Tôn giáo ở Nam Bộ và những xu hướng phát triển trong thời kỳ đổi mới

Tóm tắt: Nam Bộ là vùng đa dạng tôn giáo do tiếp nhận những

tôn giáo từ các nơi trong nước truyền đến, từ ngoài nước truyền

vào và bản thân người Nam Bộ cũng lập ra nhiều tôn giáo. Sau

khi thống nhất đất nước năm 1975, các tôn giáo đều có những

bước phát triển và cũng có những biến đổi sâu sắc theo chiều

hướng “đồng hành cùng dân tộc”, “tuân thủ luật pháp Nhà

nước”, ngày càng tích cực tham gia các hoạt động an sinh xã

hội. Tuy nhiên, nhiều hoạt động tôn giáo có yếu tố phức tạp,

tiềm ẩn nguy cơ có thể gây mất ổn định vẫn cần phải điều chỉnh

theo pháp luật.

pdf 12 trang yennguyen 4920
Bạn đang xem tài liệu "Tôn giáo ở Nam Bộ và những xu hướng phát triển trong thời kỳ đổi mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tôn giáo ở Nam Bộ và những xu hướng phát triển trong thời kỳ đổi mới

Tôn giáo ở Nam Bộ và những xu hướng phát triển trong thời kỳ đổi mới
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 123 
TRẦN HỮU HỢP* 
TÔN GIÁO Ở NAM BỘ VÀ NHỮNG XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN 
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
Tóm tắt: Nam Bộ là vùng đa dạng tôn giáo do tiếp nhận những 
tôn giáo từ các nơi trong nước truyền đến, từ ngoài nước truyền 
vào và bản thân người Nam Bộ cũng lập ra nhiều tôn giáo. Sau 
khi thống nhất đất nước năm 1975, các tôn giáo đều có những 
bước phát triển và cũng có những biến đổi sâu sắc theo chiều 
hướng “đồng hành cùng dân tộc”, “tuân thủ luật pháp Nhà 
nước”, ngày càng tích cực tham gia các hoạt động an sinh xã 
hội. Tuy nhiên, nhiều hoạt động tôn giáo có yếu tố phức tạp, 
tiềm ẩn nguy cơ có thể gây mất ổn định vẫn cần phải điều chỉnh 
theo pháp luật. 
Từ khóa: Tôn giáo, đa dạng, Nam Bộ, xu hướng phát triển. 
Dẫn nhập 
Nam Bộ là vùng đất mới so với bề dầy lịch sử của dân tộc, là vùng đất 
nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, có bờ biển dài, nhiều bến cảng, sông ngòi, 
rất thuận lợi cho việc giao lưu với các nước, các vùng miền trong khu 
vực và trên thế giới. Tính mở của một vùng đất mới góp phần tạo nên 
phong cách người Nam Bộ: năng động, sáng tạo, nhạy bén, dám nghĩ, 
dám làm, dễ tiếp thu cái mới. Từ vị thế địa lý, văn hóa của Nam Bộ, đã 
làm cho cho nơi đây trở thành trung tâm giao lưu và tiếp biến văn hóa, là 
điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo từ nơi khác truyền đến. Nam Bộ có 
môi trường sinh thái đa dạng, phong phú: có núi có rừng, có sông có biển 
và đồng bằng. Quan niệm dân gian cho rằng vùng Thất Sơn cùng với 
dòng Cửu Long giang hợp thành “sơn cao, thủy thâm” đã tạo nên huyệt 
“chỉ sơn”, nơi chung tụ khí thiêng của đất trời, sông núi. Từ xa xưa, cư 
dân Nam Bộ gọi vùng “linh địa” này là Bửu Sơn (núi quý), nơi âm - 
dương hòa hợp, nơi xuất hiện những nhân vật hiển linh cứu đời1. 
*
 TS., Học viện Chính trị Khu vực IV. 
124 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 
1. Đặc điểm tôn giáo ở Nam Bộ 
1.1. Những tôn giáo từ phía Bắc truyền vào Nam Bộ 
Trong quá trình di cư vào khai mở vùng đất Nam Bộ, các di dân 
đã mang theo những tôn giáo nơi quê cha đất tổ từ Miền Bắc và 
Miền Trung đến vùng đất mới như Phật giáo2. “Vị thiền sư được sách 
sử công nhận Sơ tổ của đất Nam Bộ là Thiền sư Bổn Kiểu, khai sơn 
chùa Long Thiền (nay tọa lạc tại số K2/3B ấp Tân Bình, phường Bửu 
Hòa, Tp. Biên Hòa, Đồng Nai) vào năm 1664. Rồi từ đó, những ngôi 
chùa liên tiếp được mọc lên như: chùa Đại Giác (ấp Nhị Hòa, xã Hòa 
Hiệp, tỉnh Đồng Nai), chùa Bửu Phong (ấp Bửu Long, xã Tân Bửu, 
tỉnh Đồng Nai). Từ đây, Phật giáo lan tỏa xuống các vùng lân cận 
như Sông Bé với chùa Hội Khánh (1741), Long Hưng (cuối thế kỷ 
XVIII). Ở Gia Định với chùa Phước Tường (1741), Giác Lâm 
(1744), Từ Ân (1752), Khải Tường, Kim Chương...”3. Từng bước, 
Phật giáo lan tỏa ra khắp Nam Bộ. Trong quá trình phát triển tại Nam 
Bộ, Phật giáo đã được chấn hưng và biến hóa rất đa dạng, như lời 
nhận xét sau đây của Hòa thượng Thích Hiển Pháp: không có nơi 
nào trên đất nước ta, Phật giáo lại có nhiều tông môn, hệ phái như 
Nam Bộ: Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Nam tông Khmer, Phật giáo 
Nam tông người Kinh, Phật giáo Khất sĩ, Phật giáo Hoa tông, hệ phái 
Thiền Trúc Lâm,... 
Công giáo đến Nam Bộ vào khoảng năm 1670. Qua nghiên cứu các 
tài liệu lịch sử và các tư liệu sưu tập được từ các cuộc điều tra điền dã 
cho phép nhận định rằng người Việt theo Công giáo đã có mặt tại 
vùng đất đồng bằng sông Cửu Long cùng lúc với sự hình thành của 
cộng đồng người Việt tại đây. Hay nói một cách khác, người Việt theo 
Công giáo đã có mặt trong số những lưu dân đến từ vùng Thuận 
Quảng, vào khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long4. Nhiều giáo xứ 
được thành lập như Cái Mơn năm 1702 (Bến Tre), Chợ Quán năm 
1720 (Sài Gòn), Cái Nhum năm 1730 (Bến Tre), Bãi San năm 1750 
(Trà Vinh), Phước Hảo năm 1754 (Trà Vinh), Cù Lao Giêng năm 1778 
(An Giang), Bò Ót năm 1779 (Cần Thơ). Công giáo phát triển mạnh ở 
Nam Bộ giai đoạn thực dân Pháp đô hộ Việt Nam và dưới thời Ngô 
Đình Diệm. Cuộc di cư năm 1954 của hơn nửa triệu người Công giáo 
từ Miền Bắc vào Miền Nam, chủ yếu được định cư tại Hố Nai, Gia 
Trần Hữu Hợp. Tôn giáo ở Nam Bộ... 125 
Kiệm, Sài Gòn, Gia Định và các dinh điền ở đồng bằng sông Cửu 
Long làm cho Công giáo Nam Bộ phát triển nhanh đột biến. 
1.2. Những tôn giáo từ nước ngoài truyền vào Nam Bộ 
Tính mở của vùng đất mới làm cơ sở cho Nam Bộ tiếp thu những 
tôn giáo từ ngoài truyền vào. Minh Sư đạo do Trưởng lão Đông Sơ 
Trương Đạo Dương từ Quảng Đông, Trung Quốc truyền vào Chợ 
Lớn, lập tại Cầu Kho một Phật Đường gọi là Chiếu Minh Phật Đường 
(không rõ năm nào -TG), xây dựng Quảng Tế Phật Đường tại Hà Tiên 
năm 18635. Ban đầu, Minh Sư đạo được truyền bá trong cộng đồng 
người Hoa ở Nam Bộ, về sau được phát triển mở rộng sang các dân 
tộc khác. 
Tin Lành được các giáo sĩ của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên Hiệp 
(The Christian and Missionary Alliance) truyền giáo từ Mỹ vào Đà 
Nẵng năm 1911, phát triển vào Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ, và hoạt 
động mạnh vào những năm đế quốc Mỹ thực hiện chính sách thực dân 
kiểu mới ở Miền Nam Việt Nam. 
Đạo Bhai'i do một phụ nữ Ấn Độ truyền vào Sài Gòn năm 19546. 
Một vài tộc người thiểu số có mặt sớm ở Nam Bộ như Khmer, Chăm 
đã đóng góp vào sự đa dạng tôn giáo bằng những tôn giáo riêng của 
tộc người đó là Islam giáo, Bàlamôn giáo trong người Chăm và Phật 
giáo Nam tông trong đồng bào Khmer. 
1.3. Những tôn giáo ra đời tại Nam Bộ 
Nam Bộ là vùng đất đã sản sinh ra nhiều tôn giáo như Bửu Sơn 
Kỳ Hương do Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên sáng lập năm 
18497 tại vùng Thất Sơn, An Giang. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa do Đức 
Bổn Sư Ngô Lợi thành lập năm 18678 tại vùng Bảy Núi, An Giang. 
Phật giáo Hòa Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ sáng lập năm 1939 tại 
làng Hòa Hảo, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An 
Giang. Cả 3 tôn giáo này đều lấy giáo pháp Học Phật - Tu Nhân 
làm pháp môn tu hành. 
Minh Lý đạo Tam tông miếu ra đời tại Sài Gòn năm 1924. Sáu vị 
chức sắc có công khai đạo Minh Lý gồm: ông Âu Kiệt Lâm, pháp 
danh Minh Chánh; ông Nguyễn Văn Xưng, pháp danh Minh Giáo; 
ông Nguyễn Văn Đề, pháp danh Minh Đạo; ông Lê Văn Ngọc, pháp 
126 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 
danh Minh Truyền; ông Nguyễn Văn Miết, pháp danh Minh Thiện; 
ông Võ Văn Thạnh, pháp danh Minh Trực. “Đạo Minh Lý ra đời lấy 
Tam giáo làm tôn chỉ, dung hòa các tín ngưỡng, thực hiện cơ tận độ 
trong buổi hạ ngươn, tiếp tục và hoàn thành sứ mạng cho Chánh pháp 
để hướng dẫn nhơn sanh tự tu, tự độ tránh khỏi sanh tử khổ đau, thực 
hiện lòng từ bi, bác ái, bình đẳng xây dựng xã hội hòa bình, an lạc”9. 
Đạo Cao Đài khai đạo tại tỉnh Tây Ninh năm 192610. Tôn chỉ của 
đạo Cao Đài là Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi hợp nhất, lấy sự thương 
yêu làm nền tảng, lấy nhân nghĩa làm phương châm hành đạo. Giai 
đoạn từ 1935 đến 1975, đạo Cao Đài phát triển mạnh mẽ nhất nhưng 
cũng xảy ra tình trạng phân chia thành nhiều chi phái, như: Cao Đài 
Tây Ninh, Cao Đài Ban Chỉnh đạo, Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài 
Minh Chơn đạo, Truyền giáo Cao Đài, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan, 
Cao Đài Chơn lý, Cao Đài Chiếu Minh Long Châu, Cao Đài Bạch Y 
và pháp môn Chiếu minh Tam thanh Vô vi. Bên cạnh các tổ chức giáo 
hội, đạo Cao Đài còn có trên 20 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập 
không phụ thuộc vào các tổ chức Hội thánh nêu trên, như: Cao Đài 
Thượng đế, Cao Thượng Bửu Tòa, Nam Thành Thánh Thất, Cơ quan 
Phổ thông Giáo lý Đại đạo, Liên Hoa Cửu Cung Thiên đạo học 
đường, Thánh tịnh Tân Minh Quang, Thánh tịnh Huỳnh Quang Sắc, 
Thánh tịnh Thiên Trước, Thánh thất Bàu Sen. 
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam do ông Nguyễn Văn Bồng, người 
quê Sa Đéc sáng lập năm 193411, về sau ông được tín đồ tôn vinh là 
Đức Tông sư Minh Trí. Pháp môn của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt 
Nam là Phước Huệ song tu. Đức Tông sư Minh Trí chủ trương làm 
phước để tạo duyên cho bá tánh đến với Phật pháp. Để thực hiện pháp 
môn này, mỗi Hội quán Tịnh độ Cư sĩ có phòng thuốc nam hốt thuốc 
trị bịnh miễn phí cho người bệnh, qua trị bịnh để truyền bá Phật pháp. 
Nhiều ông Đạo nổi lên một thời ở Nam Bộ như đạo Khùng, đạo 
Dừa, đạo Nằm, đạo Ngồi... nay đã lui vào quá khứ, nhưng những tổ 
chức mới mang màu sắc tôn giáo tiếp tục xuất hiện. 
Sự đa dạng của tôn giáo trên vùng đất Nam Bộ không chỉ thể hiện 
ở nhiều loại hình tôn giáo có mặt ở đây mà còn thể hiện ở sự đa dạng 
về tổ chức giáo hội, phong phú về lễ nghi tôn giáo, sự giao lưu, tiếp 
Trần Hữu Hợp. Tôn giáo ở Nam Bộ... 127 
biến và hỗn dung tôn giáo, tín ngưỡng rất đặc sắc. Nếu tiếp cận từ 
góc độ Chính trị học - Tôn giáo, thì tôn giáo Nam Bộ trước 1975 đã 
bị các thế lực chính trị lợi dụng làm cho các hoạt động tôn giáo đan 
xen với hoạt động chính trị rất phức tạp, đảng phái chính trị, quân 
đội được thành lập trong một số tôn giáo. Nhưng cũng tại vùng đất 
Nam Bộ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào 
yêu nước của đồng bào các tôn giáo vùng giải phóng trong thời kỳ 
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng rất mạnh mẽ 
với nhiều tấm gương tiêu biểu như cụ Cao Triều Phát, Hội trưởng 
Cao Đài Cứu quốc 12 phái hiệp nhất, Chưởng quản Cửu Trùng Đài 
Hội thánh Cao đài Duy nhất, Đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân 
chủ Cộng hòa; Linh mục Võ Thành Trinh là đại biểu Quốc hội Việt 
Nam từ khóa V đến khóa VIII. Ông cũng là Chủ tịch Ủy ban Đoàn 
kết Công giáo Việt Nam. 
2. Những xu hướng biến đổi của tôn giáo ở Nam Bộ 
Theo số liệu thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, vào thời điểm 
giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước (1975), Việt Nam có 12 
tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tin 
Lành, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tịnh độ Cư sĩ, Minh 
Lý đạo Tam tông miếu, Minh Sư đạo, Bàlamôn giáo, Islam giáo), 37 
tổ chức giáo hội (Phật giáo 9 hệ phái, Cao Đài 12 hệ phái, Tin Lành 7 
hệ phái, Công giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ 
Cư sĩ, Bhai'i, Bàlamôn giáo, Islam giáo, Minh Sư đạo, Minh Lý đạo); 
21.000 cơ sở thờ tự, 30.000 chức sắc và khoảng 10 triệu tín đồ. Bốn 
mươi năm qua, tôn giáo ở Việt Nam nói chung, ở Nam Bộ nói riêng 
đang có những biến đổi sâu sắc, thể hiện trên nhiều lĩnh vực: 
2.1. Sự phát triển về số lượng 
Theo số liệu thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2013 cả 
nước có 24 triệu tín đồ (tăng 2,4 lần so với 1975); có 83.000 chức sắc 
(tăng 2,7 lần so với 1975); có 25.000 cơ sở thờ tự (tăng 1,2 lần so với 
1975); có 12 tôn giáo (không tăng) nhưng có đến 120 tổ chức giáo hội 
đang hoạt động (tăng hơn 3 lần, chủ yếu là các hệ phái Tin Lành mới 
phát triển đến). Riêng trong 10 năm, từ 2003 đến 2013 sự phát triển về 
tín đồ các tôn giáo ở Nam Bộ như sau12: 
128 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 
Stt Tỉnh, 
thành phố 
Tín đồ 
2003 
Tín đồ 
2013 
1 Bà Rịa - Vũng Tàu 502.713 575.656 
2 Đồng Nai 1.269.957 1.731.565 
3 TP. Hồ Chí Minh 2.205.811 3.940.070 
4 Bình Dương 245.069 272.289 
5 Bình Phước 179.962 213.458 
6 Tây Ninh 520.043 746.233 
7 Long An 166.319 399.138 
8 Cần Thơ 410.000 467.984 
9 Sóc Trăng 566.863 632.462 
10 Vĩnh Long 240.657 275.630 
11 Kiên Giang 497.622 497.301 
12 Trà Vinh 475.948 550.412 
13 Bến Tre 198.920 223.920 
14 Bạc Liêu 128.000 366.320 
15 Cà Mau 333.406 373.327 
16 An Giang 1.470519 1.790.428 
17 Tiền Giang 118.544 221.253 
18 Đồng Tháp 268.230 340.220 
19 Hậu Giang 155.486 200.423 
 TỔNG CỘNG 9.963.069 13.818.089 
Như vậy, trong 10 năm (2003-2013) tín đồ các tôn giáo ở Nam Bộ 
tăng 3.855.020 người, bình quân 1 năm tăng 3,68%, cao hơn tỷ lệ gia 
tăng dân số của cả nước và khu vực (Tỷ lệ tăng dân số cả nước năm 
2011 là 1,04%; tỷ lệ tăng dân số của Đông Nam Bộ là 2,27%; Tây 
Nam Bộ là 0,39%; Nguồn: Website Tổng cục Thống kê). Tỷ lệ tín đồ 
các tôn giáo so với dân số Nam Bộ năm 2013 là 42% (Nguồn: số liệu 
thống kê của Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố Nam Bộ), cao hơn tỷ lệ 
tín đồ các tôn giáo cả nước so với dân số cả nước 15% (Tỷ lệ tín đồ cả 
nước so với dân số cả nước 27%, Nguồn: Thống kê của Ban Tôn giáo 
Chính phủ). 
Sự phát triển của các tôn giáo ở Nam Bộ trong những năm qua còn 
thể hiện ở việc nhiều cơ sở thờ tự được xây dựng, trùng tu; nhiều hoạt 
động lễ hội tôn giáo diễn ra thu hút đông đảo người tham gia; mối 
quan hệ quốc tế của các tôn giáo trong vùng càng ngày càng mở rộng: 
nhiều chức sắc trong vùng ra nước ngoài du học, hoạt động tôn giáo 
và trong vùng cũng đón tiếp nhiều đoàn tôn giáo nước ngoài vào giao 
lưu, truyền đạo. Hệ phái Phật giáo Thiền Trúc lâm phát triển mạnh ở 
Trần Hữu Hợp. Tôn giáo ở Nam Bộ... 129 
Nam Bộ, nhiều Thiền viện được xây dựng, như: Thiền viện Thường 
Chiếu (1986) ở Đồng Nai, Thiền viện Huệ Chiếu (1979) ở Bà Rịa - 
Vũng Tàu, Thiền viện Linh Chiếu (1980) ở Đồng Nai, Thiền viện Phổ 
Chiếu (1982) ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Thiền viện Trúc lâm Hộ Quốc 
(2012) ở Phú Quốc, Thiền viện Trúc lâm Phương Nam (2014) ở Cần 
Thơ, Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác (2015) ở Tiền Giang, Thiền 
viện Trúc Lâm Trà Vinh (2016),... 
2.2. Sự biến đổi tính chất chính trị trong tôn giáo ở Nam Bộ 
Tôn giáo ở Nam Bộ trước năm 1975 do bị các thế lực chính trị lợi 
dụng nên tính chính trị tiêu cực trong các tôn giáo rất đậm nét. Sau 
năm 1975, thời kỳ đầu, nhiều vụ án phản cách mạng đã diễn ra liên 
quan đến Công giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài Tây Ninh,.... Nhưng 
với chính sách “Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” của Đảng và 
Nhà nước, thành tựu của công cuộc đổi mới tác động đã làm cho các 
tôn giáo đang có những biến đổi sâu sắc theo chiều hướng “đồng hành 
cùng dân tộc”, “tuân thủ luật pháp Nhà nước”. 
Phật giáo là tôn giáo có truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc 
từ lâu đời. Truyền thống quý báu này đang được Phật giáo Việt Nam 
tiếp tục bảo tồn và phát huy trong giai đoạn mới. Tại Đại hội thành lập 
Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 1981, Hiến chương của Giáo hội đã 
xác định đường hướng Phật sự của Phật giáo Việt Nam là “Đạo pháp - 
Dân tộc - Chủ nghĩa Xã hội”13. Đường hướng này được Hiến chương 
các nhiệm kỳ tiếp theo tiếp tục khẳng định và được tăng ni, Phật tử 
Nam Bộ tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao. 
Phật giáo Hòa Hảo trước năm 1975 là một tôn giáo bị các thế lực 
chính trị phản động lợi dụng, thành lập đảng phái chính trị, quân đội 
trong tôn giáo, hoạt động chính trị đan xen với hoạt động tôn giáo rất 
phức tạp. Nhưng đến năm 1999, Đại hội Đại biểu tín đồ Phật giáo Hòa 
Hảo lần thứ I đã xác định đường hướng hành đạo của Phật giáo Hòa 
Hảo là “Vì đạo pháp, Vì dân tộc”14, tôn chỉ hành đạo là “Học Phật, Tu 
Nhân” tại gia cư sĩ... tích cực cứu giúp người nguy khó, tương trợ 
trong quan, hôn, tang, tế và hoạt động từ thiện hữu ích cho xã hội, cho 
chúng sinh. Đường hướng này đang được tín đồ Phật giáo Hòa Hảo 
thực hiện đạt kết quả tốt. 
130 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 
Hiến chương của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) cũng 
đề ra đường hướng hoạt động “Sống Phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, 
phục vụ tổ quốc và dân tộc”15. 
Các tôn giáo khác cũng đề ra tôn chỉ hành đạo. Với Cao Đài là 
“Phụng đạo, Yêu nước”; với Bhai'i là “Cộng đồng tôn giáo Bhai'i Việt 
Nam hoạt động tuân thủ pháp luật Việt Nam, nêu cao tinh thần đoàn 
kết, hòa hợp dân tộc, tôn giáo; phấn đấu vì sự phát triển kinh tế, xã hội 
của đất nước, vì nền văn minh của nhân loại”16; của Hội Thánh Báp tít 
Việt Nam (Nam Phương) là “Sống Phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, 
phục vụ Tổ quốc, gắn bó Dân tộc và tuân thủ Luật pháp”17.... Những 
đường hướng hành đạo trên vừa là kim chỉ nam cho hoạt động của 
giáo hội, vừa là động lực thúc đẩy tín đồ các tôn giáo sống “tốt Đời, 
đẹp Đạo”. 
Từ 1975 đến nay, ngoài những vụ án phản cách mạng liên quan đến 
tôn giáo diễn ra vào những năm mới giải phóng Miền Nam đã được 
giải quyết theo quy định của luật pháp, có một vài điểm nóng liên 
quan đến việc lợi dụng Phật giáo Nam tông Khmer để gây rối ở Sóc 
Trăng và Trà Vinh. Nhìn chung càng về sau, nhất là từ sau khi Đảng ta 
có chủ trương đổi mới về công tác tôn giáo, hoạt động của giáo hội 
các tôn giáo ở Nam Bộ càng thực hiện nếp sống đạo “tuân thủ luật 
pháp nhà nước”. 
2.3. Xu hướng nhập thế của các tôn giáo ở Nam Bộ 
Ngày nay, các tôn giáo ở Nam Bộ cũng đang biến đổi theo hướng 
gắn bó hơn với đời sống hiện thực, tham gia vào những vấn đề khó 
khăn mà đời sống xã hội đang đặt ra để góp phần giải quyết, xây dựng 
một xã hội tốt đẹp hơn tại trần gian. Các tôn giáo có một điểm chung 
là giáo lý các tôn giáo đều giáo dục người tín đồ yêu thương con 
người. Đó là lòng từ bi của Đức Phật được thấm nhuần từ lâu đời 
thành truyền thống Phật giáo Việt Nam: “Từ bi hỉ xả, vô ngã vị tha, lợi 
lạc quần sanh”. Đó là pháp môn Học Phật - Tu Nhân của Bửu Sơn Kỳ 
Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo, trong đó nhấn mạnh 
phần Tu Nhân, dạy phải tu tâm sửa tánh để thành người tốt, phải hiếu 
thảo với ông bà, cha mẹ, yêu thương đồng bào, nhân loại. Đó là tư 
tưởng kính Chúa - yêu Người của Công giáo, với thước đo là phải yêu 
người bằng mình và phải yêu thương cả kẻ thù ghét mình. Những tư 
Trần Hữu Hợp. Tôn giáo ở Nam Bộ... 131 
tưởng ấy của giáo lý các tôn giáo là một nhân tố quan trọng tác động 
ảnh hưởng để làm đậm nét thêm tính cách nhân ái của người Việt 
Nam. Lòng nhân ái này còn được cộng hưởng bởi niềm tin tôn giáo: 
người tín đồ tôn giáo tin tưởng sâu sắc rằng việc làm từ thiện của họ 
sẽ được các đấng bề trên ghi công và thưởng công cho họ ở cuộc sống 
đời sau. Những mặt tích cực này của các tôn giáo đã và đang được 
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các địa phương phát huy làm 
cho sự đóng góp của các tôn giáo vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới 
ngày càng nhiều về số lượng và đa dạng trên nhiều lĩnh vực của đời 
sống xã hội. 
2.4. Xu hướng cải giáo 
Do có nhiều tôn giáo cùng tồn tại ở Nam Bộ nên quá trình truyền 
giáo và thực hành tôn giáo dẫn đến giao lưu văn hóa tôn giáo, đồng 
thời cũng có những xung đột do sự khác nhau về niềm tin tôn giáo. 
Người dân trong vùng cũng có nhiều lựa chọn để tìm cho mình một 
tôn giáo phù hợp. Điều đó tất yếu dẫn đến sự cải giáo. Hình thức cải 
giáo khá phổ biến hiện nay là qua hôn nhân và chủ yếu diễn ra với 
Công giáo và Tin Lành. Tín đồ của các tôn giáo này khi kết hôn với 
người ngoài tôn giáo thường thuyết phục đối tác vào đạo của mình. 
Một số tôn giáo sử dụng công việc từ thiện xã hội như một phương 
thức quan trọng để truyền giáo. Kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo Tây 
Nam Bộ tại vùng Tây Nam Bộ năm 2015 cho thấy nhiều hệ phái Tin 
Lành phát triển và truyền giáo vào dân tộc Khmer, đã có 1.978 người 
Khmer theo Tin Lành trong tổng số 67.637 tín đồ Tin Lành ở vùng 
Tây Nam Bộ18. 
Cũng theo số liệu thống kê của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, năm 
2015 khu vực Tây Nam Bộ có 2.816 người Khmer theo Công giáo, 
phân bổ như sau: 4/13 tỉnh, thành khu vực Tây Nam Bộ có tín đồ 
Công giáo là người Khmer, đông nhất là tỉnh Sóc Trăng 1.814 người, 
kế đến là Kiên Giang: 556 người, Trà Vinh: 364 người, Cần Thơ: 82 
người. Các tỉnh còn lại không có tín đồ Công giáo là người Khmer 
hoặc có nhưng chưa thống kê được. Tỷ lệ người Khmer theo Công 
giáo chiếm 0,39% tín đồ Công giáo khu vực Tây Nam Bộ, chiếm tỷ lệ 
0,23% so với số dân Khmer trong khu vực. 
132 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 
Như vậy, đã có một số lượng khá đông người Khmer bỏ tôn giáo 
truyền thống là Phật giáo Nam tông để theo Công giáo và Tin Lành. 
Các tôn giáo nội sinh thực hành tôn giáo đơn giản, ít điều cấm kỵ, 
ít tốn kém, rất phù hợp với tâm lý phóng khoáng của người nông dân 
Nam Bộ, do đó, khi mới ra đời các tôn giáo nội sinh đã nhanh chóng 
thu hút được nhiều nông dân trong vùng theo đạo. Tuy nhiên, lực 
lượng chức sắc, chức việc của các tôn giáo nội sinh hiện nay không 
được đào tạo chuyên nghiệp nên khả năng thuyết pháp, phát triển tín 
đồ là rất ít. 
2.5. Sự xuất hiện các “tôn giáo mới” và “tà đạo” 
Bên cạnh những tôn giáo được Nhà nước công nhận, hoạt động hợp 
pháp, thời gian gần đây, một số tổ chức mới hoạt động mang màu sắc 
tôn giáo xuất hiện ở Nam Bộ, như: 
1) Vô Vi pháp do Chín Muôn thành lập tại Cần Thơ; 
2) Đạo Tam Cấp hay còn gọi là Ngôi Tam bảo do Lê Văn Đúng, sinh 
năm 1932, quê quán tại Bình Đức, Long Xuyên, An Giang sáng lập; 
3) Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương do Nguyễn Văn Bá, quê xã Tân 
Bình, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh tổ chức và hoạt động; 
4) Pháp Môn Diệu Âm do Trần Tâm (Saint John, Việt kiều Mỹ), 
quê tại Kiên Giang sáng lập; 
5) “Huesa” hay còn gọi là (Truyền năng lượng) do Mai Hữu Phúc, 
quê quán 157/17 thị trấn Kinh Cùng, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu 
Giang là người sáng lập; 
6) Vô vi Khoa học huyền bí Phật pháp do Đỗ Tuần Hậu quê ở Sa 
Đéc, Đồng Tháp, sống ở Sài Gòn sáng lập19 
Đặc biệt cần lưu ý những tổ chức hoạt động mang màu sắc tôn 
giáo, có nội dung chống Đảng, chống Nhà nước cũng đang phát triển 
ở Nam Bộ, đó là Thanh Hải Vô thượng sư của Đặng Thị Trinh và 
Pháp Luân Công của Lý Hồng Chí. 
3. Kết luận 
Sự hình thành tính chất đa dạng, phong phú về tôn giáo của vùng 
Nam Bộ là do những điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử của vùng 
quy định. Với tính chất là một phạm trù lịch sử, sự phát triển, biến 
Trần Hữu Hợp. Tôn giáo ở Nam Bộ... 133 
đổi của các tôn giáo là một tất yếu khách quan. Các tôn giáo ở Việt 
Nam nói chung, ở Nam Bộ nói riêng đang biến đổi theo chiều hướng 
những yếu tố tiến bộ, tích cực ngày càng nhiều hơn, các yếu tố chính 
trị tiêu cực ngày càng ít đi, hoạt động tôn giáo ngày càng gắn bó 
nhiều hơn với đời sống hiện thực ở trần gian. Tuy nhiên, những hoạt 
động có yếu tố phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ có thể gây mất ổn định liên 
quan đến tôn giáo vẫn còn tồn tại, cần tiếp tục điều chỉnh theo quy 
định của pháp luật./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Dương Văn Khá, Giới thiệu khái quát về đạo Bửu Sơn kỳ hương, 
2 Trần Hồng Liên (1996), Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975, Nxb. Tp. Hồ 
Chí Minh. 
3 Thích Hiển Pháp, Phật giáo Nam Bộ nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Tp. Hồ 
Chí Minh,  
4 Trần Hữu Hợp (2012), Cộng đồng người Việt Công giáo đồng bằng sông Cửu 
Long - Lịch sử hình thành và quá trình hội nhập văn hóa, Nxb. Tôn giáo, Hà 
Nội: 29. 
5 Nguyễn Ngọc Huấn, Giới thiệu về Ngũ chi Minh đạo và Minh sư đạo tại Việt 
Nam,  
6 Nguyễn Xuân Huân, Giới thiệu khái quát về tôn giáo Baha’i, 
7 Dương Văn Khá, Giới thiệu khái quát về đạo Bửu Sơn kỳ hương, 
8 Trần Minh Thu, Đôi nét về đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa,  
9 Nguyễn Hồng Dương, Minh Lý đạo - Tam tông miếu tự tu, tự độ hướng tới một 
xã hội hòa bình, an lạc,  
10 Nguyễn Thị Diệu Thúy, Giới thiệu khái quát về đạo Cao đài, 
11 Hồng Điệp, Khái quát về Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, 
12 Nguồn số liệu thống kê của Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố Nam Bộ năm 
2013. 
13 Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2008: 3. 
14 Quy chế Phật giáo Hòa Hảo - Tổ chức và hoạt động của Ban Đại diện Phật giáo 
Hòa Hảo, An Giang, 1999. 
15 Hiến chương Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam). 
16 Hiến chương Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam, chương I, điều 3. 
17 Hiến chương Hội Thánh Báp tít Việt Nam (Nam Phương), Nxb. Tôn giáo, Hà 
Nội, 2009: 3. 
18 Số liệu thống kê năm 2015 của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ. 
134 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 
19 Phan Vũ Hoài (2015), Quản lý nhà nước đối với hiện tượng tôn giáo mới ở tỉnh 
Cà Mau hiện nay, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Tôn giáo học, Học viện 
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hiến chương Cộng đồng tôn giáo Bhai’i Việt Nam, chương I, điều 3. 
2. Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2008. 
3. Hiến chương Hội Thánh Báp tít Việt Nam (Nam Phương), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 
2009. 
4. Phan Vũ Hoài (2015), Quản lý nhà nước đối với hiện tượng tôn giáo mới ở tỉnh 
Cà Mau hiện nay, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Tôn giáo học, Học viện Chính 
trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
5. Trần Hữu Hợp (2012), Cộng đồng người Việt Công giáo đồng bằng sông Cửu 
Long - Lịch sử hình thành và quá trình hội nhập văn hóa, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 
6. Trần Hồng Liên (1996), Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975, Nxb. Tp. Hồ 
Chí Minh. 
7. Nguồn số liệu thống kê của Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố Nam Bộ năm 2013. 
8. Quy chế Phật giáo Hòa Hảo - Tổ chức và hoạt động của Ban Đại diện Phật giáo 
Hòa Hảo, An Giang, 1999. 
9. Số liệu thống kê năm 2015 của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ. 
10. Website của Ban Tôn giáo Chính phủ:  
Abstract 
RELIGIONS IN THE SOUTH VIETNAM AND TRENDS OF 
DEVELOPMENT IN THE RENOVATION PERIOD 
There is a religious diversity in the South Vietnam by the reception 
of religions from the other regions of the country and from the foreign 
countries. Moreover, the Southern residents have also created many 
religions. After the unification in 1975, religions have been expanded 
and profoundly changed towards “accompanying with the nation”, 
“law-abiding of the State”, actively participated in the social security 
activities. However, many religious activities comprised complicated 
factors and potential risks which possibly lead to instability needed to 
adjust them to the law. 
Keywords: Religion; diversity; development trend; South Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfton_giao_o_nam_bo_va_nhung_xu_huong_phat_trien_trong_thoi_ky.pdf