Tin học hóa quy trình quản lý hoạt động khoa học - công nghệ ngành Ngân hàng

Thực hiện Chiến lược phát triển Khoa học- Công nghệ (KH-CN) giai đoạn 2011-

2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động đẩy mạnh hoạt động

KH-CN. Kết quả là công tác nghiên cứu khoa học của Ngành ngày càng phát triển

cả về chiều rộng và chiều sâu. Số lượng sản phẩm KH-CN của Ngành hiện lên đến

hàng nghìn sản phẩm với đa dạng chủng loại: Đề tài, dự án, đề án, bài báo, ấn

phẩm. của nhiều nhà khoa học trong và ngoài Ngành. Trên thực tế, công tác quản

lý hoạt động KH-CN đang được thực hiện đa phần theo phương pháp thủ công,

các dữ liệu được lưu trữ thông qua văn bản hoặc các tệp tin rời rạc. Với sự phát

triển mạnh mẽ các hoạt động KH-CN, việc quản lý, tổng hợp và tra cứu các thông

tin phục vụ công tác điều hành hoạt động KH-CN tại NHNN theo phương pháp thủ

công không còn phù hợp. Bài viết phân tích sự cần thiết tin học hóa quy trình quản

lý hoạt động KH-CN ngành Ngân hàng và trình bày giải pháp công nghệ cho vấn đề

này

pdf 9 trang yennguyen 3220
Bạn đang xem tài liệu "Tin học hóa quy trình quản lý hoạt động khoa học - công nghệ ngành Ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tin học hóa quy trình quản lý hoạt động khoa học - công nghệ ngành Ngân hàng

Tin học hóa quy trình quản lý hoạt động khoa học - công nghệ ngành Ngân hàng
68 soá 163 - thaùng 12.2015
Tin học hóa quy trình quản lý 
hoạt động khoa học- công nghệ 
ngành Ngân hàng
 Hướng tới 55 năm học viện ngân hàng 
TS. Phan Thanh Đức và nhóm Thực hiện Đề Tài
Thực hiện Chiến lược phát triển Khoa học- Công nghệ (KH-CN) giai đoạn 2011-
2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động đẩy mạnh hoạt động 
KH-CN. Kết quả là công tác nghiên cứu khoa học của Ngành ngày càng phát triển 
cả về chiều rộng và chiều sâu. Số lượng sản phẩm KH-CN của Ngành hiện lên đến 
hàng nghìn sản phẩm với đa dạng chủng loại: Đề tài, dự án, đề án, bài báo, ấn 
phẩm... của nhiều nhà khoa học trong và ngoài Ngành. Trên thực tế, công tác quản 
lý hoạt động KH-CN đang được thực hiện đa phần theo phương pháp thủ công, 
các dữ liệu được lưu trữ thông qua văn bản hoặc các tệp tin rời rạc. Với sự phát 
triển mạnh mẽ các hoạt động KH-CN, việc quản lý, tổng hợp và tra cứu các thông 
tin phục vụ công tác điều hành hoạt động KH-CN tại NHNN theo phương pháp thủ 
công không còn phù hợp. Bài viết phân tích sự cần thiết tin học hóa quy trình quản 
lý hoạt động KH-CN ngành Ngân hàng và trình bày giải pháp công nghệ cho vấn đề 
này.
69
hướng tới 55 năm học viện ngân hàng (1961 - 2016)
thaùng 12.2015 - soá 163
Từ khóa: Hệ thống thông tin, 
Kiến trúc tổng thể, tin học hóa 
quy trình quản lý
1. Tổng quan về hoạt 
động khoa học và công nghệ 
ngành Ngân hàng
ể nắm bắt được mọi 
mặt hoạt động KH-
CN trong ngành Ngân 
hàng, trước hết cần 
nhận diện được ngành Ngân 
hàng nằm trong nhóm nào, 
phân nhánh nào của phạm trù 
KH-CN. 
Theo bảng phân loại lĩnh 
vực nghiên cứu KH-CN của 
Việt Nam (ban hành kèm 
theo Quyết định số 12/2008/
QĐ-BKHCN ngày 04/9/2008 
của Bộ KH&CN và Quyết 
định số 37/QĐ-BKHCN ngày 
14/01/2009 của Bộ KH&CN 
đính chính Quyết định số 
12/2008/QĐ-BKHCN), các 
lĩnh vực nghiên cứu KH&CN 
được chia thành 6 nhóm lớn: 
(1) Khoa học tự nhiên; (2) 
Khoa học kỹ thuật và công 
nghệ; (3) Khoa học y, dược; 
(4) Khoa học nông nghiệp; (5) 
Khoa học xã hội; (6) Khoa 
học nhân văn; Trong mỗi 
nhóm lớn trên lại được 
chia thành nhiều nhóm 
nhỏ. Theo cách thức 
phân loại này, ngành 
Ngân hàng được xếp vào 
nhóm lớn thứ 5, đó là 
nhóm khoa học xã hội. 
Nhóm khoa học xã hội 
được phân chia theo 9 
nhóm nhỏ như sau: (1) 
Tâm lý học; (2) Kinh 
tế và kinh doanh; (3) 
Khoa học giáo dục; (4) 
Xã hội học; (5) Pháp 
luật; (6) Khoa học chính trị; 
(7) Địa lý kinh tế và xã hội; 
(8) Thông tin đại chúng và 
truyền thông; (9) Khoa học 
xã hội khác. Như vậy, ngành 
Ngân hàng được xếp vào 
nhóm kinh tế và kinh doanh. 
Căn cứ bảng phân loại nhóm 
ngành KH-CN (kèm theo Công 
văn số 23/BGDĐT-KHCNMT 
ngày 03/01/2014), trong lĩnh 
vực khoa học kinh tế, ngành 
Ngân hàng được xếp vào 
nhóm nhỏ tài chính- ngân 
hàng. Phân nhóm tài chính- 
ngân hàng bao gồm các phân 
ngành như sau: Kinh tế tài 
chính, kinh tế ngân hàng, kinh 
tế bảo hiểm, kế toán, kiểm 
toán. 
Dựa trên thực tiễn hoạt động 
của ngành Ngân hàng, nội hàm 
hoạt động KH-CN bao gồm 
các hình thức hoạt động như 
sau: NCKH (bao gồm nghiên 
cứu cơ bản và nghiên cứu ứng 
dụng), phát triển và ứng dụng 
công nghệ; dịch vụ KH-CN; 
phát huy sáng kiến và các hoạt 
động sáng tạo khác. 
Hoạt động ngân hàng nằm 
trong mối quan hệ mật thiết 
với các hoạt động kinh tế tài 
chính, kinh tế bảo hiểm, kế 
toán, kiểm toán, và là một bộ 
phận không thể tách rời trong 
hoạt động kinh tế nói chung. 
Vì vậy, hoạt động nghiên cứu 
KH-CN trong ngành Ngân 
hàng không chỉ bó hẹp trong 
phạm vi hoạt động ngân hàng 
mà đặt trong mối quan hệ 
gắn bó chặt chẽ với các nhóm 
ngành khác trong hoạt động 
kinh tế nói chung. Các công 
trình NCKH từ trước đến nay 
của ngành Ngân hàng cũng 
theo đó trải rộng trên nhiều 
lĩnh vực khác nhau của khoa 
học kinh tế, không chỉ dừng 
lại ở việc tổng kết lý luận, nền 
tảng lý thuyết cơ bản, mà đã đi 
vào phân tích thực tiễn, khái 
quát hóa các vấn đề nảy sinh 
trong thực tiễn thành lý luận 
nhằm tìm ra những giải pháp 
thiết thực, hữu ích giải quyết 
hiệu quả vấn đề. 
Gắn liền với quá trình xây 
dựng và phát triển đất nước, 
trải qua từng giai đoạn, hoạt 
động KH&CN ngành Ngân 
Hình 1. Số lượng đề tài/dự án và kinh phí nhiệm vụ cấp ngành 
giai đoạn 2010-2015
Nguồn: Viện Chiến lược ngân hàng
70
hướng tới 55 năm học viện ngân hàng (1961 - 2016)
soá 163 - thaùng 12.2015
hàng đã không ngừng phát 
triển (Hình 1). Đến nay, hàng 
nghìn công trình NCKH được 
triển khai thực hiện gắn liền 
với các hoạt động chuyên 
môn, có ý nghĩa quan trọng 
trong việc tư vấn xây dựng và 
thực thi các chính sách điều 
hành của NHNN góp phần 
kiểm soát lạm phát, ổn định 
hệ thống tiền tệ, thúc đẩy 
tăng trưởng kinh tế; nâng cao 
hiệu quả huy động và phân bổ 
vốn cho đất nước. Bên cạnh 
đó, Ban lãnh đạo NHNN đã 
xác định rõ nghiên cứu ứng 
dụng và phát triển công nghệ 
ngân hàng là một trong những 
nhiệm vụ trọng tâm để phát 
triển và đổi mới hoạt động 
ngân hàng, là phương tiện chủ 
lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn 
khoảng cách phát triển so với 
ngân hàng các nước tiên tiến 
trong khu vực và trên thế giới. 
Chính vì vậy, các hoạt động 
nghiên cứu ứng dụng, đổi mới 
sáng tạo không ngừng diễn 
ra. Kết quả là đã ứng dụng có 
hiệu quả các thành tựu công 
nghệ ngân hàng tiên tiến phù 
hợp với thực tiễn Việt Nam.
2. Sự cần thiết tin học 
hóa quy trình quản lý hoạt 
động khoa học và công nghệ 
ngành Ngân hàng
Nhiệm vụ tổ chức nghiên 
cứu, triển khai và quản lý 
việc thực hiện các nhiệm vụ 
KH-CN của Ngành được giao 
cho Viện Chiến lược Ngân 
hàng (Viện CLNH)- đơn vị 
sự nghiệp công lập trực thuộc 
NHNN. Sau hơn 7 năm kể 
từ ngày thành lập1, số lượng 
1 Viện Chiến lược được thành lập 
sản phẩm KH-CN mà Viện 
CLNH đang quản lý lên đến 
hàng nghìn sản phẩm với đa 
dạng chủng loại: Đề tài, dự 
án, đề án, bài báo, ấn phẩm... 
của hàng nghìn nhà khoa học 
trong và ngoài Ngành. Tuy 
nhiên, công tác quản lý hoạt 
động KH-CN đang được thực 
hiện một cách thủ công, trên 
những dữ liệu rời rạc mà chưa 
ứng dụng công nghệ tin học 
trong các bước quản lý hoạt 
động KH-CN của ngành Ngân 
hàng, khiến quá trình quản lý 
gặp nhiều khó khăn. Những 
khó khăn này thể hiện ngay từ 
việc tổng hợp đề xuất của các 
đơn vị để xây dựng Danh mục 
nhiệm vụ KH-CN, dễ bị trùng 
lặp, khó theo dõi. Việc mời 
các chuyên gia có uy tín trong 
từng lĩnh vực để tham gia Hội 
đồng khoa học và cộng tác 
trong các chương trình nghiên 
cứu, tổ chức hội thảo, tọa 
đàm.. cũng gặp nhiều trở ngại 
do chưa lập được hồ sơ quản 
lý, xây dựng đội ngũ chuyên 
gia, cộng tác viên khoa học 
trong Ngành, cập nhật thông 
tin khoa học, đặc biệt là phân 
nhóm đội ngũ chuyên gia theo 
từng lĩnh vực nghiên cứu... 
Hơn nữa, việc lưu trữ các kết 
quả nghiên cứu khoa học đã 
hoàn thành, các tài liệu hội 
thảo, tọa đàm và các tài liệu 
khoa học khác... đang được 
thực hiện một cách thủ công 
với các tài liệu bản cứng, đĩa 
CD, khiến cho việc lưu trữ trở 
nên cồng kềnh, khó kiểm soát 
theo Quyết định số 2852/QĐ-NHNN 
ngày 25/11/2008 của Thống đốc 
NHNN Việt Nam.
và tìm kiếm. 
Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu 
cấp thiết đối với việc quản 
lý hoạt động KH-CN là phải 
xây dựng được cơ sở dữ liệu 
(CSDL) KH-CN của Ngành, 
trên cơ sở đó tin học hóa các 
quy trình quản lý KH-CN, 
cung cấp công cụ tra cứu, phổ 
biến, chỉ đạo điều hành hoạt 
động KH-CN. Thông qua việc 
tin học hóa, việc quản lý hoạt 
động KH-CN sẽ được quy 
trình hóa, đồng bộ hóa con 
người và dữ liệu, từ đó cung 
cấp cho Ban lãnh đạo ngân 
hàng, bộ phận quản lý khoa 
học, các đơn vị và cá nhân liên 
quan theo dõi những thông 
tin cần thiết về quá trình triển 
khai thực hiện các nhiệm vụ 
KH-CN kịp thời và chính xác. 
Cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần tin học hóa các 
quy trình quản lý hoạt động 
KH-CN ngành Ngân hàng. 
Các quy trình trong hoạt động 
quản lý KH-CN sẽ được thực 
hiện một cách tự động hóa trên 
cổng thông tin KH-CN ngành 
ngân hàng, bao gồm các hoạt 
động như: 
Đăng ký nhiệm vụ KH-CN;
Thẩm tra và phê duyệt nhiệm 
vụ khoa học đã đăng ký; 
Cập nhật tình trạng và tiến độ 
thực hiện của các nhiệm vụ 
KH-CN; 
Theo dõi việc gửi và nhận 
phản biện nhiệm vụ KH-CN từ 
các chuyên gia; 
Quản lý công tác nghiệm thu 
và lưu trữ các sản phẩm của 
các nhiệm vụ KH-CN. 
Các quy trình đều được xây 
dựng một cách tự động và có 
71
hướng tới 55 năm học viện ngân hàng (1961 - 2016)
thaùng 12.2015 - soá 163
thể dễ dàng được cập nhật, 
tùy biến theo các quy định của 
NHNN về hoạt động KH-CN 
nói chung. 
Thứ hai, cần xây dựng cơ sở 
dữ liệu tập trung về KH-CN 
ngành ngân hàng, bao gồm: 
Thông tin về các sản phẩm 
KH-CN như: Bài báo; Dự án, 
đề án, dự án khoa học; Kỷ yếu 
hội thảo, hội nghị, tọa đàm 
Thông tin sẽ được lưu trữ đầy 
đủ bao gồm: Mã số; thời gian 
và tiến độ thực hiện; các tác 
giả; nội dung chính; ngân sách 
thực hiện; kết quả nghiệm 
thu... và các thông tin khác 
theo yêu cầu thực tế; 
Thông tin lý lịch khoa học của 
các nhà khoa học trong từng 
lĩnh vực; 
Tài liệu văn bản về quy định, 
quy chế liên quan đến hoạt 
động KH-CN; 
Các tính năng của hệ thống 
phục vụ cho việc xây dựng 
kho dữ liệu bao gồm: 
Tra cứu thông tin; 
Thêm, sửa, xóa, theo dõi; cập 
nhật dữ liệu theo từng mục 
thông tin; 
Phân quyền người dùng ứng 
với chức năng, nhiệm vụ của 
từng thành viên; 
Lưu vết và theo dõi các hoạt 
động của từng thành viên trên 
hệ thống.
Thứ ba, cần xây dựng hệ 
thống quản lý tin tức về hoạt 
động KH-CN trong ngành 
Ngân hàng nhằm quản lý các 
tin tức, sự kiện; trở thành một 
kênh để các nhà nghiên cứu, 
các chuyên gia và những người 
có quan tâm cập nhật thông tin 
về các sự kiện, hoạt động KH-
CN của ngành Ngân hàng.
3. Giải pháp tin học hóa 
qui trình quản lý hoạt động 
khoa học và công nghệ 
ngành Ngân hàng
Quản lý hoạt động KH-CN 
cần được dựa trên một giải 
pháp tin học hóa có cơ sở 
vững chắc, đảm bảo tính nhất 
quán, các quy trình quản lý 
phải được phân tích, thiết kế 
kỹ lưỡng, để qua đó các thông 
tin cần thiết, liên quan có thể 
được cung cấp dễ dàng, nhanh 
chóng, chính xác và khoa học. 
Theo đó, giải pháp tin học hóa 
quản lý hoạt động KH-CN bao 
gồm các vấn đề như: Xác định 
kiến trúc tổng thể; Xây dựng 
giải pháp (framework) phát 
triển cổng thông tin KH-CN; 
Phân tích, thiết kế và xây dựng 
hệ thống quy trình nghiệp vụ 
KH-CN và Thiết kế khung 
CSDL KH-CN ngành Ngân 
hàng. Tuy nhiên, do giới hạn 
của bài viết, các vấn đề kỹ 
thuật sẽ không được phân tích 
chi tiết, dưới đây trình bày hai 
vấn đề khái quát gồm: Xác 
định kiến trúc tổng thể và Xây 
dựng giải pháp (framework) 
phát triển cổng thông tin KH-
CN.
3.1. Kiến trúc tổng thể cho 
hệ thống
Kiến trúc tổng thể (Enterprise 
Architecture - EA) là cơ sở cho 
Hình 2. Sơ đồ Kiến trúc tổng thể các phân hệ trong Cổng 
thông tin KH-CN ngành Ngân hàng
72
hướng tới 55 năm học viện ngân hàng (1961 - 2016)
soá 163 - thaùng 12.2015
việc tổ chức, thực thi và đánh 
giá hiệu quả vận hành các 
hệ thống thông tin nhằm đạt 
được mục tiêu chiến lược của 
tổ chức, doanh nghiệp. Trong 
thực tiễn, EA là một bức tranh 
kiến trúc đa chiều về tổ chức 
kết nối giữa nghiệp vụ và công 
nghệ thông tin, giúp tổ chức 
phân tích các mối quan hệ 
đan chéo giữa tất cả các chiều 
nhằm tìm ra các nhân tố tạo 
nên sự phát triển ổn định và 
bền vững của tổ chức đó.
Nhóm nghiên cứu đã căn cứ 
Khung kiến trúc Chính phủ 
điện tử Việt Nam2 để xây dựng 
Kiến trúc tổng thể cho Cổng 
thông tin KH-CN ngành Ngân 
hàng. Với kiến trúc này, Cổng 
thông tin KH-CN sẽ là đầu 
mối để kết nối người sử dụng 
(gồm các nhà quản lý, đơn 
vị trực thuộc, nhà khoa học, 
người dân quan tâm,...) tới 
các ứng dụng, dịch vụ của hệ 
thống; đảm bảo khả năng kết 
nối liên thông, tích hợp các 
hệ thống thông tin; đồng thời 
giúp cho việc đầu tư không bị 
trùng lặp, tiết kiệm.
Về khía cạnh kỹ thuật, kiến 
trúc tổng thể bao gồm một 
tập hợp các mô hình, bản vẽ 
(diagrams) được dùng làm cơ 
sở để phân tích, giúp các nhà 
quản lý quyết định thực hiện 
những thay đổi cần thiết để 
đạt được mục đích và mục tiêu 
của tổ chức đó. Các mô hình 
này thực hiện vai trò giống 
như các bản kế hoạch chi tiết 
hướng dẫn và phối hợp nỗ 
2 Ban hành theo Quyết định số 
1178-BTTTT-TTH ngày 21/4/2015 
của Bộ Thông tin Truyền thông)
lực của các bộ phận liên quan 
trong việc xây dựng mới hoặc 
thay đổi một tổ chức hiện tại.
Thực tiễn cho thấy, trong việc 
xây dựng các hệ thống thông 
tin, các ứng dụng tại những bộ 
phận khác nhau có thể được 
xây dựng bởi các nhóm kỹ 
thuật khác nhau với những 
giải pháp khác nhau. Kết quả 
là những sản phẩm ứng dụng 
thường có kiến trúc chỉ đáp 
ứng yêu cầu của ứng dụng đó 
chứ khó có thể áp dụng hoặc 
tích hợp với các ứng dụng 
khác, hoặc nếu muốn áp dụng 
thì phải hiệu chỉnh rất nhiều. 
Do vậy, khi phân tích hệ thống 
Cổng thông tin KH-CN, nhóm 
nghiên cứu lựa chọn triển khai 
bằng cách tạo lập khung kiến 
trúc tổng thể phù hợp với hệ 
thống nhằm đảm bảo việc phát 
triển thống nhất theo chuẩn 
chung đối với các module của 
hệ thống, hiện tại và trong 
tương lai.
3.2. Framework phát triển 
hệ thống 
Song song với công nghệ 
website truyền thống (hiện 
đã trở nên bất cập do nhiều 
hạn chế), các công nghệ cổng 
thông tin (portal) và các ứng 
dụng phát triển theo hướng 
kiến trúc portal hiện đang ngày 
càng phổ biến ở trên thế giới 
và Việt Nam, trở thành trào 
lưu công nghệ và kinh doanh 
phổ biến trên Internet. Yêu cầu 
đặt ra đối với mỗi tổ chức khi 
phát triển portal là cần phải 
nắm vững và làm chủ hoàn 
toàn công nghệ để có thể đảm 
bảo việc kiểm soát các vấn đề 
phát sinh trong quá trình triển 
khai các ứng dụng. Hiện nay, 
trên thị trường Việt Nam đang 
có có 3 nhóm giải pháp portal 
chính: (1) Nhóm phần mềm 
dựa trên nền mã nguồn mở; 
(2) Nhóm phần mềm do các 
Hình 3. Khung kiến trúc tổng thế Cổng thông tin KH-CN 
ngành Ngân hàng
73
hướng tới 55 năm học viện ngân hàng (1961 - 2016)
thaùng 12.2015 - soá 163
hãng có uy tín phát triển; và 
(3) Phần mềm do các công ty 
trong nước tự phát triển. Các 
nhóm giải pháp (1) và (2) bên 
cạnh nhiều ưu điểm vẫn có 
mặt hạn chế là có chi phí khá 
cao và khó có thể kiểm soát 
được các vấn đề công nghệ cốt 
lõi bên trong. Điều này dẫn 
đến về lâu dài vẫn cần phải 
có sự nghiên cứu chuyên sâu 
để có thể làm chủ hoàn toàn 
về các giải pháp công nghệ 
portal. 
Với mong muốn là nghiên 
cứu và tự xây dựng giải pháp 
phát triển (framework) để có 
thể can thiệp vào sâu nhất nền 
tảng hệ thống, đảm bảo việc 
hoạt động ổn định, đồng thời 
có thể xử lý được các sự cố 
một cách nhanh nhất, nhóm 
nghiên cứu lựa chọn việc tự 
xây dựng nền tảng phát triển 
cổng thông tin KH-CN. Giải 
pháp phát triển được đặt tên là 
iSEAS3 dựa trên các mô hình 
phát triển ứng dụng MVC và 
BPM.
MVC là một mô hình kiến 
trúc phần mềm được sử dụng 
với mục đích quản lý và xây 
dựng dự án công nghệ thông 
tin có hệ thống hơn. Đối với 
kiến trúc truyền thống (web 
forms), hệ thống có tính đóng 
gói rất cao, mỗi trang bao gồm 
cả thành phần giao diện và mã 
nguồn. Điều này dẫn đến việc 
thay đổi tính năng hệ thống 
là vô cùng khó khăn vì không 
chỉ ảnh hưởng tới một lớp mà 
3 iSEAS: Information System and 
Enterprise Architecture Solution: Giải 
pháp Kiến trúc Doanh nghiệp và Hệ 
thống Thông tin.
sẽ ảnh hưởng tới cả chương 
trình. Không giống như kiến 
trúc web forms, mô hình MVC 
được chia thành các thành 
phần riêng rẽ là Model, View 
và Controller. Mô hình MVC 
được phân tách rõ ràng thành 
các lớp, thể hiện tính chuyên 
nghiệp hóa giúp cho việc phát 
triển ứng dụng trở nên nhanh 
hơn, đơn giản, dễ dàng nâng 
cấp và bảo trì. Trong lúc lập 
trình viên thiết kế giao diện 
ở tầng View thì các lập trình 
viên khác có thể tiến hành lập 
ở tầng Controller và các tác vụ 
ở tầng Model. Thông tin đến 
hệ thống được nhận qua các 
View, sau đó View sẽ chuyển 
cho Controller cập nhật vào 
Model, Model sẽ xử lý dữ liệu 
và đưa kết quả lại cho View. 
Việc phân chia này giúp dễ 
dàng thêm các tính năng mới 
Hình 4. Mô hình kiến trúc MVC[2]
Hình 5. Vòng đời phát triển theo cách tiếp cận BPM[3]
cho hệ thống hoặc thay đổi, 
điều chỉnh các tính năng cũ 
và còn giúp cho việc lập trình 
diễn ra song song.
Việc xây dựng module quản 
lý hoạt động KH-CN được 
thực hiện dựa trên cách tiếp 
cận hướng quy trình (business 
process) bằng việc sử dụng 
giải pháp BPM (business 
process management). BPM 
cung cấp khả năng đặc tả quy 
trình nghiệp vụ như nó tồn tại 
trong thế giới thực bằng các 
ký pháp đồ họa. Các ký pháp 
đồ họa này có khả năng thực 
thi ngay (executable) nên khi 
phân tích và hoàn thiện một 
quy trình nghiệp vụ thì đó 
cũng được xem là một thiết kế 
của quy trình nghiệp vụ. Mô 
hình nghiệp vụ trong quy trình 
quản lý KH-CN được đặc tả 
sử dụng các ngôn ngữ BPMN 
74
hướng tới 55 năm học viện ngân hàng (1961 - 2016)
soá 163 - thaùng 12.2015
(business process management 
notation), sau đó được chuyển 
tự động sang ngôn ngữ thực 
thi BPEL(business process 
executable language). Việc 
sử dụng BPM trong quá trình 
phát triển giải pháp nhằm cung 
cấp cơ chế đã tự động hóa 
được chuỗi quy trình nghiệp 
vụ. Việc còn lại chỉ là cấu hình 
và cài đặt mô hình nghiệp vụ 
vào môi trường chạy thông 
qua các web-service. Như vậy, 
việc phát triển hệ thống Cổng 
thông tin quản lý hoạt động 
KH-CN sẽ xoay quanh các 
quy trình nghiệp vụ, lấy mô 
hình nghiệp vụ làm trung tâm 
(process-centric).
4. Xây dựng hệ thống cổng 
thông tin khoa học công 
nghệ ngành Ngân hàng
Hệ thống cổng thông tin KH-
CN ngành Ngân hàng hiện đã 
hoàn thành việc xây dựng và 
đang chạy thử nghiệm tại địa 
chỉ 
org.vn. Về bản chất đây là địa 
chỉ của Cổng thông tin điện tử 
(portal) được phát triển trên 
framework iSEAS do nhóm 
thực hiện đề tài phát triển, 
thực hiện trao đổi thông tin, dữ 
liệu với các hệ thống thông tin, 
đồng thời thực hiện cung cấp 
và trao đổi với người sử dụng 
thông qua một phương thức 
thống nhất trên nền tảng Web 
tại bất kỳ thời điểm nào và từ 
bất kỳ đâu. Dưới đây là hình 
ảnh một số modules chính 
của cổng thông tin. Do khuôn 
khổ của bài viết, các yếu tố 
kỹ thuật và công nghệ không 
được trình bày chi tiết.
4.1. Trang tin điện tử KH-
CN ngành Ngân hàng
Trang tin điện tử là địa chỉ 
trang Web đăng tải các thông 
tin KH-CN chính thức của 
Ngành. Các nhà khoa học sẽ 
được cung cấp tài khoản để 
tìm hiểu tra cứu, tìm hiểu các 
thông tin có liên quan đến hệ 
thống văn bản, quy định, quy 
chế hoạt động KH-CN và các 
dữ liệu công trình, sản phẩm 
KH-CN của ngành Ngân hàng. 
Trang tin cũng là nơi cung cấp 
các bản tin, báo cáo chuyên đề 
của những nhóm nghiên cứu 
mạnh trong và ngoài Ngành. 
Đây cũng là nơi được kỳ vọng 
trở thành diễn đàn trao đổi, 
chia sẻ các quan điểm của các 
chuyên gia về những vấn đề 
đang quan tâm trong lĩnh vực 
tài chính- ngân hàng.
4.2. Khung cơ sở dữ liệu 
KH-CN ngành Ngân hàng
Nhóm thực hiện đề tài đã phối 
hợp với Viện CLNH tiến hành 
số hóa dữ liệu các nhà khoa 
học ngành Ngân hàng và toàn 
bộ dữ liệu nhiệm vụ KH-CN 
cấp Ngành được triển khai 
trong giai đoạn 2010-2015. 
Các dữ liệu này được cấp 
quyền truy cập từng phần hoặc 
toàn bộ cho từng nhóm người 
sử dụng phù hợp. Đặc biệt, hệ 
thống cung cấp khả năng tìm 
kiếm và tổng hợp dữ liệu cho 
chuyên viên quản lý và lãnh 
đạo NHNN nhằm tăng khả 
năng kiểm soát và giúp nâng 
cao chất lượng công tác quản 
lý KH-CN của Ngành.
4.3. Hệ thống quy trình 
quản lý hoạt động KH-CN 
Hình 6. 
Phân hệ Tin tức khoa học công nghệ của Cổng thông tin
75
hướng tới 55 năm học viện ngân hàng (1961 - 2016)
thaùng 12.2015 - soá 163
ngành Ngân hàng
Hiện tại, theo yêu cầu của đơn 
vị quản lý KH-CN của Ngành 
Hình 7. Dashboard điều khiển của hệ thống quản lý hoạt 
động khoa học công nghệ
là Viện Chiến lược, hoạt động 
quản lý được tổ chức theo hai 
quy trình chính là quy trình 
quản lý nhiệm vụ KH-CN và 
quy trình quản lý hội thảo- tọa 
đàm. Dữ liệu của các quy trình 
được biểu diễn thông qua một 
bảng điều khiển (dashboard) 
và được truy xuất theo các 
chức năng đã được phân quyền 
cho từng nhóm đối tượng.
Các cấu phần của Cổng thông 
tin KH-CN Ngành đã được 
xây dựng gồm có cơ sở dữ 
liệu KH-CN của Ngành, phát 
triển giải pháp tin học hóa quy 
trình quản lý KH-CN, cung 
cấp công cụ tra cứu, phổ biến, 
chỉ đạo điều hành hoạt động 
KH-CN. Thông qua việc tin 
học hóa, việc quản lý hoạt 
động KH-CN của Ngành đã 
được quy trình hóa, đồng bộ 
hóa con người và dữ liệu. Việc 
đưa Cổng thông tin KH-CN 
Ngành vào hoạt động chính 
thức sẽ là công cụ quản lý 
nhằm cung cấp cho ban lãnh 
đạo ngân hàng, bộ phận quản 
lý khoa học, các đơn vị và cá 
nhân liên quan theo dõi những 
thông tin cần thiết về quá trình 
triển khai thực hiện các nhiệm 
vụ KH-CN kịp thời và chính 
xác. ■
Tài liệu Tham khảo
1. Nguyễn Thị Hiền; Lê Thị Thu Hiền- Hoạt động khoa học và công nghệ ngân hàng: Kết quả và thách thức; Ngân 
hàng Nhà nước Việt Nam, 2014.
2. MVC Model- ZK Framework- Potix Corporation [Website ]
3. Nguyễn Văn Vỵ- Phan Thanh Đức- Business Process Management- An Approach to Deploy the Web- based 
Software- Lecture Notes on Software Engineering, Vol. 2, No. 3, August 2014
Summary
The computerization of scientific anh technological activities management process in banking 
industry
To implement the Science and Technology Development Stratergy in 2011-2020, State Bank of Vietnam 
has actively promoted the scientific anh technological activities. As a result of scientific research activities 
are growing both in width and depth. There are thousands of Science and Technology products for diverse 
76
hướng tới 55 năm học viện ngân hàng (1961 - 2016)
soá 163 - thaùng 12.2015
categories: Topics, projects, proposals, papers, publications... of many scientists in and outside the industry. 
In fact, the management of science and technology activities are being conducted largely in accordance 
with the manual method, the data is stored via text or discrete files. With strong development of science and 
technology activities, the management, aggregate and research the information manually serving the science 
and technology activities operation at State Bank of Vietnam are no longer suitable. The paper analyzes the 
need for computerization of scientific anh technological activities management process in banking industry 
and presents technology solutions for this problem.
Thông Tin Tác giả
Phan Thanh Đức, Tiến sĩ
Đơn vị công tác: Khoa Hệ thống Thông tin Quản lý, Học viện Ngân hàng
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Hệ thống thông tin quản lý
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: 
Email: ducpt@bav.edu.vn
Nhóm thực hiện Đề tài “Xây dựng cổng thông tin KH-CN ngân hàng 2015”:
Chu Văn Huy, Thạc sỹ
Đơn vị công tác: Học viện Ngân hàng
Vũ Trọng Sinh, Thạc sỹ
Đơn vị công tác: Học viện Ngân hàng
Nguyễn Thanh Mai, Thạc sỹ
Đơn vị công tác: Học viện Ngân hàng
Lã Xuân Đảng 
Đơn vị công tác: Viện Chiến lược ngân hàng
An Phương Điệp 
Đơn vị công tác: Học viện Ngân hàng
Nguyễn Thanh Tùng
Đơn vị công tác: NHTM Công Thương Việt Nam
cần kiến nghị Chính phủ có 
chính sách cụ thể hỗ trợ tái 
canh cà phê như hỗ trợ kinh 
phí cho các nội dung như quy 
hoạch, kế hoạch, xây dựng 
vườn giống, cây giống, hoàn 
thiện quy trình kỹ thuật. Chính 
sách miễn thuế hoặc giảm 
thuế, tiền thuê đất cho các 
doanh nghiệp cần có trong thời 
gian thực hiện cải tạo đất, tái 
canh đất ở dạng kiến thiết cơ 
bản.
4. Kết luận
Diện tích cà phê già cỗi, sinh 
trưởng kém, cùng với sự ảnh 
hưởng của thời tiết bất thường, 
hạn hán, sâu bệnh, sử dụng 
phân bón không đúng chất 
lượng đã tác động đến năng 
suất, chất lượng cũng như 
ảnh hưởng đến thu nhập và 
đời sống của người trồng cà 
phê. Do đó, cải tạo diện tích 
đất cà phê giá cỗi, nâng cao 
năng suất và chất lượng cà phê 
là vấn đề luôn được các cấp 
chính quyền, các tổ chức và 
người trồng cà phê quan tâm. 
Việc tái canh cà phê cần được 
kiểm soát và có sự tham gia 
tích cực của các cấp, ngành có 
liên quan để việc tái canh thực 
sự có hiệu quả. Đối với ngành 
Ngân hàng, việc khắc phục 
nhưng hạn chế hiện tại sẽ góp 
phần đưa nguồn vốn vay đến 
gần hơn với hộ nông có nhu 
cầu tái canh, đẩy nhanh quá 
trình tái canh một cách hiệu 
quả nhất. ■
tiếp theo trang 51

File đính kèm:

  • pdftin_hoc_hoa_quy_trinh_quan_ly_hoat_dong_khoa_hoc_cong_nghe_n.pdf