trên tạp chí quốc tế ISI uy tín trong vòng 5 
năm trở lại đây, phải có khả năng tập hợp được nhiều nhà khoa 
học có trình độ chuyên môn cao tham gia thực hiện đề tài, duy 
trì được hợp tác nghiên cứu khoa học thường xuyên với các 
NNC quốc tế cùng ngành, liên ngành và có ít nhất hai thành 
viên chủ chốt khác của NNC cũng đáp ứng được yêu cầu là chủ 
nhiệm đề tài của Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc 
gia (NAFOSTED).
Tại Quyết định 2395/QĐ-TTg ngày 25/12/2015 của Thủ 
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo nhân lực KH&CN 
trong và nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước, một trong 
những mục ti ... ợc hỗ trợ triển khai kết quả nghiên cứu vào thực tiễn của 
bản thân
86,5
10 Được hỗ trợ trong hoạt động xuất bản sách chuyên khảo/giáo 
trình/bằng sáng chế
69,8
11 Tăng cường công bố các kết quả nghiên cứu trên các tạp chí 
quốc tế uy tín
88,9
Kết quả khảo sát ở Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy, 80% 
các NCS trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ của 
Trường nhờ trưởng thành trong các NNC nên khi bảo vệ luận 
án TS đều đã có công bố quốc tế ISI. 100% các NCS ở Đại học 
Quốc gia Hà Nội có công bố quốc tế đều tham gia trong các 
NNC. 
Trên 94% NCS cho rằng, khi tham gia NNC họ được học 
tập, trau dồi phương pháp, kỹ năng nghiên cứu, có cơ hội tiếp 
xúc và học hỏi từ những nhà khoa học có uy tín trong và ngoài 
nước (bảng 2). Điều này phần nào cho thấy hoạt động của các 
NNC đã phát huy được hiệu quả tích cực trong thực tế. 
Bảng 2. Lợi ích thu được từ việc tham gia vào các NNC đối với NCS.
STT Những lợi ích khi tham gia NNC đối với NCS
Tỷ lệ 
ủng hộ (%)
1 Được học tập, trau dồi phương pháp nghiên cứu để có chất 
lượng luận án tốt
96
2 Được nhóm nghiên cứu hỗ trợ cho hoạt động của bản thân 
trong thời gian làm NCS: rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, 
kỹ năng giải quyết công việc, hỗ trợ chuyên môn từ NNC
94
3 Hình thành/phát triển đề tài luận án từ các đề tài nghiên cứu 
của nhóm
91
4 Giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của các thành viên trong 
nhóm
92
5 Có kết quả nghiên cứu có giá trị công bố trên các tạp chí 
khoa học uy tín trong nước và quốc tế
93
6 Tăng thu nhập, thêm hỗ trợ tài chính cho NCS 71
7 Tham gia các Seminar/hội thảo/hội nghị khoa học chuyên 
ngành
90
8 Tiếp cận các hướng nghiên mới 96
9 Tham gia các đề tài/dự án của NNC và áp dụng các phương 
pháp và kết quả nghiên cứu vào quá trình thực hiện luận án 
của NCS 
91
10 Có cơ hội tiếp xúc với các nhà khoa học có uy tín trong và 
ngoài nước
97
11 Tận dụng được nguồn tư liệu, trang thiết bị, cơ sở vật chất 
phục vụ nghiên cứu
86
12 Tạo cơ hội hoạt động chuyên môn lâu dài và bền vững (kể 
cả sau tiến sĩ) cho NCS
94
Cũng qua khảo sát, đánh giá tác động tích cực của NNC đến 
việc đào tạo NCS, nghiên cứu và phục vụ xã hội (bảng 3) kết 
quả cho thấy, cả 8/8 nội dung khảo sát đều được các nhà khoa 
học đánh giá ở mức rất cao, trong đó tập trung vào những nội 
dung như: nâng cao chất lượng đội ngũ (4,31/5); tăng cường số 
lượng và chất lượng công bố khoa học/phát minh/sáng chế của 
đơn vị (4,3/5); nâng cao chất lượng luận án tiến sĩ (4,27/5)...
Bảng 3. Đánh giá tác động của NNC đến việc đào tạo, nghiên cứu 
và phục vụ xã hội.
Nội dung khảo sát Điểm trung bình Độ lệch chuẩn
Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ, đào tạo 
của đơn vị
4,17 0,67
Nâng cao chất lượng luận án tiến sĩ 4,27 0,62
Tăng cường số lượng và chất lượng công bố khoa học/phát minh/
sáng chế của đơn vị
4,30 0,64
Tăng cơ hội đạt được nguồn tài trợ từ các quỹ hỗ trợ nghiên cứu 
trong và ngoài nước cho hoạt động nghiên cứu và đào tạo của 
nhà trường
4,23 0,65
Nâng cao vị thế, uy tín và xếp hạng của đơn vị 4,25 0,73
Nâng cao chất lượng đội ngũ 4,31 0,60
Đảm bảo nghiên cứu chất lượng cao để củng cố và tăng cường 
chất lượng các chương trình đào tạo của trường đại học cũng như 
mở ngành mới
4,18 0,66
Đẩy mạnh sự gắn kết giữa nhà trường và xã hội và cộng đồng 
khoa học trong và ngoài nước thông qua hoạt động đào tạo, 
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ
4,20 0,70
Như vậy có thể thấy, việc xây dựng các NNC trong các 
trường đại học ở Việt Nam đang được đẩy mạnh trong những 
năm gần đây. NNC chính là một trong những giải pháp quan 
trọng nhất để nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả của các 
hoạt động nghiên cứu, nâng cao chất lượng và số lượng đội 
ngũ nhân lực KH&CN cũng như nâng cao xếp hạng của trường 
đại học.
Chúng tôi cũng khảo sát thực trạng xây dựng các NNC theo 
lĩnh vực. Kết quả khảo sát cho thấy, lĩnh vực nghiên cứu của 
các NNC cũng không đồng đều và có sự chênh lệch khá lớn, tập 
trung nhiều nhất vào 3 lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ 
thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn (hình 2).
22
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
Hình 2. Biểu đồ phân bố lĩnh vực nghiên cứu của các NNC.
Quy mô, cơ cấu tổ chức của các NNC cũng có sự khác 
nhau. Phổ biến nhất là các NNC từ 5-10 thành viên (chiếm 
46,5%), tiếp đến là NNC trên 10 thành viên (chiếm 32,3%) và 
dưới 5 thành viên (chiếm 21,2%) (hình 3).
Hình 3. Tỷ lệ cơ cấu thành viên của các NNC trong các trường 
đại học ở Việt Nam.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cũng cho thấy, việc sử dụng 
ngoại ngữ của các thành viên NNC chủ yếu là tiếng Anh (93,5%), 
tiếng Nga 13,9% và tiếng Pháp 8,8%. Đây cũng là một yếu tố 
thuận lợi đối với các NNC trong quá trình đẩy mạnh hợp tác với 
các đối tác quốc tế. 
Bên cạnh vai trò tăng cường tiềm lực KH&CN cho đơn vị, 
kết quả khảo sát còn cho thấy, 86,5% số thầy cô được hỏi đánh 
giá vai trò quan trọng của NNC để hội nhập quốc tế; 92,9% cho 
rằng NNC có vai trò quan trọng trong việc tập hợp lực lượng để 
mở các ngành/chuyên ngành đào tạo mới; 87,3% cho rằng NCS 
có vai trò rất quan trọng trong NNC và 86,5% cho rằng NNC là 
lực lượng nòng cốt thu hút các đề tài/dự án, qua đó tăng thu nhập 
cho các thành viên. 
Bên cạnh đó, kết quả phỏng vấn sâu các thành viên NNC 
cũng cho thấy, bên cạnh mô hình phổ biến là các NNC hình chóp 
nhiều lớp: đỉnh chóp là người trưởng nhóm, xuống các lớp dưới 
lần lượt là các GS, PGS; kế đến là các TS, NCS, học viên cao học 
và sinh viên. Song song với các NNC hình chóp này được hình 
thành ở các khoa, các bộ môn, các phòng thí nghiệm và đóng vai 
trò như những tế bào của các đơn vị đào tạo, thì ngày càng có 
xu hướng thiết lập các NNC mềm (không có mô hình dạng hình 
chóp), có sự liên kết giữa các thành viên của các NNC khác nhau, 
cũng như một thành viên có thể tham gia nhiều NNC đang ngày 
càng phát triển. Sự phát triển của NNC hiện nay cũng không chỉ 
dừng ở trong phạm vi một đơn vị đào tạo, mà có sự kết nối và 
mở rộng quy mô, thu hút thêm các thành viên ở các đơn vị khác 
ở trong và ngoài nước tham gia.
Những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp
Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng tôi nhận thấy còn 
một số tồn tại, hạn chế chủ yếu của các NNC ở Việt Nam hiện 
nay là:
Một là, còn thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt NNC. 
Kết quả khảo sát cho thấy, chỉ có 75% các NNC là do các GS, 
PGS dẫn dắt. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cũng cho thấy, 
96% NNC cho rằng vai trò dẫn dắt của người trưởng nhóm rất 
quan trọng, 97,6% cho rằng bên cạnh người trưởng nhóm, chất 
lượng các thành viên tham gia NNC cũng đóng vai trò quan 
trọng trong việc duy trì và phát triển NNC.
Hai là, số lượng các công bố quốc tế của các NNC còn khá 
khiêm tốn. Có 37,5% số thầy cô được hỏi chưa có công bố quốc 
tế ISI/Scopus. Số các giảng viên có công bố quốc tế ISI/Scopus 
trên 5 bài chỉ có 34,2%.
Ba là, nguồn lực đầu tư cho các NNC còn hạn chế, có đến 
93,7% số người được hỏi cho rằng kinh phí để đầu tư cho NNC 
có vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì và phát triển 
NNC. Hiện nay, ở Đại học Quốc gia Hà Nội, các đơn vị thành 
viên như Trường Đại học Công nghệ mới hỗ trợ mỗi NNC 
mạnh 50 triệu/năm; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên hỗ 
trợ mỗi NNC mạnh 30 triệu/năm, một số trường chưa có chính 
sách cụ thể...
Bốn là, về phía quản lý nhà nước và các trường đại học, còn 
thiếu các chính sách cụ thể và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự 
hình thành và phát triển các NNC. 
Nguyên nhân chính của những hạn chế tồn tại nêu trên 
trước hết xuất phát từ chủ quan các cán bộ giảng viên còn chưa 
ý thức được đầy đủ việc gắn kết công tác đào tạo với nghiên 
cứu và chưa ý thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện, 
nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn thông qua NNC. 
Kết quả khảo sát cho thấy, có 2,2% số giảng viên được hỏi 
trả lời không có nhu cầu tham gia NNC và 15,7% trả lời chưa 
rõ được lợi ích của việc tham gia các NNC. Thứ đến là chính 
sách hỗ trợ, khuyến khích của các trường đại học cho các NNC 
chưa có, chưa cụ thể, hoặc còn chưa đáng kể, hay nói cách 
khác là chính các trường đại học cũng chưa có những giải pháp 
quyết liệt để đầu tư cho các NNC. Đặc biệt, nguyên nhân quan 
trọng là sự hội nhập quốc tế trong các nghiên cứu của các nhà 
khoa học và mức độ quốc tế hóa trong các hoạt động của nhiều 
trường đại học Việt Nam còn chưa cao (có đến 16,7% các cán 
bộ giảng viên được hỏi trả lời chưa từng tham gia hội nghị quốc 
tế nào được tổ chức ở trong cũng như ngoài nước).
Thời đại hiện nay là kỷ nguyên của cách mạng công nghiệp 
4.0. Những nghiên cứu gần đây [18, 19] chỉ ra rằng, để có thể 
nắm bắt được những cơ hội của của cách mạng công nghiệp 
lần thứ 4, không chỉ cần nguồn nhân lực chất lượng cao mà cần 
có nhân tài. Lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về những cơ quan, tổ 
chức, doanh nghiệp thu hút được nhân tài. Chính vì vậy, các 
NNC cũng không là ngoại lệ và vấn đề thu hút nhân tài cũng là 
23
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
thách thức lớn đặt ra với các NNC trong các trường đại học ở 
Việt Nam hiện nay. Việc thu hút và trọng dụng tài năng trí thức 
(trong và ngoài nước) trong các trường đại học cần được thực 
hiện qua mô hình NNC, vì các NNC chính là môi trường để các 
nhà khoa học được thể hiện và phát huy năng lực chuyên môn 
trong đào tạo và nghiên cứu cũng như cầu nối giao lưu, liên kết 
giữa các nhà khoa học trong nước và quốc tế. 
Qua khảo sát thực tiễn hoạt động của các NNC, chúng tôi 
kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước và các trường đại học cần 
sớm ban hành những chính sách cụ thể, đồng bộ và đủ mạnh 
để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình thành, phát triển các NNC. Các 
chính sách cần được xây dựng theo hướng quy định tiêu chí để 
phân loại các NNC, ví dụ như NNC phân thành 3 loại cơ bản: 
NNC cấp cơ sở giáo dục đại học, NNC cấp quốc gia và NNC 
quốc tế để có những cơ chế đầu tư và yêu cầu về chuẩn đầu ra 
phù hợp với từng loại. Các chính sách xây dựng cũng cần được 
lưu ý theo hướng ở các lĩnh vực khoa học khác nhau thì cần có 
các tiêu chí đánh giá và hỗ trợ đầu tư khác nhau (ví dụ các NNC 
về khoa học tự nhiên và công nghệ - kỹ thuật, bên cạnh nguồn 
lực về con người, tài liệu nghiên cứu, thì các trang thiết bị phục 
vụ nghiên cứu đóng vai trò rất quan trọng). Các NNC có quy 
mô, trình độ và thành tích đào tạo, nghiên cứu khác nhau..., do 
vậy khi ban hành các tiêu chí và xem xét mức đầu tư cho NNC 
cũng cần quy định phù hợp với từng đối tượng, cấp độ để đảm 
bảo đầu tư đem lại hiệu quả cao nhất. 
lỜi Cảm ƠN
Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài mã số 
KHGD/16-20.ĐT.032 thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc 
gia giai đoạn 2016-2020: “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo 
dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục 
Việt Nam”. Các tác giả chân thành cảm ơn sự ủng hộ và giúp 
đỡ quý báu của Đề tài và Văn phòng Chương trình trong quá 
trình thực hiện nghiên cứu, khảo sát này. 
Tài liệu Tham khảo
[1] F.M. Andrews (1979), “The international study: its data sources and 
measurement procedures”, Scientific Productivity, The Effectiveness of Re-
search Groups in Six Countries, Cambridge University Press, pp.17-52.
[2] K. Main (2007), Effective teaching teams: Facilitators and barriers, 
Australian Teacher Education Association.
[3] N. Nobahar (2014), “Investigation of Research Barriers and Chal-
lenges in University from the Perspective of Faculty Members of Kerman-
shah City”, International Journal of Social Sciences (IJSS), 4(4), pp.15-21.
[4] C.J. Bland and M.T. Ruffin (1992), “Characteristics of a Productive 
Research Envinronment”, Literature Review, 67(6), pp.385-397.
[5] D. Beaver, R. Rosen (1979), “Studies in Scientists Collaboration: 
Part III - Professionalization and the Natural History of Modern Scientific 
Co-authorship”, Scientometrics, 1(3), pp.231-245.
[6] F. Bertolotti, E. Mattarelli, M. Vignoli, D.M. Marci (2015), “Explor-
ing the relationship between multiple tearm membership and team perfor-
mance: The role of social networks and collaborative technology”, Research 
Policy, 44, pp.911-924.
[7] D.H. Kim and H.J. Bak (2017), “Incentivizing research collabora-
tion using performance-based reward systems”, Science and Public Policy, 
44(2), pp.186-198.
[8] S. Jeong and Y.J. Choi (2015), “Collaborative research for academic 
knowledge creation: How team characteristics, motivation, and processes 
influence research impact”, Science and Public Policy, 42, pp.446-473.
[9] Phan Kim Ngọc (2010), Vài chia sẻ về xây dựng NNC khoa học, 
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/04/21/4852.
[10] Trương Quang Học, NNC khoa học - yếu tố quyết định tới chất 
lượng của hoạt động khoa học công nghệ và đào tạo sau đại học, http://
dt.ussh.edu.vn/noi-dung-khac/nhom-nghien-cuu-khoa-hoc-yeu-to-quyet-
dinh-toi-chat-luong-cua-hoat-dong-khoa-hoc-cong-nghe-va-dao-tao-sau-
dai-hoc.
[11] Phan Thị Thanh Trúc, Nguyễn Thị Ngọc Lợi (2016), “Giải pháp phát 
triển NNC các nhà khoa học tại các trường đại học khu vực Tây Nguyên”, 
Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Nghiên cứu Chính sách và 
Quản lý, 32(2), tr.100-109.
[12] Nguyễn Đình Đức (2014), “Phát triển các NNC mạnh”, Tạp chí Khoa 
học và Công nghệ Việt Nam, 8, tr.44-47.
[13] Nguyễn Đình Đức (2014), Phát triển NNC trong trường đại học: 
Xu thế tất yếu, https://vov.vn/xa-hoi/phat-trien-nhom-nghien-cuu-trong-
truong-dh-xu-the-tat-yeu-325151.vov.
[14] Nguyễn Xuân Hùng (2016), Xây dựng NNC mạnh, 
com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/Xay-dung-nhom-nghien-cuu-manh-10335.
[15] Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Hướng dẫn 1409/HD-KHCN 
ngày 08/5/2013 về xây dựng các chương trình nghiên cứu trọng điểm 
và NNC mạnh ở Đại học Quốc gia Hà Nội, https://vnu.edu.vn/uplo-
ad/vanban/2013/10/08/1409-Huong-dan-Xay-dung-va-phat-trien-cac-
Chuong-trinh-nghien-cuu-trong-diem-va-Nhom-nghien-cuu-manh-o-DH-
QGHN.pdf.
[16] Nguyễn Hữu Đức, NNC vừa là phương thức, vừa là mục tiêu để 
phát triển đại học nghiên cứu, https://vnu.edu.vn/btdhqghn/?C151/N16301/
Nhom-nghien-cuu-manh-vua-la-phuong-thuc-vua-la-muc-tieu-de-phat-
trien-dH-nghien-cuu.htm.
[17] Báo Tiền phong điện tử (2018), Đột phá trong công bố bài báo 
quốc tế của đại học Việt Nam, https://www.tienphong.vn/giao-duc/dot-pha-
trong-cong-bo-bai-bao-khoa-hoc-quoc-te-cua-dh-viet-nam-1333074.tpo.
[18] Nguyễn Trọng Hoài (2018), Quốc tế hóa giáo dục đại học Việt 
Nam: Đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần 
thứ 4, Kỷ yếu Hội nghị quốc gia “Nhu cầu nhân lực chất lượng cao cho phát 
triển trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những đáp ứng của 
giáo dục đại học Việt Nam” do Hội đồng Giáo dục Quốc gia tổ chức tại TP. 
Hồ Chí Minh, tháng 12/2018, tr.236-254.
[19] Nguyễn Đình Đức (2018), Đổi mới mạnh mẽ giáo dục đại học: 
Chiến lược để Việt Nam nắm bắt cơ hội ở cuộc cách mạng công nghiệp lần 
thứ 4, Kỷ yếu Hội nghị quốc gia “Nhu cầu nhân lực chất lượng cao cho phát 
triển trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những đáp ứng của 
giáo dục đại học Việt Nam” do Hội đồng Giáo dục Quốc gia tổ chức tại TP 
Hồ Chí Minh, tháng 12/2018, tr.219-224.

File đính kèm:

  • pdfthuc_tien_xay_dung_va_phat_trien_cac_nhom_nghien_cuu_trong_c.pdf