Tìm hiểu một số lí thuyết về tranh vẽ của trẻ em

Abstract: Studies on children’s paintings have been carried out in the world for almost three

centuries. This issue is built and approached on three basic theories, namely “Aesthetic Window

paradigm”, “Psychological mirror model”, and “Psychological and artistic models”. Based on

these theories, researchers can give analysis, arguments and explanations of children’s paintings.

pdf 5 trang yennguyen 520
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu một số lí thuyết về tranh vẽ của trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu một số lí thuyết về tranh vẽ của trẻ em

Tìm hiểu một số lí thuyết về tranh vẽ của trẻ em
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86 
82 
TÌM HIỂU MỘT SỐ LÍ THUYẾT VỀ TRANH VẼ CỦA TRẺ EM 
Ngô Bá Công - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Ngày nhận bài: 30/11/2017; ngày sửa chữa: 01/12/2017; ngày duyệt đăng: 11/12/2017. 
Abstract: Studies on children’s paintings have been carried out in the world for almost three 
centuries. This issue is built and approached on three basic theories, namely “Aesthetic Window 
paradigm”, “Psychological mirror model”, and “Psychological and artistic models”. Based on 
these theories, researchers can give analysis, arguments and explanations of children’s paintings. 
Keywords: Paintings, children’s paintings, theory, model. 
1. Mở đầu 
“Tranh vẽ của trẻ em” hay “tranh trẻ em vẽ” sẽ chỉ 
là một, song nếu xét về mặt ngữ nghĩa thì chúng lại khác 
nhau, bởi vì vấn đề này đã xảy ra, gây ra nhiều sự tranh 
luận của những nhà nghiên cứu tới việc này. Ở Việt 
Nam khá lúng túng khi phải mang vấn đề tranh vẽ của 
trẻ em đem ra để bàn luận, điều này là đúng đối với cả 
những nhà nghiên cứu lí luận và phê bình mĩ thuật, còn 
đối với những nhà họa sĩ làm nghề thì còn mơ hồ hơn 
nhiều Đã có khá nhiều nhà nghiên cứu mĩ thuật hay 
họa sĩ đã có bài báo viết về tranh vẽ của trẻ em nhưng 
chỉ mang tính chất “phong trào” thông qua các cuộc 
triển lãm tranh là chính, ngoại trừ một số bài viết có đề 
cập tới chất lượng chuyên môn, nhưng vẫn là yếu tố của 
người lớn “áp” vào vị trí của trẻ em. Có họa sĩ từng nói 
“tranh vẽ của trẻ em cần có đáp số”, câu nói này nói lên 
vấn đề tranh vẽ của trẻ em còn nhiều điều bí ẩn mà người 
lớn chưa chắc đã hiểu và cảm nhận được. Với những nhà 
nghiên cứu bên lĩnh vực tâm lí, sư phạm thì đã có nhiều 
công trình, bài viết liên quan đến vấn đề tranh vẽ của trẻ 
em và dường như vấn đề này không có gì là đặc biệt cả. 
Nhưng thực sự hiểu biết rõ được tranh trẻ em vẽ có từ 
đâu, có tính lịch sử không thì có lẽ không nhà nghiên cứu 
mĩ thuật nào quan tâm tới tranh vẽ của trẻ em ở Việt Nam 
dám tin vấn đề này đã có tính lịch sử. 
Trên thế giới đã có khá nhiều nhà nghiên cứu tới 
tranh vẽ của trẻ em, tập trung nhất là ở một số nước 
Châu Âu và Châu Mĩ và không ít những lí thuyết đã 
được đưa ra để làm cơ sở tiếp cận, phân tích bằng những 
luận điểm của một thể loại mĩ thuật mà chủ thể sáng tạo 
là trẻ em, có thể trẻ em chỉ “sáng tác bằng bản năng” 
trong cảm thụ của hội họa. Trong một số lập luận 
nghiên cứu đến tranh vẽ của trẻ em trên thế giới có nói 
tới việc nghiên cứu này đã được tiến hành vào cuối thế 
kỉ XVIII. Có một minh chứng đã lấy mốc năm 1884, có 
một Hội nghị Quốc tế về giáo dục (được tổ chức ở Anh) 
đã bàn luận tới việc này và lấy tên là “Những lí thuyết 
về sự va chạm trong nghệ thuật và giáo dục”, nhiều 
tham luận đã bàn tới các yếu tố nghệ thuật trong tranh 
vẽ của trẻ em. Trong những nội dung này có bàn luận 
tới có hay không những nghiên cứu về lí luận cho tranh 
vẽ của trẻ em, đối tượng này có cần những nhà nghiên 
cứu khoa học quan tâm không? Các yếu tố về tạo hình 
như: đường nét, hình thể, không gian, màu sắc được thể 
hiện trong tranh bằng ý thức của chính đứa trẻ hay là 
bằng sự gợi ý của người lớn và có hay không sự “vô 
thức” trong quá trình sáng tạo bức tranh từ trẻ em? 
Những nội dung trên đã được hội nghị thảo luận khá sôi 
nổi và đã thống nhất được rằng cần tạo ra một số lí 
thuyết để làm cơ sở tiếp cận, phân tích và giải thích về 
tranh vẽ của trẻ em một cách tương đối nhất. Cũng từ 
đây hai lí thuyết đã được xây dựng cho việc nghiên cứu 
tới tranh vẽ của trẻ em đó là: Lí thuyết “Mô hình cửa sổ 
thẩm mĩ” (Aesthertic Window paradigm) và lí thuyết 
“Mô hình gương tâm lí” (Psycological Mirro 
paradigm). Hai lí thuyết để nghiên cứu về tranh vẽ của 
trẻ em này đã nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà 
nghiên cứu như chuyên ngành tâm lí, chuyên ngành 
giáo dục và nghệ thuật hội họa và đã được ứng dụng ở 
khá nhiều nước trên thế giới như: Đức, Ý, Thụy Sĩ, 
Pháp, Na Uy, Áo, Hoa Kì... 
Hai mô hình lí thuyết này là sự tổng hợp của nhiều 
ngành cùng quan tâm như: các nhà tâm lí học, nhà sử 
học nghệ thuật, nhà giáo dục học, nhà thực hành sư 
phạm, nhà giáo dục về nghệ thuật đều nhằm mục đích 
là tìm hiểu về tranh vẽ của trẻ em. Tất cả những nhà 
nghiên cứu trên cùng quan tâm vào một đối tượng là 
tranh vẽ của trẻ em, những ở mỗi ngành nhỏ lại khai 
thác cụ thể vào các vấn đề rất khác nhau. Ví dụ, các nhà 
tâm lí thông qua các sản phẩm tranh vẽ của trẻ em để 
tìm hiểu diễn biến nội hàm bên trong của chính các em; 
còn những nhà giáo dục nghệ thuật lại quan tâm về sự 
biểu hiện trong bức vẽ được các em thể hiện trên tranh 
thông qua màu sắc, hình thể, không gian, bố cục Lí 
thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” thuộc về lĩnh vực 
nghiên cứu nghệ thuật như: sử gia nghệ thuật, lí luận và 
phê bình nghệ thuật, các nhà giáo dục nghệ thuật. Ở lĩnh 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86 
83 
vực nghiên cứu này, các học giả đều cho rằng: tranh vẽ 
của trẻ em giống như “cánh cửa sổ nhìn ra thế giới”, nó 
hoạt động như một ô cửa sổ được mở ra, một phần của 
thế giới lại hiển hiện trước mắt. Đó là một sự tái tạo của 
thực tế khách quan mang ý nghĩa bên trong của hình 
ảnh. Trong khi đó, lí thuyết “Mô hình gương tâm lí” 
hướng đến tìm hiểu nguồn gốc của các nghiên cứu về 
nghệ thuật tranh vẽ của trẻ em. Gương soi là phương 
tiện tốt nhất để làm sáng tỏ hình ảnh chỉ bởi vì nó đại 
diện cho hình ảnh mà rất gần với thực tế, do đó thu hút 
sự so sánh trực tiếp thực tế với hình ảnh phản chiếu 
trong gương chính là đại diện cho chúng, trẻ em mới có 
thể biểu hiện những sự vật chúng thấy bằng việc vẽ 
tranh trên giấy. Sau này, nhiều nhà nghiên cứu tiếp nối 
vấn đề trên đã tổng hợp lại hai mô hình của hai lí thuyết 
gần như là khác nhau để tạo ra một sự thống nhất ở mức 
cơ bản nhất, đó là lí thuyết “Mô hình tâm lí học và nghệ 
thuật” (“Psychological and artistic models”), tạo thêm 
một cơ sở để lập luận và trả lời những câu hỏi mà giả 
thuyết về tranh vẽ của trẻ em như nhà họa sĩ Việt Nam 
nói là “tranh vẽ của trẻ em cần có đáp số”... 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Lí thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” 
Trong số những nhà nghiên cứu đến tranh vẽ của trẻ 
em đầu tiên phải nói tới đó là Jean Jacques Rousseau 
(1712-1778), người Pháp, ông đã áp dụng mô hình lí 
thuyết này để phân tích, giải thích về tranh vẽ của trẻ em. 
Ông đã đưa ra một số nhận định như “Chúng tôi không 
biết gì về trẻ em vẽ, đó là những người khôn ngoan nhất”, 
theo ý chủ quan của ông thì hãy để trẻ em tự vẽ mà không 
cần sự can thiệp của người lớn. Tiếp đó, ông đã có một 
nhận xét rất hay “Trẻ em có một cách thức nhận thức, 
suy nghĩ và cảm giác đặc biệt của chính nó” , câu nói này 
thấy rõ ông khá hiểu về tâm lí của trẻ em. Đây là một 
điều rất khó và lúng túng cho những nhà họa sĩ, nhà 
nghiên cứu lí luận mĩ thuật của Việt Nam khi bàn luận về 
vấn đề này (vì họ thường có cách nhìn tách riêng mĩ thuật 
là mĩ thuật, tâm lí là tâm lí), nhưng thực sự trong tranh vẽ 
của trẻ em nó lại là một. Chừng nào họ hiểu được điều 
này, khi đó mới giúp trẻ em sáng tạo ra theo đúng sản 
phẩm của chính các em. Nếu điều này được đem ra so 
sánh thì khá nhiều cơ sở dạy vẽ tranh cho trẻ em, đặc biệt 
là vào những dịp chuẩn bị cho các em vẽ tranh để đi thi 
ở các cuộc thi thì gần như là sản phẩm của các em đã có 
sự định hướng, can thiệp sâu, theo khuôn mẫu của người, 
vì vậy tranh vẽ của trẻ em Việt Nam hiện nay khá khô 
cứng, giống nhau và rất thiếu cảm xúc theo đúng tâm lí 
như Rousseau đã nói hãy để cho trẻ em vẽ theo cảm giác 
đặc biệt của chính nó. Chính vì câu nói trên mà ông đặc 
biệt quan tâm đến sự phát triển của cảm giác và tri giác 
của trẻ em. Trong nghiên cứu của ông, có giới thiệu tới 
một bài học vẽ cho Emil (là con của Rousseau) bằng cách 
nhìn của đôi mắt và sự khéo léo của đôi bàn tay khi Emil 
12 tuổi. Ông đã nói đến bằng cách nhìn của đôi mắt, rất 
đúng khi luận bàn tới vấn đề thẩm mĩ trong sáng tác thì 
cách nhìn thông qua đôi mắt là số một (cái nhìn bình 
thường thì dễ và thể hiện lại bằng đôi bàn tay khéo léo 
chắc sẽ đạt kết quả, nhưng ở đây ông đã nhấn mạnh cái 
nhìn của cảm giác thì nó lại hoàn toàn khác. Vì cái cảm 
trong mĩ thuật là cái rất đặc biệt dành cho mỗi người, 
không phải ai khi vẽ tranh lại có cái cảm được tốt, cái 
cảm của chính tâm hồn của mình). Như trên tạm giải 
nghĩa thì chúng ta mới thấy giá trị của từ cảm trong mĩ 
thuật là rất quan trọng, thế mà ông đã đưa ra để khuyến 
khích cho Emil khi vẽ tranh, thật là một sự động viên 
tuyệt vời mà không phải những nhà giảng dạy mĩ thuật 
cho trẻ em nào cũng hiểu được. Chính vì thế mà theo 
quan niệm của ông thì thiên nhiên nên là “giáo viên duy 
nhất” của người học vẽ. Đây là một tiên đoán sơ bộ của 
thẩm mĩ để chấp nhận và đánh giá cao vẻ đẹp các bức 
tranh của trẻ em, chứ không phải bức tranh đẹp có sự can 
thiệp của người lớn. Khi bàn về sự phát triển tranh vẽ của 
trẻ em theo các giai đoạn, ông đã đưa ra một câu cũng 
khá hay. Ông cho rằng “Ở mỗi độ tuổi tranh trẻ em vẽ 
đều có sự hoàn chỉnh riêng của nó, và giai đoạn sau chỉ 
hoàn thiện thông qua sự hoàn thiện của nó trước đó”. Câu 
nói này hoàn toàn đúng không những vào thời điểm của 
ông mà vẫn đúng cho tới tận bây giờ, thậm chí cả trong 
tương lai nữa. Thật là một câu nói rất xác đáng cho những 
ai quan tâm tới vấn đề tranh vẽ của trẻ em. 
Tiếp nối Rousseau, Thomas Robert Ablett (1848- 
1945), người Anh đã vận dụng mô hình này. Ông đưa ra 
một số nhận định rằng “Hầu hết trẻ em không chỉ thích 
vẽ mà còn cảm thấy phải thể hiện mình bằng tranh”. Câu 
nói này thì bình thường chưa có chuyên môn sâu về mĩ 
thuật, song cũng là một nhận định cần phải có khi bàn tới 
tranh vẽ của trẻ em. Nhưng ông lại đưa ra một quan niệm 
cho quá trình vẽ tranh của trẻ em khá hay, theo ông thì 
không nên để trẻ em phát triển kĩ năng vẽ theo kiểu tự 
nhiên, nhận xét của ông đặc biệt quan trọng vì sau này 
ông trở thành một người có ảnh hưởng cực kì lớn trong 
nền giáo dục nghệ thuật cho trẻ em ở Anh. Ông còn lí 
giải “Học vẽ hay vẽ tranh nên để trẻ em phát triển khả 
năng quan sát thiên nhiên một cách cẩn thận thông qua 
những bài học”. Những nhận xét của ông đã tạo ra một 
sự trái chiều so với nhà nghiên cứu Rousseau trước ông. 
Hai quan điểm này cùng đi đến vấn đề hướng dẫn dạy vẽ 
cho trẻ em một cách đúng nhất, nhưng chúng ta đều thấy 
hướng đi nào cũng đúng và cũng cần, trẻ em cần có sự 
định hướng khi học vẽ theo các bài học, song cũng rất 
cần sự thể hiện bằng cách tự nhiên nhất. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86 
84 
Người thứ ba nghiên cứu áp dụng theo lí thuyết này 
là Ebenezr Cooke (1885), cũng là người Anh. Ông đưa 
ra một số nhận định về tranh vẽ của trẻ em như: “Trẻ em 
thích sử dụng tranh vẽ như một phương tiện biểu hiện, 
vui thích để vẽ từ bộ nhớ hoặc trí tưởng tượng”. Ở đây, 
ông đã nói tới hoạt động vẽ của trẻ em là hoạt động 
thường xuyên, liên tục dường như nó là một phương tiện 
để biểu hiện, xuất phát từ bộ nhớ hay trí tưởng tượng, khi 
xét câu nói này cũng không có gì là đặc biệt cả, vì đúng 
nó là một điều hiển nhiên ở trẻ em. Nhưng ở điều khẳng 
định thứ hai của ông về tranh vẽ của trẻ em thì làm chúng 
ta phải suy ngẫm, ông khẳng định “Trẻ em không vẽ 
những gì nó nhìn thấy mà là những gì nó biết và hiểu ” 
và ông còn đưa ra thêm lí thuyết nghiên cứu trẻ em và 
cho rằng “Vẽ tranh của trẻ em như một lí thuyết theo các 
giai đoạn phát triển”. Cụ thể: Giai đoạn đầu (từ 2-4 tuổi); 
Giai đoạn thứ hai (từ 5-6 tuổi); Giai đoạn thứ ba (từ 7-8 
tuổi); Giai đoạn thứ tư (từ 9-10 tuổi). Khi phân loại về 
các giai đoạn phát triển tranh vẽ của trẻ em Cooke đã mô 
tả chi tiết những gì Rousseau “ám chỉ” nhiều năm trước 
đó, nghĩa là trẻ em học cách vẽ theo thứ tự, với từng giai 
đoạn dần dần trực tiếp đến gián tiếp. “Đây là một khái 
niệm mang tính cách mạng”. Ablett và Cooke, họ phải 
mất 30 năm nghiên cứu thiết lập nên “Mô hình cửa sổ thẩm 
mĩ” ở thế kỉ XIX, nhưng vào thời điểm đó những nghiên 
cứu của họ không được công nhận và vẫn là những điều 
thách thức cho những nhà nghiên cứu tiếp theo. 
Và người tiếp theo cùng có những quan điểm của 
mô hình lí thuyết này là Franz Cizek (1865-1946), 
người Áo. Ông đã học tại Học viện Mĩ thuật năm 1885 
và được coi là nhà nghiên cứu giải mã được nhiều thứ 
nhất trong tranh trẻ em vẽ thời đó. Ông đưa ra rất nhiều 
nhận định như: “Tranh trẻ em vẽ chúng là một hệ thống 
ngôn ngữ phát triển và mang tính tượng trưng trong tự 
nhiên” và giải thích “Tranh trẻ em vẽ giống như một 
cửa sổ trên thế giới, nó hoạt động như một cửa sổ để 
làm cho một phần của thế giới có thể nhìn thấy được”. 
Câu nói này về sau chính là đặc điểm nội hàm của lí 
thuyết mô hình “cửa sổ thẩm mĩ”. Ông nói “Tranh trẻ 
em vẽ khác biệt và rất khác so với tranh vẽ của người 
lớn. Trẻ em sáng tạo và vẽ tranh nhiều hơn đa số người 
lớn” Câu nói của ông là rất đúng giữa trẻ em và người 
lớn phải có sự khác biệt chứ không thể cho là một được. 
Tranh vẽ của trẻ em được vẽ theo một hệ thống ngôn 
ngữ mang tính tượng trưng trong tự nhiên vì đơn giản 
là chúng không thể vẽ đúng các đối tượng ở tự nhiên 
như là người lớn được. Và ông đưa ra một nhận xét nữa 
là “Phải có một sự hiểu biết rằng trẻ em có các quy tắc 
hoặc luật tự nhiên của riêng mình và rằng đứa trẻ đó gần 
gũi với thiên nhiên hơn người lớn”. Đúng là trẻ em gắn 
với sự hồn nhiên theo kiểu tự nhiên và rất gần với môi 
trường tự nhiên và tự tạo ra sự hòa đồng đó mà ở người 
lớn không bao giờ có được. Do đó yếu tố môi trường tự 
nhiên và cách vẽ tự nhiên cho trẻ em luôn phải được đề 
cao trong quá trình dạy vẽ cho chúng. Và ông đưa ra 
một quan điểm rất hay nữa là “Nghệ thuật của trẻ em 
không phải đạt được bằng kĩ năng tạo hình mà bằng một 
quá trình sáng tạo”. Rất là đúng, nếu chỉ lấy một bức 
tranh của trẻ em để so sánh thì chúng chưa có giá trị gì 
mấy so với tranh vẽ của người lớn, song nếu xem xét 
theo một quá trình thì là một sự phát triển khổng lồ mà 
người lớn không phải ai cũng làm được về cả mặt số 
lượng cũng như theo một quá trình diễn biến cảm xúc 
của trẻ em. Và đây là một câu nói ông đưa ra làm rất 
nhiều nhà nghiên cứu sau này phải mất công mất sức, 
mà chưa chắc đã hiểu được đúng và giải thích được điều 
này “Trong tranh trẻ em vẽ có chứa đựng vô thức 
không? ”. Ngoài ra, trong nghiên cứu của mình, ông 
còn đưa ra một số nhận định “Trẻ em từ 1,5-3 tuổi là 
giai đoạn đầu tiên, giai đoạn chữ viết nguệch ngoạc và 
nhòe nhoẹt, có tầm quan trọng vô cùng và nhiều điều 
không đúng lắm đã gây ra một cách vô thức”. Đây là 
thời đại của nghệ thuật thuần khiết nhất, gần như là 
“Erbgut” (di sản) của trẻ em trong giai đoạn này. Câu 
nói của ông đã nhấn mạnh tới cả từ di sản, nó giống như 
một sự khẳng định bằng bản quyền mà không có sự thay 
đổi, liệu câu nói này có thực sự đúng không chưa chắc 
chúng ta nghĩ tới để bàn luận sâu, vì cũng không ai dám 
hiểu sâu về tâm lí của trẻ em để nhận định vấn đề này 
là đúng hay sai, mà nên chỉ thống nhất ra một điều, đó 
là câu nói tuyệt vời nhất và đúng nghĩa nhất dành cho 
trẻ em. Vì hiểu một cách đơn giản giai đoạn đó là trẻ 
em vẽ theo kiểu bản năng chưa có sự tác động của người 
lớn. Nhiều nhà nghiên cứu phải khẳng định rằng phải 
chờ đến nhiều quan điểm của nhà nghiên cứu Cizek đưa 
ra chúng ta mới có thể biết nhiều, đọc được nhiều thứ 
và hiểu được nhiều thứ từ tranh vẽ của trẻ em. 
2.2. Lí thuyết “Mô hình gương tâm lí” 
Thế giới nội tâm là một điểm sáng cho lĩnh vực tâm 
lí khi nghiên cứu về tranh vẽ của trẻ em, vấn đề này như 
một lĩnh vực nghiên cứu hiện đại ở thế kỉ XX. Khi đã 
có một cơ chế tâm lí trẻ em thuận lợi thì một loạt các 
nghiên cứu cho vấn đề tranh vẽ được xuất hiện đánh 
dấu sự ra đời và phát triển về tâm lí nghệ thuật, cùng 
với đó là sự xuất hiện của lí thuyết “Mô hình gương tâm 
lí” để áp dụng nghiên cứu tới tranh vẽ của trẻ em. Người 
tiêu biểu cho mô hình này là James Sully (1884-1923), 
người Anh, chịu trách nhiệm đưa nghệ thuật của trẻ em 
vào tâm lí học. Ông đưa ra “Quan điểm đầu tiên của trẻ 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86 
85 
em về nghệ thuật là phụ thuộc vào sự phát triển”. Sự phát 
triển dựa trên sự hiểu biết về sự biểu hiện của thị giác 
hoặc tưởng tượng của trẻ em thông qua sự vật. Ông giải 
thích “Trẻ em bắt đầu thực hiện theo thực tế, nhưng 
không phải thực tế hữu hình. Gương soi là phương tiện 
tốt nhất để làm sáng tỏ chức năng đại diện của hình ảnh. 
Trẻ em có thể nhận ra sự phản chiếu của chúng trong 
gương như là đại diện của chính mình. Chúng bắt đầu tạo 
ra những đại diện riêng của chính mình và các đối tượng 
trên giấy, đó chính là tranh vẽ. Đây là nguồn gốc của mô 
hình gương tâm lí, lấy biểu tượng gương soi để phản 
chiếu nội tâm của trẻ em thông qua bức tranh vẽ. Mới 
nghe nói tới vấn đề gương soi làm chúng ta rất khó hiểu, 
nhưng hãy xem ở mô hình cửa sổ thẩm mĩ thì ở đó sự 
thể hiện là bằng những hình ảnh tự nhiên, hình ảnh thật 
được bộc lộ ra bên ngoài. Còn ở mô hình này chính là 
sự biểu hiện ngược lại, biểu hiện ở bên trong và thông 
qua gương soi để chúng ta có thể cảm nhận được điều 
đó. Dựa vào lí thuyết này, Sully đưa ra các quan điểm 
của mình khi nghiên cứu tới tranh vẽ của trẻ em. Ông 
cho rằng “Trẻ em vẽ những gì chúng biết về chủ đề, chứ 
không phải những gì chúng thực sự thấy trước mắt”. Sự 
nhìn nhận của ông về vấn đề này rất hay, rõ ràng cái trẻ 
em nhìn thấy trước mắt nhưng không phải là thật trên 
bức tranh, điều này là vì sao vậy? Vì trẻ em không có 
đủ kiến thức về chuyên môn như người lớn để có thể 
sao chép lại các đối tượng thấy trước mắt mà thể hiện 
ra được trên giấy. Do vậy, chúng chỉ thể hiện ra được 
những gì chúng biết về chủ đề của những hình ảnh đối 
tượng đó mà thôi, từ đó chúng ta mới thấy sự bộc lộ này 
là bằng nội tâm là nhiều hơn, chứ không phải thể hiện 
bằng lí trí như ở người lớn. Và ông cũng nhấn mạnh 
thêm rằng “Khi trẻ em vẽ, chúng không quan tâm đến 
tính chính xác”. Từ câu nói này của ông, chúng ta hãy 
đặt ngược vấn đề, nếu cho trẻ em vẽ thật kĩ, thật đúng 
hay thật chính xác, thực ra chúng cũng sẽ không làm 
được. Cho nên trẻ em khi vẽ thường không quan tâm 
đến độ chính xác là một sự hiển nhiên và như vậy tranh 
vẽ của trẻ em chỉ mang tính chất khái quát, tượng trưng 
về những điều trẻ cảm nhận và thông qua ngôn ngữ hội 
họa để biểu đạt lên tranh vẽ một cách hết sức tình cờ gắn 
nhiều với yếu tố chủ quan của chủ thể sáng tác. Trong 
nghiên cứu của Sully, ông cũng đưa ra sự phát triển tranh 
vẽ của trẻ em là thông qua các giai đoạn khác nhau. Ông 
chia thành ba giai đoạn: giai đoạn “vẽ bắt chước (2-3 
tuổi), giai đoạn vẽ giản đồ theo kiểu tượng trưng (4-5 
tuổi), giai đoạn chuyển động mang tính chủ nghĩa tự 
nhiên (5-6 tuổi). Những gì ông đưa ra cũng là bước khởi 
đầu để chứng minh rằng tranh vẽ của trẻ em còn được 
biểu hiện bằng cảm xúc nội tâm, chứ không đơn thuần là 
cảm xúc biểu hiện qua hình thức bên ngoài. 
Người thứ hai đại diện cho lí thuyết “Mô hình 
gương tâm lí”, lại là một nhà nghiên cứu đặc biệt, vì ông 
có điểm xuất phát từ “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ”, chúng 
ta xem như “một sự khởi đầu giao thoa”, đó là Viktor 
Lowenfeld (1903-1960), người Áo. Ông được tiếp cận 
nghiên cứu bài bản từ lí thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm 
mĩ”, đây được coi là yếu tố truyền thống là bước khởi 
đầu, song ông không chấp nhận dừng lại ở đó mà ủng 
hộ hướng nghiên cứu mới là thiên về tâm lí trong sáng 
tạo nghệ thuật. Có nghĩa ông đã quan tâm đến yếu tố 
cảm giác, cảm nhận trong sự thúc đẩy nghệ thuật của 
trẻ em. Và từ đây, ông cũng có một điểm chung với sự 
diễn giải của Freud về nghệ thuật của trẻ em từ những 
người bị ảnh hưởng bởi các lí thuyết của ông và lĩnh 
vực trị liệu nghệ thuật bắt đầu vào những năm 1960. 
Trong nghiên cứu của mình về tranh vẽ của trẻ em, ông 
cũng có một nhận định rằng sự phát triển tranh vẽ của 
trẻ em được thể hiện bởi nhiều giai đoạn khác nhau. 
Ông phân chia thành 5 giai đoạn sau: Viết nguệch ngoạc 
(từ 2-4 tuổi); Phác họa sơ bộ (từ 4- 7 tuổi); Phác họa (từ 
7-9 tuổi); Chủ nghĩa hiện thực sơ khai trong độ tuổi (từ 
9-12 tuổi); Giai đoạn tự nhiên- giả tạo (từ 12-14 tuổi); 
Thời gian quyết định (từ 14-17 tuổi). Ở mỗi giai đoạn 
này, ông đều đưa ra những lí thuyết của mình về những 
gì được xảy xa “đằng sau hay bên trong” của những bức 
vẽ đó từ trẻ em. 
2.3. Lí thuyết “Mô hình tâm lí học và nghệ thuật” 
Mỗi một thời đại lại đánh dấu một bước phát triển 
riêng, ở lĩnh vực tranh vẽ của trẻ em cũng vậy, vào thời 
điểm của thế kỉ XX ảnh hưởng thế giới từ các trào lưu 
nghệ thuật hiện đại đã làm thay đổi một số quan niệm 
về nghệ thuật tạo hình nói chung và hội họa của trẻ em 
nói riêng. Từ hai lí thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” và 
“Mô hình gương tâm lí” đã không còn được quan tâm 
vận dụng từ những nhà nghiên cứu khi xem xét tranh vẽ 
của trẻ em, nhưng những giá trị của chúng vẫn được 
tiếp tục phát triển, kết nối với các dòng nghệ thuật khác 
có tính hiện đại hơn. Và một người đại diện cho sự kết 
nối mới này là Rudolf Arnheim (1904), người Đức. 
Ông là giáo sư tâm lí học về nghệ thuật, với cương vị 
của mình ông đã tổng hợp các phương pháp tiếp cận 
trước đó từ cả “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” và “Mô hình 
gương tâm lí” và đề xuất một lí thuyết mới gọi là “Mô 
hình tâm lí và nghệ thuật”. Đây là một nhân vật rất đặc 
biệt có sự hoàn hảo về chuyên môn, bởi ông là người 
vừa có kiến thức về tâm lí học lại vừa có kiến thức về 
hội họa, hai yếu tố này được kết hợp bổ trợ cho nhau 
trong một con người là một điều khá hiếm thấy. Vì thế, 
ông được coi là nhà lí thuyết có ảnh hưởng nhiều nhất 
vào thời điểm đó khi nghiên cứu tới tranh vẽ của trẻ em. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86 
86 
Ông đã để lại một dấu ấn không thể xóa nhòa cho thế hệ 
sau khi nhắc tới ông, quả là một nhân vật xuất chúng vì 
có quá nhiều sự khen ngợi. Trong lí thuyết của ông đưa 
ra khá nhiều quan điểm của mình về tranh vẽ của trẻ em, 
nhưng có một câu thấm thía và đúng nhất đó là “Trẻ em 
vẽ những gì chúng biết chứ không phải những gì chúng 
nhìn thấy”. Câu nói này tưởng rằng rất đơn giản khi bàn 
luận tới vấn đề tranh vẽ của trẻ em, nhưng đó là câu nói 
chứa đựng sự hiểu biết và một cách nhìn khá toàn diện 
về tranh vẽ của trẻ em vào thời điểm đó. Nếu câu nói này 
có vào thời điểm bây giờ có lẽ vẫn đúng, vì một điều hiển 
nhiên để một người có thể vẽ được đúng những sự vật có 
trong tự nhiên phải cần có kiến thức chuyên môn tạo hình 
sâu, không thì cũng phải nắm được luật phối cảnh thì mới 
chuyển tải các đối tượng nhìn thấy vào tranh vẽ được và 
điều này ở trẻ em là không thể. Do vậy, trẻ em vẽ những 
gì chúng biết là khá chính xác, từ biết ở đây được hiểu là 
cái cảm nhận của chính các em thông qua các yếu tố của 
hội họa trong bức tranh, chứ chữ “biết” ở đây không có 
nghĩa là hiểu biết. Tài năng đặc biệt của Arnheim là khả 
năng tham khảo chéo hai điểm trọng tâm khác nhau vào 
một chủ đề liên ngành toàn diện bao gồm cả quan điểm 
của “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” và “Mô hình gương tâm 
lí”. Ông chắc chắn đã để lại một di sản mạnh mẽ và quan 
trọng cho “Tâm lí học và nghệ thuật” của mình mà tiếp 
tục thách thức cho những mô hình mang tính độc quyền 
trong cả hiện tại và tương lai. Như trên đã nói thế kỉ XX 
là giai đoạn chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu nghệ 
thuật, trong đó có cả vấn đề tranh vẽ của trẻ em, cũng 
được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. 
3. Kết luận 
Theo các nhà nghiên cứu tranh trẻ em vẽ trên thế 
giới từ nhà nghiên cứu đầu tiên Rousseau (1712-1778), 
thì chúng ta đã thấy được lịch sử của nó tính đến nay đã 
hàng ba thế kỉ. So với những nghiên cứu tranh vẽ của 
người lớn thì còn khá ngắn, nhưng với những nghiên cứu 
về tranh trẻ em vẽ cũng đã có một chặng đường khá dài 
đủ làm cơ sở ban đầu đánh một dấu mốc có tính lịch sử 
và sự diễn biến phát triển cho quá trình này tới tận ngày 
nay. Nghiên cứu đến tranh trẻ em vẽ là một vấn đề rất 
phức tạp và tạo ra nhiều tranh cãi mang tính trái chiều 
nên rất khó thống nhất, song như những sự kiện đã được 
tóm lược của bài viết ngắn này cũng đã thấy khá rõ 
hướng đi của những nhà nghiên cứu khá cơ bản theo ba 
lí thuyết là “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ”, “Mô hình gương 
tâm lí” và giao thoa kết hợp lại thành “Mô hình tâm lí 
và nghệ thuật”. Để làm được điều này những nhà 
nghiên cứu cũng mất gần hai thế kỉ mới xây dựng xong 
các mô hình trên, mặc dù khi xây dựng mô hình xong họ 
còn không được công nhận, hưởng ứng và vẫn đầy thách 
thức cho các thế hệ tiếp theo. Nhưng những mô hình 
nghiên cứu của họ sẽ giúp các nhà nghiên cứu sau này có 
cơ sở lập luận ban đầu về tranh vẽ của trẻ em. Còn nhìn ở 
góc độ mĩ thuật thì ba mô hình trên chưa có sự phân tích 
sâu sắc ở nhiều khía cạnh mang tính chuyên môn về tạo 
hình như: Màu sắc, không gian, bố cục, nhịp điệu, chất 
cảm.., trong tranh vẽ của trẻ em mà mới dừng lại ở việc 
phân tích, giải nghĩa vấn đề hình vẽ, giai đoạn, cách vẽ, 
cách nhìn... Chúng rất cần được nghiên cứu tiếp và làm 
sáng tỏ hơn nữa và như đã nói, chúng sẽ là thách thức 
cho những nhà nghiên cứu tiếp theo ở những thế kỉ này 
và thế kỉ sau. Song qua đó chúng ta có thể hiểu được 
cách nghiên cứu khá khoa học và bài bản của họ, cùng 
với sự phát triển tranh trẻ em vẽ theo sự phát triển của 
chính đứa trẻ và cũng theo lịch sử phát triển của mỗi 
thời đại khác nhau. 
Ở Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và 
dạy vẽ tranh cho trẻ em đã áp dụng được 3 lí thuyết nêu 
trên chưa? Theo khá nhiều nguồn tài liệu trong nước đã 
bàn luận tới vấn đề tranh vẽ của trẻ em để áp dụng theo 
những mô hình lí thuyết trên thì đã có nhưng việc áp dụng 
này chưa thực sự rõ ràng và đang tạo ra một sự xung đột 
trái chiều. Những điều tưởng rằng tranh vẽ của trẻ em vẽ 
rất đơn giản nhưng thực sự để hiểu biết về nó và định 
hướng đúng cho quá trình biên soạn được một bộ sách dạy 
mĩ thuật nhiều tập phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi cho trẻ 
em Việt Nam vẫn còn là một chặng đường dài phía trước. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Arnheim, R. (1974a). Art and visual perception 
(Nhận thức nghệ thuật và trực quan): A 
psychology of the creative eye. The new version. 
Berkeley: University of California Press. 
[2] Cooke, E. (1886). Art teaching and child nature 
(Giảng dạy nghệ thuật và bản chất trẻ nhỏ). 
Journal of Education, pp. 12-15. 
[3] Cowper.R. (Ed) (1884). Proceedings of the 
international conference on education (Tiến trình 
của hội nghị quốc tế về giáo dục) (Vol. 2). London: 
William Clower, pp. 24-28. 
[4] Lowenfeld,V, - Brittain, W.L (1982). Creative and 
mental growth (Sáng tạo và tăng trưởng trí tuệ) 
(7th ed). New York: Macmillan. 
[5] Rousseau, J.J. (1911). Emile (B. Foxley, Trans). 
London: Aldine Press. 
[6] Sully.J. (1888). Outlines of psychology (Phác thảo 
về tâm lí học). New York: D. Appleton. 
[7] Kellog, R. (1970). Analyzing children’s art (Phân 
tích nghệ thuật của trẻ em). Palo, CA: National.

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_mot_so_li_thuyet_ve_tranh_ve_cua_tre_em.pdf